CHÚA NHẬT Ngày 5 tháng
Giêng năm 2014
Lễ Hiển Linh
(phần I)
Bài
Ðọc I: Is 60, 1-6
"Vinh
quang Chúa xuất hiện trên ngươi".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Hãy
đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh
quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.
Kìa
tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi
Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ
lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.
Hãy
ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp,
đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con
gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông.
Bấy
giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng
lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư
dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc
đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng
và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 71, 2. 7-8. 10-11a. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa, mọi
dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa (x. c. 11b).
Xướng:
1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công
chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người
nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2)
Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến
khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển
kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.
3)
Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất
hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và
cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. - Ðáp.
4)
Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời.
Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.
- Ðáp.
Bài
Ðọc II: Ep 3, 2-3a. 5-6
"Bây
giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh
em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc
phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu
hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay
đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh
Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể
và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia:
Mt 2, 2
Alleluia,
alleluia! - Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng
tôi đã đến để triều bái Người. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 2, 1-12
"Chúng
tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo
sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới
sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông
phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối
rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại
giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ
tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri
đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết
trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người
đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".
Bấy
giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ
ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh
hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho
Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường.
Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và
đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi
tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống
sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ
hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã
qua đường khác trở về xứ sở mình.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Hạnh
Phúc Của Dân Chúa
Câu
chuyện các nhà đạo sĩ đi thờ lạy Chúa vừa hay vừa dễ hiểu; nhưng không phải vì
vậy mà hôm nay Lễ Ba Vua, cho dù chúng ta muốn đồng hóa các đạo sĩ với ba vua.
Phúc Âm không nói rõ con số người đi thờ lạy Chúa và nhất là những người ấy
không nhất thiết phải là vua. Có lẽ họ là những nhà chiêm tinh. Nhưng vì bài
Tin Mừng kể họ dâng 3 thứ lễ vật, nên người ta đã muốn có mỗi người mang một thứ
(?). Và khung cảnh câu chuyện một phần đã xảy ra trong đền vua, nên dân chúng dễ
coi họ là vua. Hơn nữa Thánh vịnh 72 nói đến các vua Tarsis, Ảrập và Saba đến
dâng lễ cho Chúa, lại thêm một cớ cho người ta khẳng định các người đến thờ lạy
Chúa trong câu chuyện hôm nay là các vua.
Dù
sao, nếu hiểu lễ hôm nay là lễ kính nhớ câu truyện các vua đi thờ lạy Chúa, thì
không đúng tí nào. Ngay từ đầu, Phụng vụ đã gọi tên ngày lễ hôm nay là Hiển
Linh, tức là Chúa vinh hiển hiện ra, tỏ mình cho chúng ta, mà việc soi sáng cho
lương dân đến thờ lạy chỉ là một diện, mặc dầu là diện quan trọng hơn cả. Như vậy
Chúa đã hiển linh khi giáng sinh, để cho người ta thấy Người nơi máng cỏ; Người
đã hiển linh cho các mục đồng và Người cũng đã hiển linh trong ngày chịu cắt bì
và nhận Tên là Yêsu. Nhưng hôm nay Phụng vụ nhấn mạnh đến việc Người tỏ mình ra
cho lương dân. Mà vì Giáo hội gồm hầu hết các dân tộc trước kia là lương dân,
nên Giáo hội mừng lễ này thật lớn, vì thấy Chúa thương yêu mình quá đỗi.
A.
Hạnh Phúc Của Dân Chúa
Hai
bài đọc Kinh Thánh đầu tiên nói lên hạnh phúc của Dân Chúa. Isaia say sưa nhìn
ngắm vinh quang của Yêrusalem. Ðang khi các dân tộc chìm đắm trong u tối, một
mình Yêrusalem nổi lên rực sáng. Không phải tự sức mình nhưng đó là ánh sáng của
Chúa chiếu soi, vinh quang của Người tỏa xuống. Các dân tộc liền châu về
Yêrusalem: nào thuyền bè từ đại dương, nào lạc đà từ sa mạc, chở muôn dân đến
thờ lạy Chúa.
Isaia
có bao giờ nhìn thấy một cảnh tượng tưng bừng như thế không? Lịch sử Israel được
mấy lúc như thời Salomon, là vua mà bà Saba nghe tiếng đã tìm tới? Chắc chắn
Isaia đã tiên báo về thời cứu thế. Những lời tiên tri của ông sẽ chỉ thực hiện
hoàn toàn khi, như lời Chúa nói: người phương Ðông phương Tây sẽ tuôn vào Nhà
Chúa, trong khi con cái trong nhà sẽ bị đuổi ra ngoài. Chỉ trong ngày Chúa
quang lâm mới thực hiện hoàn toàn những lời tiên tri trên.
Nhưng
hiện nay đã khởi sự thực hiện rồi! Ngôi sao đã đứng lại trên nhà Hài Nhi ở;
Yêrusalem bừng sáng chính là con người Ðức Kitô mà các đạo sĩ đến thờ lạy; và
việc muôn dân ngày nay gia nhập Giáo hội để thờ lạy Chúa làm chứng Hội Thánh là
Yêrusalem mới; mỗi giáo đoàn, mỗi nhà thờ, mỗi người tín hữu - đền thờ của Chúa
- là một Yêrusalem được rực sáng nhờ mang trong mình sự thánh thiện của Chúa.
Ðó là ân sủng đã được ban phát cho ta, như lời thư Phaolô nói; và là mạc khải đặc
biệt của Tân Ước.
Như
vậy, khi nói đến hạnh phúc của Dân Chúa, phải nghĩ đến vinh dự của người dân
tín hữu của hết thảy chúng ta, để mỗi người cảm mến hồng ân của Chúa đã đoái
thương chọn mình làm nơi cho Người hiển linh. Từ ngày chịu phép Rửa tội, mọi
tín hữu đã được trao cây nến cháy để trở thành ánh sáng của Chúa giữa thế gian,
để nên Yêrusalem rực sáng trước mắt tiên tri Isaia. Hôm nay chúng ta hãy nhận
ra vinh quang của mình, tức vinh quang của Chúa sáng trên ta, để chúng ta sáng
lên trước mắt mọi người.
Nhưng
đặc biệt chúng ta phải nghĩ đến Hội Thánh, đến các giáo hội và giáo đoàn. Chúng
ta phải cầu xin, phải xây dựng để mọi cộng đoàn Kitô giáo làm tròn sứ mệnh của
mình; trở nên các Yêrusalem rực sáng cho mọi người mang lễ vật đến thờ lạy
Chúa, kết hợp mọi dân vào gia nghiệp Lời Hứa. Và cho được như vậy, cho được có
những Giáo hội bừng sáng, phải có những đạo sĩ đi thờ lạy, phải có chúng ta nối
tiếp truyền thống các đạo sĩ. Và vì thế phải suy nghĩ câu truyện Tin Mừng hôm
nay.
B.
Các Ðạo Sĩ Ði Thờ Lạy Chúa
Các
bài tường thuật trong Phúc Âm thường vắn tắt, không thỏa mãn mọi thắc mắc vụn vặt
của ta. Các đạo sĩ kia từ bên Ðông tới nhưng thuộc nước nào? Hêrôđê đã cặn kẽ hỏi
họ về thời gian ngôi sao đã hiện ra khi nào, nhưng thánh Matthêô không ghi lại
câu trả lời. Và nhất là làm sao họ đã nhận ra ngôi sao lạ đó, biết ngay là dấu
chỉ một vua Dothái mới sinh ra, và vì sao lại phải thờ lạy vua đó? Thánh
Matthêô dường như không để ý đến những chi tiết chúng ta vừa nêu lên. Ngài chỉ
khẳng định một điều: các đạo sĩ tin chắc chắn Hài Nhi mới sinh là Vua và là
Chúa, tức là Chúa Cứu thế mà muôn dân trông đợi. Thế nên họ đã mang theo vàng,
nhũ hương và mộc dược làm lễ vật. Ðó là những sản phẩm quý giá của miền Ảrập,
dùng trong đền vua. Mà ở phương Ðông, vua cũng là chúa nên đền vua sơn son thiếp
vàng thường phảng phất mùi hương. Và mộc dược được dùng trong việc ướp hoặc liệm
xác các hoàng đế.
Các
đạo sĩ tin như vậy chỉ vì một ánh sao, đang khi các tư tế và luật sĩ Dothái có
sách Thánh và thuộc Thánh Kinh lại không nhận ra Chúa vừa giáng sinh. Ðó là điều
thánh Matthêô muốn nhấn mạnh trong bài trường thuật này, với một cảm tình chua
chát trong lòng. Ngài như muốn phác họa trước câu truyện tử nạn của Chúa ở đây.
Hêrôđê đóng vai chính quyền sẽ ra lệnh giết Chúa, nhưng chính hàng tư tế và luật
sĩ sẽ cung cấp cho ông tài liệu để thi hành tội ác kia. Trong khi đó, lương dân
được Ơn Chúa soi sáng, đã nhận biết Chúa và thờ lạy Người. Các đạo sĩ ở đây
tiêu biểu cho họ. Các ông diễn tả khuôn mặt đức tin của những người được Chúa
kêu gọi và soi sáng. Thấy ánh sao, các ông đã bỏ hết mọi suy nghĩ cũ kỹ, từ giã
mọi sự để lên đường hân hoan và đơn thật đến nỗi dường như không đoán biết ý đồ
đen tối của Hêrôđê, cũng như không ngần ngại sấp mình thờ lạy một Hài Nhi mà bề
ngoài xem ra chẳng có gì khác thường.
Chúng
ta có thể bắt chước niềm tin như vậy không?
C.
Nếp Sống Ðức Tin
Không
những chúng ta có thể mà còn phải bắt chước niềm tin của các đạo sĩ, vì mục
tiêu của ngày lễ hôm nay là vậy. Chúng ta chỉ cần từ bỏ thái độ của hàng tư tế
và luật sĩ Dothái là có thể theo chân các đạo sĩ. Thật ra, nếu không cẩn thận,
chúng ta luôn sống như các tư tế và luật sĩ Dothái. Như họ, chúng ta có Thánh
Kinh ở trong tay; chúng ta thuộc giáo lý của Chúa nữa; ai hỏi chúng ta tư tưởng
đạo đức nào, chúng ta có thể trả lời ngay. Nhưng chúng ta chẳng bao giờ thực
hành, chẳng muốn sống theo lời Chúa dạy bảo. Chúng ta chỉ muốn quên các đòi hỏi
của Tin Mừng để sống theo bản năng, dục vọng; cố gắng hưởng đời theo các phương
tiện ích kỷ. Chúng ta mất rồi lòng nhiệt thành của hồi được Chúa soi sáng, như
khi rước lễ lần đầu, chịu phép Thêm sức, hoặc Hôn phối, tĩnh tâm và được những
ơn đặc biệt. Những hồi ấy, chúng ta đã quên mình, chỉ nhiệt thành mến Chúa và
muốn cứu giúp các linh hồn, dấn thân xây dựng Giáo hội và xã hội theo công bình
bác ái. Thái độ nhiệt thành của những người mới theo đạo nhắc lại cho ta nhớ
tâm tình và nếp sống của mình trong những hồi sốt sắng kia. Và chắc chắn chúng
ta phải công nhận con người chúng ta lúc đó thật rực sáng, khác nào Yêrusalem
được bừng sáng dưới vinh quang của Chúa.
Xã
hội mới đang thúc giục ta từ bỏ con người và nếp sống cũ kỹ. Giáo hội Việt Nam
đang muốn vươn lên trong giai đoạn mới. Phụng vụ Thánh Thể luôn luôn đưa chúng
ta vào mầu nhiệm Phục sinh, tức là sống lại, sống mới. Mỗi Thánh lễ là một cuộc
hiển linh của Chúa. Ở đây, hương nến đang mời chúng ta đến thờ lạy Chúa. Phụng
vụ của chúng ta sẽ chân thật, khi bắt chước các đạo sĩ, hôm nay chúng ta ra về
"bằng con đường khác", tức là vào đời với thái độ mới, nhiệt thành
xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới để như lời thư Êphêsô: mọi dân, mọi người đồng
thừa kế, đồng tham dự, đồng chia sẻ Lời Hứa của Thiên Chúa nhờ Tin Mừng cứu độ
của Ðức Yêsu Kitô.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật Lễ Hiển Linh, Năm ABC
Bài đọc: Isa 60:1-6; Eph
3:2-3, 5-6; Mt 2:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Kitô là ánh
sáng cho muôn dân.
Đứng
trước cùng một biến cố xảy ra, con người có những phản ứng khác nhau, tùy thuộc
vào sự cần thiết và hy vọng của con người: có người dửng dưng, có người đàn áp,
và có người nhiệt thành đón nhận. Biến Cố Nhập Thể của Đức Kitô cũng thế, dù được
báo trước và dặn phải chuẩn bị sẵn sàng, nhiều người Do-Thái vẫn không chuẩn bị
để đón nhận Chúa Cứu Thế; nhưng các Mục-đồng và Ba Nhà Đạo Sĩ từ phương xa nhiệt
thành đi tìm và họ đã tìm thấy Đấng Cứu Thế.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I,
Tiên-tri Isaiah cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ ban Ơn Cứu Độ của Ngài như
vinh quang cho Jerusalem và như ánh sáng cho muôn dân. Trong Bài Đọc II, Thánh
Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu của ngài về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa.
Theo Mầu Nhiệm này, Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái như Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng
Cứu Thế ra đời; nhưng khi Ngài đến, Ngài sẽ ban Ơn Cứu Độ cho tất cả mọi người
qua niềm tin của họ vào Đức Kitô. Trong Phúc-Âm, Thánh Matthew tường thuật 3 phản
ứng chính của con người khi phải đối diện với Tin Mừng của Đấng Cứu Thế: thờ ơ
lạnh nhạt, lập kế tiêu diệt, và nhiệt thành đi tìm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Chúa Kitô là vinh quang của Israel và là ánh sáng cho muôn dân.
1.1/
Sự sáng của Thiên Chúa đã chiếu tỏa trên Jerusalem: “Đứng lên, bừng
sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh
chiếu toả trên ngươi.”
Chương
60 của Sách Tiên Tri Isaiah được viết sau thời gian Lưu Đày Babylon; lúc đó
Jerusalem còn là một thành trì hoang phế bởi chiến tranh. Vì thế, đọan văn này
không có ý nói về Thành Jerusalem cách thể lý, nhưng nói về một Jerusalem tinh
thần, tượng trưng cho dân tộc Israel. Người làm cho Jerusalem được đứng dạy, được
bừng sáng, là Thiên Chúa; chứ không phải dân tộc Israel. Ánh sáng và vinh quang
của Đức Chúa đây chính là Ơn Cứu Độ, mà Ngài đã hứa ban cho Jerusalem qua các
Tiên-tri. Ơn Cứu Độ nói tới ở đây không chỉ là việc giải thóat và cho dân
Israel được trở về Jerusalem từ chốn Lưu Đày Babylon; nhưng còn bao gồm cả việc
gỉai phóng Israel khỏi nô lệ của tội lỗi qua Đấng Thiên Sai.
Tác
giả nêu bật sự tương phản giữa ánh sáng của Jerusalem và bóng tối của chư dân
qua câu: “Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên
ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.”
Trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, người Do-Thái quan niệm: chỉ có họ mới là Dân
Riêng của Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng Ơn Cứu Độ; còn tất cả các dân tộc
khác (Dân Ngọai) là những người ngồi trong bóng tối tăm sự chết, và không được
hưởng Ơn Cứu Độ. Bóng tối và mây mù tác giả muốn nói tới ở đây là việc không biết
Thiên Chúa, không biết Ơn Cứu Độ, và không sống theo đường lối của Thiên Chúa.
1.2/
Chư dân từ khắp nơi sẽ tuôn đến Jerusalem: Nhưng một khi Đấng Cứu Thế tới, mọi sự đều đổi khác:
Ơn Cứu Độ không còn giới hạn trong dân tộc Israel, nhưng mở rộng tới mọi dân tộc
(còn được gọi chung là Dân Ngọai), như viễn tượng mà Tiên-tri Isaiah đã nhìn thấy
hôm nay: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng
về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều
tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được
ẵm bên hông.” Như đã nói ở trên, ánh sáng của Jerusalem chính là Ơn Cứu Độ của
Thiên Chúa. Ánh sáng này soi tỏa cho các dân tộc trên địa cầu, và mọi người sẽ
tuôn đến Jerusalem tinh thần để được hưởng Ơn Cứu Độ này. Tiên-tri Isaiah liệt
kê các thành phần tiến đến Jerusalem bao gồm: (1) Các vua chúa của các quốc
gia; và (2) các con trai và các con gái. Các người con này không có liên hệ với
Jerusalem bằng máu mủ, nhưng bằng niềm tin vào Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Khi
những điều này xảy ra, Jerusalem sẽ tràn đầy niềm vui như Tiên-tri loan báo:
“Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì
nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với
ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Median và Ephah: tất cả những người
từ Sheba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền
lời ca tụng Đức Chúa.” Trong thế giới thời đó, giàu sang được đo lường bằng những
đòan vật, và lạc đà được coi là thú vật có giá trị nhất trong việc di chuyển đồ
đạc qua sa mạc cho các quốc gia vùng Trung Đông. Theo Sáng Thế Ký 25:4, Ephah
là con trai của Midian, và là cháu của Jokshan, cha của Sheba. Sheba ngày nay
là Nước Yemen. Vàng và nhũ hương là 2 món hàng đắt nhất thời bấy giờ. Điều này
chúng ta sẽ đề cập tới trong Phúc Âm, khi Ba Vua dâng những quà này cho Chúa
Hài Đồng.
2/
Bài đọc II:
Các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái.
2.1/
Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Hẳn anh em đã được nghe biết về
kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người
đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt
trên đây.” Thánh Phaolô viết Thư này cho các tín hữu Philiphê, khi ngài đang bị
cầm tù tại Rome. Ngài nhắc lại cho họ biết về “kế họach ân sủng” mà Thiên Chúa
đã ủy thác cho ngài. Kế họach này bao gồm hai việc: biến cố trở lại trên đường
Damascus và sứ vụ rao truyền Tin Mừng cho Dân Ngọai được ủy thác cho ngài. Giữa
2 biến cố này là khỏang thời gian Thánh Phaolô đi vào tĩnh tâm trong sa mạc
Arabia, để được Thiên Chúa mặc khải về mầu nhiệm Đức Kitô cho thánh nhân. Sở dĩ
có sự kiện này là vì Thánh Phaolô đã không được giao tiếp với Đức Kitô như các
Tông-đồ khác khi Chúa Giêsu còn sống trên dương gian.
2.2/
Dân Ngọai cũng được thừa hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: “Mầu nhiệm này,
Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay
Người đã dùng Thánh Thần mà mặc khải cho các thánh Tông-đồ và Tiên-tri của Người.
Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các Dân Ngoại được cùng
thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia
sẻ điều Thiên Chúa hứa.” Qua những hàng vắn tắt này, Thánh Phaolô tường thuật
cho chúng ta biết 2 giai đọan chính của Mầu Nhiệm Cứu Độ: (1) Thiên Chúa chọn
Dân Do-Thái là Dân Riêng của Thiên Chúa để được huấn luyện và chuẩn bị cho Đấng
Cứu Thế đến; và (2) Khi Đấng Cứu Thế đến, Ơn Cứu Độ được lan rộng tới mọi người
qua việc rao truyền Tin Mừng và niềm tin của mọi người vào Đức Kitô. Qua việc
tuyên xưng đức tin và chịu Phép Rửa, tất cả cùng được tháp nhập vào thân thể của
Đức Kitô.
3/
Phúc Âm:
Con người phản ứng trước ánh sáng của Thiên Chúa.
3.1/
Con người buộc phải có thái độ trước Tin Mừng về Đức Kitô: Thiên Chúa có thể
dùng ngôi sao dẫn đường cho Ba Nhà Đạo Sĩ một mạch tới Bethlehem, mà không cần
phải đi qua Jerusalem; nhưng để cho mọi người cư ngụ tại Jerusalem có cơ hội đồng
đều để lắng nghe Tin Mừng, Ngài làm mất dấu ngôi sao để Ba Nhà Đạo Sĩ phải vào
Jerusalem để loan tin. Thánh Matthew tường thuật: “Khi Đức Giêsu ra đời tại
Bethlehem, miền Judah, thời vua Herode trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương
Đông đến Jerusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở đâu?
Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến
bái lạy Người." Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem
cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các Thượng-tế và Kinh-sư trong dân
lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại
Bethlehem, miền Judah, vì trong sách Tiên-tri, có chép rằng: "Phần ngươi,
hỡi Bethlehem, miền đất Judah, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Judah, vì
ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời."
3.2/
Ba phản ứng của con người trước ánh sáng: Đứng trước Tin Mừng được loan báo bởi Ba Nhà Đạo Sĩ,
chúng ta tổng hợp được 3 thái độ chính của con người:
(1)
Thái độ thờ ơ của Dân Thành Jerusalem cách chung và của các Thượng-tế và các
Kinh-sư nói riêng: Thánh
Matthew ám chỉ Dân Thành biết biến cố Chúa Cứu Thế ra đời trong câu: “Nghe tin ấy,
vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao.” Họ xôn xao để tìm ra
nơi chốn sinh ra của Đấng Cứu Thế, rồi âm thầm lên giường đắp chăn ngủ tiếp! Họ
có thể sợ vì trời tối, đường xa, và lạnh lẽo; nhưng đơn giản là vì họ đã có mọi
thứ và không cần tới Đấng Cứu Thế. Các Thượng-tế và các Kinh-sư mang tội nặng
hơn, vì họ là những người thông hiểu Kinh-Thánh và sự cần thiết của việc Đấng Cứu
Thế đến; nhưng họ dùng Kinh-Thánh để tìm ra và chỉ đường cho người khác đến gặp
Ngài; phần họ, gấp sách lại và từ chối không lên đường đi tìm Ngài.
(2)
Thái độ muốn tiêu diệt ánh sáng của Vua Herode: Bấy giờ Vua Herode bí mật vời
các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua
phái các vị ấy đi Bethlehem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận
về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy
Người." Đã không tiếp nhận ánh sáng, Vua Herode còn toan tính tiêu diệt
ánh sáng. Trong cuộc đời, chúng ta cũng gặp nhiều thái độ như Vua Herode. Họ muốn
tiêu diệt ánh sáng vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những ích kỷ, toan tính, và những
xấu xa trong tâm hồn của họ.
(3)
Thái độ nhiệt thành đi tìm ánh sáng của Ba Nhà Đạo Sĩ: Trớ trêu thay cho
dân tộc Do-Thái, họ trông chờ từng ngày từng giờ và chuẩn bị cho việc đón Đấng
Cứu Thế ra đời; nhưng khi Người xuất hiện, lại chỉ có Ba Nhà Đạo Sĩ là những
người Dân Ngọai, từ phương trời xa xôi đi tìm Người theo dấu một vì sao. Họ
không sợ đường xa, trời tối, nguy hiểm, gió lạnh mùa Đông, và nhất là theo dấu
một vì sao mong manh. Họ không nản lòng khi mất dấu ngôi sao, họ vào Thành
Jerusalem với hy vọng sẽ tìm được Ngài trong lịch sử. Và khi được hướng dẫn của
Kinh Thánh (Micah 5:1), họ lại tiếp tục lên đường. Họ mừng vui khi thấy ngôi
sao tái xuất hiện, và họ đã thấy Hài Nhi. Mở túi hành trang ra, họ dâng 3 lễ vật
quí giá nhất cho Hài Nhi: vàng chỉ sự thần phục Hài Nhi là Vua; nhũ hương chỉ sự
thần phục Hài Nhi là Chúa; mộc dược tiên báo trước Cuộc Thương Khó và cái chết
của Hài Nhi. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên
đã đi lối khác mà về xứ mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa đã tỏ tình thương qua việc ban Người Con Một của Ngài cho chúng ta,
phản ứng của chúng ta làm sao khi lãnh nhận Tin Mừng này?
-
Chúng ta có hăng hái nhiệt thành lên đường đi tìm Ngài, hay ngại ngùng phải rời
bỏ ốc đảo bình an của chúng ta vì sợ nguy hiểm, tốn thời gian, và lười biếng?
-
Rất nhiều lần chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và ánh sáng, không phải vì
chúng ta không biết đó là sự thật hay ánh sáng; nhưng chúng ta sợ: nếu chấp nhận
sự thật, chúng ta phải sống điều sự thật đòi hỏi; nếu phải đến gần ánh sáng,
chúng ta phải bỏ những tội lỗi mà chúng ta đã quá quen thuộc!
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
05/01/14 CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH – A
Mt 2,1-12
Mt 2,1-12
“NGÔI SAO LẠ” THỜI NAY
“Từ Phương Đông, chúng tôi đến
để bái lạy Người.” (Mt 2,2b)
Suy niệm: Mùa
Giáng Sinh không thể không có “hang đá” đã đành, mà hang đá nếu không có “ngôi
sao lạ” thì mùa Giáng Sinh vẫn thiêu thiếu cái gì đó. Các nhà đạo sĩ ngày xưa
đã tra cứu tìm tòi, hỏi han và đã lên đường theo sự hướng dẫn của ngôi sao để
tìm gặp Hài Nhi mới sinh, mà các ông hiểu là Vị Thiên Chúa muôn dân mong đợi.
Câu chuyện “Ngôi sao lạ và ba nhà đạo sĩ” cho dù có mang tính lịch sử hay
không, vẫn chuyển tải một sứ điệp rõ ràng, đó là Hài nhi Giêsu là Đấng Thiên
Chúa làm người đã được tỏ mình ra cho mọi dân tộc mà đại diện là ba nhà đạo sĩ.
Mời Bạn: Câu chuyện các nhà đạo sĩ vẫn còn âm vang
trong lòng con người thời đại hôm nay: Con người đang chạy theo lối sống của
chủ nghĩa tiêu thụ, khai thác rút ruột thiên nhiên đến cạn kiệt để thoả mãn tối
đa nhu cầu hưởng thụ đến độ thừa mứa để rồi nhìn lại nội tâm mình là cả một
khoảng trống rỗng mênh mông. Chính trong tâm trạng đó mà người ta càng khát
mong tìm kiếm điều Chân Thiện Mỹ đích thực. Cảm thông được nỗi khát vọng ấy,
người Kitô hữu được mời gọi trở thành ánh sao góp phần dẫn đường cho muôn dân
vượt qua mọi trở ngại để tìm gặp được Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ muôn dân.
Sống Lời Chúa: Các
đạo sĩ tìm thấy Chúa nhờ theo sự dẫn đường của “ngôi sao lạ”. Bạn hãy trở nên
“ngôi sao lạ” bằng cách làm cho mỗi việc làm của bạn đều là một ánh sao Tin
Mừng: ánh sao hiền lành, ánh sao khó nghèo, ánh sao trung thực, ánh sao khiết
tịnh, v.v…
Cầu nguyện: Lạy Chúa Hài Nhi, xin giúp chúng con trở nên ánh sao Tin Mừng để
nhờ đó những người đang khao khát Chân Thiện Mỹ, nhận ra Chúa là Đấng Cứu Độ
muôn dân.
NGÔI SAO DẪN ĐƯỜNG
Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của bạn, đưa bạn
vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững vàng trong
Chúa.
Suy niệm:
Ðoạn Tin Mừng trên nói về
các nhà chiêm tinh dân ngoại
theo ánh sao mà tìm đến
bái yết Hài Nhi
Một loạt câu hỏi thường
được đặt ra hôm nay.
Làm sao một ngôi sao có
thể dẫn đường cho họ đi?
Nếu đó là một ngôi sao
sáng lạ lùng
thì tại sao thành
Giêrusalem lại không nhận biết?
Bởi đâu ngôi sao lại
không đi thẳng tới Bêlem?
Có tin được chuyện ngôi
sao ngừng lại trước cửa nhà không?
Các câu hỏi trên đều xoay
quanh ngôi sao lạ.
Một ngôi sao như thế có
thật không
hay đây chỉ là một truyền
thuyết?
Thánh Mátthêu đã viết
đoạn Tin Mừng này
theo một thể văn đặc biệt
của người Do Thái.
Chúng ta không nên hiểu
mọi chi tiết theo nghĩa đen.
Ðiều quan trọng không
phải là có một ngôi sao lạ,
một ngôi sao thông minh
biết dẫn lối chỉ đường.
Ðiều quan trọng là điều
Mátthêu muốn nói với ta:
Ðức Giêsu không phải chỉ
là Mêsia cho dân Do Thái,
Ngài còn là Ðấng Cứu Ðộ
cho cả nhân loại.
Các nhà chiêm tinh là dân
ngoại.
Họ đại diện cho mọi dân
tộc, cho chính chúng ta.
Họ khao khát tìm ơn cứu
độ.
Qua những dấu chỉ kỳ diệu
hay đơn sơ trong vũ trụ,
họ nghe thấy lời mời gọi
lên đường.
Chấp nhận lên đường là
chấp nhận bỏ lại tất cả
và bước đi trong đêm tối.
Các nhà chiêm tinh không
dựa vào điều gì khác
ngoài ánh sao khi tỏ khi
mờ.
Cần có đức tin cứng cáp
mới dám dựa vào một dấu
chỉ mong manh như thế.
Cũng cần có đức tin mạnh
mẽ
mới dám tin rằng vị vua
mới sinh
đang khiêm tốn sống trong
một ngôi nhà ở Bêlem,
chứ không uy nghi ngự
giữa hoàng cung lộng lẫy.
Cần có một đức tin khiêm
tốn biết chừng nào
mới có thái độ sấp mình
bái lạy trước Hài Nhi,
và tiến dâng lễ vật quý
giá.
Thiên Chúa vẫn không
ngừng lôi kéo cả nhân loại
đến với Con Một của Ngài
là Ðức Giêsu Kitô.
Ngài vẫn không ngừng cho
những ánh sao dẫn đường.
Không phải là ánh sao
trên trời cao,
mà là ánh sáng Ngài gieo
vào lòng người.
Mỗi người chúng ta phải
trung thành với ánh sáng đó,
và bước vào cuộc hành
trình đức tin đầy mạo hiểm,
như các nhà chiêm tinh
ngày xưa.
Ðôi khi chúng ta có nét
giống Hêrôđê,
sợ hãi bối rối trước sự
xuất hiện của Ðấng Cứu Ðộ.
Hãy để Chúa làm lung lay
ngai vàng của bạn,
đưa bạn vào sự bấp bênh,
mong manh,
để rồi cuối cùng bạn gặp
được sự vững vàng trong Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu
tạ ơn Chúa đã cho chúng
con
ánh sáng mặt trời, mặt
trăng,
và ánh sáng từ những
nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa
vì Chúa đã gọi chúng con
là ánh sáng.
Đó là vinh dự
và cũng là một trách
nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối
của
hận thù và bất công,
của
buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà
Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và
biết vâng theo những soi sáng của Chúa
qua
từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc
chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn
còn tiếp diễn
trên
thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con
đừng
chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng
can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để
cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu,
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5
THÁNG GIÊNG
Gia Đình - Một Cộng
Đồng Thân Ái
Trong
tiếng gọi của Thiên Chúa hằng sống, gia đình được mời gọi trở thành một cộng đồng
của hòa bình và thân ái. Đồng thời, đó cũng là mô hình cộng đồng mà Thiên Chúa
mời gọi mọi cá nhân và mọi dân tộc hướng tới hình thành. Trước hết, để gia đình
triển nở trọn vẹn, cần phải có một bầu khí xã hội thực sự hòa bình và huynh đệ
trong đó quyền lợi của mỗi thành viên đều được bảo vệ.
Thế
nhưng ngày nay gia đình đang phải chịu những căng thẳng tột độ do các xu hướng
của xã hội hiện đại. Gia đình đang phải đương đầu với sự phân hóa và sự sụp đổ
của quyền bính. Các bậc cha mẹ đang kinh nghiệm nỗi khó khăn trong việc truyền
đạt cho con cái mình những giá trị Kitô giáo đích thực. Xu hướng đô thị hóa
đang tạo ra những khu ngoại ô chen chúc dân cư, những vấn đề khó khăn về nhà ở,
nạn thất nghiệp hay thiếu việc làm ngày càng tăng cao. Và tất cả tình hình ấy
có một ảnh hưởng tiêu cực trên gia đình.
Giáo
Hội quyết liệt chống lại những sự dữ luân lý đang tấn công vào đời sống gia
đình và vợ chồng; bởi vì Giáo Hội xác tín sâu sắc rằng những sự dữ ấy đi ngược
lại kế hoạch của Thiên Chúa đối với con người. Những sự dữ ấy xúc phạm tính chất
linh thánh của hôn nhân và chà đạp các giá trị của sự sống con người. Giáo Hội
có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của gia đình cũng như bảo vệ mọi thiện ích của
từng người. Đó là lý do tại sao Giáo Hội xác nhận lại trách nhiệm của mình
trong việc nói lên sự thực đầy đủ về con người.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 05-01
CHÚA NHẬT. CHÚA HIỂN LINH
Is 60, 1-6; Ep 3, 2-3a.5-6;
Mt 2, 1-12.
LỜI SUY NIỆM: “Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà,
thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo
tráp, lấy vàng, nhủ hương và mộc dược mà dâng tiến”.
Các nhà đạo sĩ, được ngôi
sao hướng dẫn họ đến với Hài Đồng Giêsu. Đây là Ánh Sáng của Thiên Chúa đã tỏ lộ
cho các ông như một con đường. Trên con đường này các ông phải tìm kiếm, phải
dò hỏi, phải kiên nhẫn và phải quen với sự rạng ngời ánh sao đó, phải sẵn sàng để
được hướng dẫn. Nhờ đó, họ đã gặp được Đấng mà họ “tin”. Họ đã bái lạy và dâng
“Lễ Vật”. Trong đời sống của chúng ta có biết bao dấu lạ để nhận ra Chúa, nhưng
chúng ta đã không nhận ra, vì chúng ta không quen nhìn, không chịu học hỏi và
suy niệm Lời Chúa với một tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi
thành viên trong gia đình chúng con, luôn nhận được ánh sáng đức tin, soi dọi mọi
bước đường chúng con đi, mọi việc chúng con làm, để gặp được Chúa.
Mạnh
Phương
05 Tháng Giêng
Chiếc Áo Rách
Một
linh sư Ẩn giáo nọ rất hài lòng về sự tiến bộ của người đệ tử. Nhận thấy rằng
người đệ tử không cần đến sự dìu dắt của ông nữa, cho nên ông mới bỏ mặc anh
trong túp lều tranh rách nát bên cạnh một bờ sông. Một buổi sáng, khi thức dậy,
người đệ tử xuống dòng sông thanh tẩy theo đúng nghi thức, rồi giặt chiếc áo
rách rưới của mình. Ðây là tài sản duy nhất của anh ta.
Ngày
nọ, anh đau đớn vô cùng khi nhận ra chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn tả
tơi. Không còn cách nào nữa, người đệ tử đành phải vào làng gõ cửa để xin một
chiếc áo khác. Cái áo lần nữa cũng bị chuột gặm nát. Anh mới xin được một con
mèo. Lần này anh khỏi phải lo lắng về mấy con chuột nữa. Nhưng không xin áo mặc,
thì người đệ tử cũng phải xin cơm, bánh mà thôi.
Ngày
ngày phải vác bị đi khất thực, người đệ tử cảm thấy mình như một thứ gánh nặng
đối với dân làng. Nghĩ thế, cho nên anh mới tìm cách tậu cho bằng được một con
bò để lấy vốn làm ăn. Nhưng có bò thì cũng phải có cỏ cho bò ăn. Những ngày đầu,
anh còn tự mình cắt cỏ cho bò ăn. Về lâu về dài, nhận thấy không còn thì giờ
cho sự cầu nguyện nữa, cho nên anh đành phải thuê người cắt cỏ cho bò. Bò càng
ngày càng sinh sản ra nhiều, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Không mấy chốc, mảnh
đất xung quanh túp lều của anh đã biến thành một nông trại. Con người đã một thời
muốn bỏ đi tất cả mọi sự để trở thành một tu sĩ nay nghiễm nhiên trở thành một
chủ nông trại giàu có. Có tiền, có mọi sự, cho nên anh cũng muốn có người chia
sẻ công việc của anh. Anh đành phải cưới vợ. Và không mấy chốc, anh đã trở
thành một trong những chủ nông trại giàu có nhất trong làng.
Vài
năm sau, khi có dịp trở lại thăm ngôi làng cũ, vị linh sư đã một thời dẫn dắt
anh, ngạc nhiên vô cùng vì thay cho túp lều nghèo nàn bên bờ sông, nay là cả một
cơ nghiệp đồ sộ. Dò hỏi được tung tích của người chủ nông trại, vị linh sư mới
lên tiếng hỏi người đệ tử của mình: "Thế này nghĩa là gì hả con?".
Người đệ tử mới trả lời: "Có lẽ thầy không tin. Nhưng tất cả cơ nghiệp này
hiện hữu là cũng chỉ vì con đã không làm cách nào để giữ được chiếc áo
rách".
Vì
chén cơm manh áo, người ta có thể đánh mất lý tưởng của mình. Vì chén cơm manh
áo, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác. Vì chén
cơm manh áo, người ta có thể chối bỏ niềm tin của mình. Ðó là mối hiểm nguy mà
bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Ðầu
một Năm Mới, tiến thêm một bước trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta hãy xin
Chúa ban thêm sáng suốt để thấy được bậc thang giá trị trong cuộc sống của
chúng ta. Xin Ngài ban thêm can đảm để trong khi mưu cầu của cải vật chất,
chúng ta có đủ sức khước từ mọi hành động bất chánh, mọi thỏa hiệp với lừa đảo,
gian trá. Xin Ngài ban thêm lòng quảng đại để chúng ta biết mở rộng quả tim và
đôi bàn tay để chia sớt, để san sẻ với mọi người khốn khổ.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét