Trang

Thứ Hai, 6 tháng 1, 2014

07-01-2014 : THỨ BA SAU LỄ HIỂN LINH

Ngày 07/01/2014
Thứ Ba Sau Lễ Hiển Linh


Bài Ðọc I: 1 Ga 4, 7-10
"Thiên Chúa là Tình Yêu".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì hễ ai thương yêu, thì đã sinh ra bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không thương yêu, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ðiều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu là thế này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 3-4ab. 7-8
Ðáp: Lạy Chúa, muôn dân khắp mặt đất sẽ thờ lạy Chúa (x. c. 11).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2) Ước gì núi non đem hòa bình cho dân, và đồi nổng đem lại sự công chính. Người sẽ bênh vực kẻ khiêm tốn trong dân, sẽ cứu thoát con cái người nghèo khó. - Ðáp.
3) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.

Alleluia: Mt 4,22
Alleluia, alleluia! - Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng nước trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 6, 34-44
"Hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tỏ ra Mình là Ðấng Tiên tri".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không người chăn giữ, và Người bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều. Và khi giờ đã muộn, các môn đệ đến thưa Người rằng: "Chỗ này hoang vắng, mà giờ đã muộn, xin Thầy giải tán họ, để họ đi tới các làng các xóm gần đây mà mua gì ăn". Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Các con hãy cho họ ăn đi". Họ thưa Người: "Chúng con phải đi mua đến hai trăm đồng bạc bánh để phát cho họ ăn". Người nói với họ: "Các con có mấy cái bánh? Hãy đi xem". Khi biết được rồi, họ thưa: "Có năm cái bánh và hai con cá". Người ra lệnh cho họ bảo mọi người ngồi xuống làm thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống từng nhóm, chỗ một trăm, chỗ năm mươi. Người cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời mà chúc tụng, rồi bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ, để họ phân phát cho người ta; còn hai con cá, Người cũng chia cho mọi người. Và tất cả đều ăn no. Mụn bánh và cá còn dư lại, người ta lượm được mười hai thúng đầy. Mà số người ăn là năm ngàn người.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm: Thứ Ba sau Chúa nhật Lễ Chúa hiển linh
Mc 6,34-44
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể !
Tình yêu Chúa thật bao la vô bờ. Trái tim Chúa luôn nhạy cảm trước nhu cầu của nhân loại. Năm xưa Chúa đã chạnh lòng xót thương đoàn người lam lũ bơ vơ, không người chăn dắt. Chúa đã quy tụ họ lại, giảng dạy cho họ và Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ.
Lạy Chúa, chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, mà Chúa đã biến hóa nhiều thật nhiều đến nỗi phân phát đầy đủ cho trên năm ngàn người ăn no nê mà vẫn còn dư đầy. Chúa thật là Thiên Chúa, đầy quyền năng. Chúng con xin tán dương Chúa. Ðây là một sự kiện chứng tỏ lòng yêu thương nhân hậu của Chúa đối với nhân loại. Chúa luôn quan tâm săn sóc cuộc sống của con người từ vật chất đến tinh thần. Những người được Chúa nuôi ăn năm xưa, là những người nghèo khổ, họ đói khát cả về thể chất lẫn tinh thần. Họ nhiệt thành đi theo Chúa để nghe Chúa giảng dậy và họ được Chúa bồi dưỡng không chỉ bằng lời Chúa mà con được Chúa ban cho của ăn dư đầy.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, chúng con tin rằng, nguồn lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng con hôm nay, đó chính là Mình và Máu Thánh Chúa. Chúa chính là Ðấng tác tạo nên chúng con, là sức sống của chúng con, là nguồn cậy trông, là tình yêu vô bờ bến. Chúa đã hiện diện trong phép Thánh Thể để nói lên lòng Chúa yêu thương chúng con biết bao. Cũng như ngày nào năm xưa, tình yêu ấy được ban phát cho năm ngàn người đi theo Chúa, bên Chúa họ được no đầy phần hồn cũng như phần xác. Tình yêu đó vẫn tiếp tục đong đầy cho cuộc đời cho chúng con hôm nay. Xin cho chúng con được no đầy ân phúc của Chúa. Chúng con hứa sẽ cố gắng sống theo ý Chúa, và biết tìm đến với Chúa, để bên Chúa chúng con mãi mãi được no say tình Chúa như họ. Amen.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba sau Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 4:7-10; Mk 6:34-44.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện cho con người qua Đức Kitô.
Hôm qua, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã tỏ cho con người biết sự thật của Thiên Chúa. Hôm nay, Ngài tỏ cho chúng ta biết tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu rất khó để nói tới vì nó rất trừu tượng; nhưng cách tỏ bày tình yêu lại hết sức cụ thể. Vì thế, con người có thể nhận ra tình yêu Thiên Chúa qua Biến Cố Nhập Thể, dù chưa bao giờ con người thấy Thiên Chúa. Con người cũng có thể nhận ra tình yêu thật từ những tình yêu giả dối, bằng cách nhìn vào những biểu lộ cụ thể của tình yêu.
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa, và tình yêu đích thực từ những tình yêu giả dối. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan cho chúng ta biết 3 sự thật về tình yêu Thiên Chúa: (1) Nguồn gốc của mọi tình yêu đến từ Thiên Chúa vì “Thiên Chúa là tình yêu.” (2) Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian Con Một của Ngài (Jn 3:16). (3) Thiên Chúa đã yêu thương con người trước. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu động lòng thương dân vì họ bơ vơ như chiên không người chăn. Sau khi đã dạy dỗ để cung cấp lương thược phần hồn, Ngài làm phép lạ để cung cấp cho dân lương thực phần xác.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa yêu thương con người.
1.1/ Nguồn gốc của mọi tình yêu: Tác giả xác quyết: “tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa;” và “Thiên Chúa là tình yêu.” Theo Sách Sáng Thế Ký, con người được dựng nên giống hình ảnh và đặc tính của Thiên Chúa (Gen 1:26). Nhiều học giả Kinh Thánh cho rằng: tình yêu làm cho con người giống Thiên Chúa hơn cả. Clement of Alexandria tuyên bố: “khi con người yêu thương là con người đang luyện tập trở nên giống như Chúa.” Khi chúng ta yêu thương là chúng ta ở gần Thiên Chúa hơn lúc nào hết. Vì Thiên Chúa là tình yêu, muốn trở nên giống Thiên Chúa, con người phải học cho biết yêu thương. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa.
1.2/ Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.” Khi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Hài Đồng trong máng cỏ, chúng ta phải cảm nghiệm được 2 điều:
(1) Thiên Chúa đã quá yêu thương con người: Không có một người cha nào trên trần thế dám hy sinh người con một của mình để chết thay cho người khác; nhất là một cái chết cô đơn, tủi nhục, tàn bạo trên Thập Giá. Câu truyện Tổ-phụ Abraham sẵn sàng hiến tế Isaac cho chúng ta cảm nghiệm được phần nào tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.
(2) Con người không xứng đáng với tình yêu Thiên Chúa: Con người không làm bất cứ gì xứng đáng với tình yêu này; ngược lại, con người đã, đang, và sẽ còn gây đau khổ cho Thiên Chúa.
1.3/ Thiên Chúa yêu thương con người trước: Tình yêu là lý do duy nhất của việc tạo dựng, quan phòng, và cứu chuộc con người. Thiên Chúa tạo dựng con người vì Thiên Chúa là tình yêu: Ngài yêu nên Ngài tạo dựng, và muốn được con người yêu thương lại. Thiên Chúa có thể tạo nên những con người máy và để tự chúng sinh sống; nhưng vì yêu thương, Ngài muốn luôn luôn chăm sóc cho con người. Trong việc cứu chuộc, tình yêu Thiên Chúa đã biểu lộ quá rõ ràng: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu yêu thương, dạy dỗ, và cho dân ăn.
2.1/ Chúa Giêsu yêu thương và dạy dỗ dân chúng: Trình thuật kể: “Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.” Để hiểu thấu những điều này, chúng ta cần đọc Sách Tiên-tri Ezekiel để nhận ra tại sao chiên bơ vơ không người chăn. Theo Tiên-tri, chiên bơ vơ không phải vì không có người chăn; nhưng tại các người chăn vô trách nhiệm: họ chỉ để ý đến lông chiên, thịt chiên, mà không để ý đến tình trạng của chiên. Nếu những nhà lãnh đạo không chịu săn sóc, dạy dỗ, chỉ đường, thì làm sao những người dân biết sống lành mạnh và tránh được những nguy hiểm trong cuộc sống?
2.2/ Chúa Giêsu làm phép lạ để nuôi dân:
(1) Quá mải mê nghe Chúa giảng, dân chúng quên ăn: Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: "Ở đây hoang vắng và bây giờ đã khá muộn. Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn." Chắc các ông quan niệm, nhà lãnh đạo tôn giáo chỉ có trách nhiệm phần hồn cho dân chúng mà thôi. Chúa Giêsu muốn dạy cho các môn đệ một bài học: Người rao giảng không chỉ quan tâm đến việc cho dân chúng lương thực phần hồn, đôi khi còn phải quan tâm đến việc cho giáo dân lương thực phần xác nữa.
(2) Chúa Giêsu yêu cầu các môn đệ cho dân ăn: Người đáp: "Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi!" Các ông nói với Người: "Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?" Qua lời đối thọai, chúng ta nhận ra ngay những tính toán của các môn đệ và tình yêu không tính toán của Chúa Giêsu. Các môn đệ nghĩ ngay đến tiền, Chúa Giêsu chỉ nghĩ đến tình yêu.
(3) Chúa Giêsu làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá: Người bảo các ông: "Anh em có mấy chiếc bánh? Đi coi xem!" Khi biết rồi, các ông thưa: "Có năm chiếc bánh và hai con cá." Người ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống thành từng đám, chỗ thì một trăm, chỗ thì năm mươi. Chúa cần sự cố gắng và cộng tác của các môn đệ dẫu Ngài có thể làm mọi sự.
(4) Hình bóng của Bí-tích Thánh Thể: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người.” Cả 4 Thánh-sử đều tường thuật phép lạ này. Riêng Gioan, phép lạ này mở đầu cho “Diễn từ về Thánh Thể” trong chương 6 của ngài, dù Gioan không tường thuật sự kiện Chúa lập Bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly. Qua Bí-tích Thánh Thể, Thiên Chúa chứng tỏ Ngài vẫn yêu thương, săn sóc, và cho dân ăn mỗi ngày.
(5) Số còn dư lại: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những mẩu bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. Số người ăn bánh là năm ngàn người đàn ông.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời, trước khi có thể yêu thương Ngài và tha nhân.
- Tình yêu Thiên Chúa là tình yêu không tính toán, vô vị lợi, và không biên giới. Chỉ có tình yêu này mới giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn và trung thành yêu thương tới cùng.
- Bí-tích Thánh Thể là nguồn mạch yêu thương, vì Chúa Giêsu đã yêu thương phó mạng sống làm lễ tế hy sinh cho con người. Nếu chúng ta cảm thấy mình ích kỷ, thiếu yêu thương, khó tha thứ, đây là Bí-tích tăng cường tình yêu cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


HẠT GIỐNG NẢY MẦM
THỨ BA SAU LỄ HIỂN LINH
Mc 6,34-44
A. Hạt giống...
Tin Mừng thánh Marcô trình bày tiếp hoạt động cứu độ của Chúa Giêsu. Những hoạt động của Chúa Giêsu đã thu hút dân chúng đi theo Ngài rất đông. Họ say mê Ngài đến nỗi quên ăn quên uống.
- Trông thấy họ, “Chúa chạnh lòng thương”. Ngài chạnh lòng vì thấy họ thiếu thốn : thiếu vật chất và nhất là thiếu tinh thần.
- Do chạnh lòng thương dân chúng, Chúa Giêsu muốn làm một việc gì đó để giúp họ. Việc đầu tiên Ngài làm là... “Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” : theo suy nghĩ của Chúa Giêsu, sự đói khát tinh thần cấp bách hơn sự đói khát của ăn, cho nên việc đầu tiên Ngài làm là dạy dỗ họ.
- Tiếp đó Ngài mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn. Mà phép lạ này cũng là hình bóng tiên báo Bí Tích Thánh Thể và sự phục vụ của Giáo Hội.

B.... nẩy mầm.
1. “Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương” : phản ứng đầu tiên của Chúa Giêsu là yêu thương. Khi thấy những kẻ Ngài yêu thương “như bầy chiên không người chăn dắt” thì Ngài thương đến nỗi “chạnh lòng”. Thật tuyệt vời con người của Chúa Giêsu, thật tuyệt vời tấm lòng của Ngài. Xin cho con được giống Chúa.
2. Khi chạnh lòng thương dân chúng, việc đầu tiên Chúa làm là “dạy họ nhiều điều”. Được biết Chúa là điều quan trọng nhất và là nguồn mọi hạnh phúc.
3. Một chiều đông lạnh lẽo, triết gia Thomas Carlyle đang ngồi trước lò sưởi trong phòng khách. Cửa mở, cha xứ mới của giáo xứ bước vào. Sau mấy câu xã giao, cha xứ hỏi : “Theo ngài, lúc này giáo xứ mình cần cái gì nhất ?” Không chút ngập ngừng, triết gia đáp ngay : “Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lí thuyết.” (Góp nhặt).
4. “Chúa Giêsu chính là ân huệ bằng xương bằng thịt mà Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
5. “Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người dẫn dắt” (Mc 6,34)
Bởi chạnh lòng thương nên Ngài đã hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Ngài không chỉ quan tâm đến cái đói thể xác nhưng còn muốn ban phát tình thương, của ăn mà nhân loại đang thiếu. Thực vậy, một trong những nghịch lý của thế giới hôm nay là thiểu số người giàu chia nhau đa phần tài nguyên thế giới ; là sản lượng của các nước phát triển không ngừng gia tăng, bên cạnh hàng loạt các nước thuộc thế giới thứ ba vẫn mãi nghèo đói. Nạn đói lan tràn, chiến tranh tiếp diễn, thất nghiệp gia tăng… cứ như điệp khúc của bản tin thời sự mỗi ngày. Cái thiếu thốn của thế giới hôm nay chính là tình thương, lòng nhân ái.
Bản thân tôi cũng lãnh nhận nhiều hơn là cho đi, luôn thoái thác như các tông đồ xưa : “Làm sao thỏa mãn những nhu cầu của kẻ khác, một khi sức mình có hạn ?”
Xin cho con hiểu rằng chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

07/01/14 THỨ BA SAU LỄ HIỂN LINH
Th. Râymunđô, linh mục
Mc 6,34-44

CHÍNH ANH EM CHO HỌ ĂN
Các môn đệ đến gần Người và thưa: “Nơi đây hoang vắng và giờ đã muộn. Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” Người đáp:”Chính anh em hãy cho họ ăn đi!” (Mc 6,35-36)
Suy niệm: Giải pháp của các tông đồ để dân ra về tự lo ăn uống xem ra hợp lý, nhưng Chúa Giêsu đề ra cho các tông đồ một giải pháp có trách nhiệm hơn: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi!” Qua yêu cầu này, Ngài muốn Giáo Hội của Ngài dám đảm nhận trách nhiệm của mình trước khổ đau của con người thay vì viện lý do để thoái thác. Đáp lại lời mời gọi này, qua các thời đại, biết bao nhiêu con cái của Giáo Hội, đã dấn thân đem tình yêu của Chúa chia sẻ cho những người nghèo và đau khổ bằng nhiều hoạt động và trong nhiều dòng tu hay tổ chức giáo dân khác nhau.
Mời Bạn: Khi thấy những người cùng khổ nằm vất vưởng nơi cống rãnh trong thành phố, Mẹ Têrêxa Calcutta đã không đùn đẩy trách nhiệm cho Nhà Nước hay cho tổ chức từ thiện, nhưng Mẹ đã nghe tiếng Chúa ra đi lập một dòng tu mới để cùng với các chị em mình tìm kiếm những người nghèo khổ khốn cùng, đưa họ về săn sóc và giúp họ sống và chết xứng với nhân phẩm. Trước người anh em đau khổ, tôi làm ngơ hay tôi tìm cách đá trái bóng trách nhiệm cho người khác?
Sống Lời Chúa: Tôi sẵn sàng cộng tác với người khác để giúp đỡ người gặp hoạn nạn, rủi ro.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, biết bao nhiêu người đang sống gần bên con đau khổ vì nghèo đói và bệnh tật. Xin cho con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương xót họ như Chúa. Xin giúp con nhận ra Chúa đang hiện diện trong họ và cho con biết xả thân giúp đỡ họ.

SUY NIỆM

NÉT ĐẸP CỦA NGƯỜI MỤC TỬ

Khi đọc và suy gẫm đoạn Tin mừng này tôi bắt gặp được một nét đẹp nơi Chúa Giêsu, làm cho tôi  nghĩ đến bổn phận của mình đối với anh em. Đó là, Chúa Giêsu xem những người theo Ngài và nghe Ngài giảng như người nhà, như người thân thiết của Ngài. Vì xem họ thân thiết như thế nên Chúa Giêsu đã quan tâm, thông cảm, thấu hiểu và không bỏ rơi họ. Những nhu cầu của họ trở nên những điều quan trọng với Ngài. Chính vì thế, sau khi đã cho họ món ăn tinh thần là những lời khuyên dạy, thì  Chúa Giêsu muốn các môn đệ cộng tác với Ngài cho họ có được những món ăn nuôi sống thân xác sau một ngày đói mệt. Quả thật, có Chúa ở bên cạnh, những người theo Chúa luôn sống trong an vui, dư đầy.

Tôi là linh mục, hay tôi là cha mẹ, là anh chị, là thầy cô, là bạn của những người xung quanh. Thế nhưng, rất nhiều khi tôi chỉ xem những nhu cầu của tôi mới là quan trọng, ý riêng của tôi mới là đúng nhất. Vì thế, tôi đã nhiều lần vô tình, vô tâm và thờ ơ với những nhu cầu của tha nhân. Chúa Giêsu trong bài Tin mừng này là một mẫu gương rất đẹp cho tôi trong tương quan với những người tôi gặp gỡ, với tha nhân và với những người mà tôi có trách nhiệm.

Lạy Chúa Giêsu, ngày xưa, Chúa mời gọi các môn đệ cộng tác với Chúa trong việc rao giảng Tin mừng và chăm lo cho những người theo Chúa. Ngày nay Chúa cũng mời gọi con theo Chúa và cộng tác với Chúa trong việc loan báo Tin mừng và phục vụ tha nhân. Xin Chúa cho con biết đáp trả lời mời gọi của Chúa, luôn hăng say dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân trong ơn gọi, trong bổn phận của con mỗi ngày. Amen.


Ai nấy được no nê 
Đừng sợ nếu bạn chỉ có ít cá và bánh, ít thời giờ, tiền bạc, khả năng. Hãy trao vào tay Chúa tất cả những gì bạn có và để Người định liệu.

Suy nim:
Trên thế giới hiện nay có gần một tỷ người đói ăn,
Và nhiều nơi ở châu Phi vẫn có bao trẻ thơ chết đói.
Có người coi tôn giáo là duy tâm, sống lơ lửng với những ý tưởng đẹp,
và loay hoay với chuyện cứu rỗi linh hồn.
Nhưng Thiên Chúa ta gặp trong Kinh Thánh
lại là một Thiên Chúa để ý đến cái đói của thân xác con người.
Thiên Chúa ấy đã cung ứng manna, thịt chim cút và nước uống
cho dân Người trong cuộc hành trình tiến về Đất hứa,
mà Đất hứa này là vùng phì nhiêu, nơi chảy sữa và mật.
Thiên Chúa ấy được coi là người mục tử
dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, đến suối nước trong lành.
Đức Giêsu cũng chẳng làm khác với Cha của Ngài.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài tỏ mình ra như người mục tử.
Khi thấy đoàn dân bơ vơ như bầy chiên không người chăn dắt,
Ngài qui tụ họ lại bằng cách dạy dỗ họ nhiều điều.
Nhưng khi chiều xuống, Ngài cũng biết họ cần ăn.
Lo cho chiên được no là nhiệm vụ của người mục tử.
Đức Giêsu đã muốn các môn đệ cộng tác trong việc nuôi ăn này:
“Chính anh em hãy cho họ ăn !”
Với tất cả những gì môn đệ có, vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá,
năm ngàn người đã được ăn no và còn dư mười hai thúng đầy.
Chiều hôm đó, cỏ như xanh hơn vì lòng người vui rộn rã.
Qua phép lạ lớn này, Đức Giêsu tỏ mình ra cho đám đông dân chúng.
Đây là phép lạ của sự bẻ ra và được nhân lên.
Chẳng phải Thầy Giêsu mới là người bẻ ra và trao đi cho các môn đệ.
Chính các môn đệ cũng đã làm như thế cho đoàn dân.
Bẻ ra và trao đi là điều kiện để giải quyết nạn đói của thế giới hôm nay.
Chỉ có thể xóa nạn đói nghèo bằng sẻ chia và liên đới.
Đừng sợ nếu bạn chỉ có ít cá và bánh, ít thời giờ, tiền bạc, khả năng.
Hãy trao vào tay Chúa tất cả những gì bạn có và để Người định liệu.
Cầu nguyn:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7 THÁNG GIÊNG
Hành Trình Trực Chỉ Giê-ru-sa-lem
Các nhà thông thái phương Đông là những người ngoại giáo đầu tiên đón nhận mạc khải đức tin vào Chúa Kitô. Họ là những người đầu tiên tiếp cận mầu nhiệm thừa tự mà Thiên Chúa đã mở ra cho mọi người nơi Đức Giêsu Kitô: cuộc Nhập Thể của Con đời đời của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy, nhờ Chúa Thánh Thần vén mở, đã được các nhà thông thái tiếp cận ngay cả trước khi nó được mạc khải cho các tông đồ – và ngay cả trước khi Tin Mừng được nhận biết như là con đường dẫn tới đức tin. Nơi các nhà thông thái này, chúng ta tìm thấy một hình mẫu của công cuộc tiền-Phúc-Âm hóa. Chúng ta thấy rõ linh hồn họ đã được Thiên Chúa chuẩn bị để đón nhận ơn cứu độ. Đây cũng là một công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng mạc khải ý nghĩa của ánh sao mà các nhà thông thái đã dõi bước theo trên hành trình trực chỉ Giê-ru-sa-lem. Aùnh sao ấy biểu trưng ý nghĩa rằng ơn cứu độ của họ vẫn còn ở xa xa, réo gọi.
Trong ngày Lễ Hiển Linh, phụng vụ của Giáo Hội cũng muốn dẫn dắt chúng ta trên hành trình của mình tiến về Giê-ru-sa-lem. Chúng ta hướng lòng về thành Thánh, “thành đô của Đại Vương”. Cho dẫu cư dân Giê-ru-sa-lem không hề hay biết rằng vị Vua Vinh Quang đã được sinh ra giữa họ, thì phần mình, chúng ta vẫn vui mừng hoan hỉ hướng về thành Thánh. Bởi đó là ‘thành đô của Đại Vương’.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 07-01
THÁNH RAIMUNĐÔ PENYAFORT, LINH MỤC
1Ga 4, 7-10; Mc 6, 34-44.

LỜI SUY NIỆM: “Bây giờ đã khá muộn. Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn. Người đáp: Thì anhem hãy cho họ ăn đi!”
Trước một đám đông đang đói ăn, các Tông Đồ đều thấy được; nhưng với khả năng của mình, các ông không thể làm được gì. Các Tông Đồ đã đến trình bày và xin ý kiến Chúa Giêsu. Nhờ đó mà đám đông đã được một bữa no nê, nếu các ông tự ý làm theo cách của các ông, chắc chắn đám đông dân chúng đã bị đói và có khi có người bị xỉu trên đường đi. Điều này giúp cho chúng ta mỗi khi quan tâm đến điều gì trước khi thực hiện chúng ta phải cầu nguyện, với sự cầu nguyện của chúng ta. Chúa sẽ biến đổi mọi sự nên tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con là con cái của Chúa. Chúng con tin vào quyền năng yêu thương của Chúa. Xin cho mỗi người trong gia đình chúng con khi đứng trước mọi vấn đề, đều biết cầu nguyện và phó thác vào tay Chúa, rồi làm hết sức mình.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 07-01: THÁNH RAYMUNDO PENYAFORT
Linh Mục (1175-1275)

Thánh Raymudô chào đời năm 1175 trong một gia đình hiệp sĩ tại lâu đài Penyafort ở California. Không chiều theo cuộc sống dễ dãi, Ngài đã dành trọn nỗ lực tuổi trẻ vào việc học hành và thực tập các nhân đức. Mới 20 tuổi, Ngài đã giữ ghế triết tại đại học Barcelona. Nhưng vì tinh thần hiếu học và muốn giúp ích cho Giáo hội đắc lực hơn, năm 30 tuổi, Ngài qua Italia để tiếp tục học luật tại Bologna. Tại đây Ngài đã tốt nghiệp tiến sĩ và thành công trong nghề luật sư, lại còn giảng dạy tại chính đại học Bologna trong ba năm. Nhiều nhà quí phái và bậc thứ giả tìm đến với Ngài. Tận tụy hướng dẫn họ, Ngài chỉ mong cho họ tiến bộ. Nếu có bị ép để nhận một ít thù lao nào, Ngài cũng đem phân phát cho người nghèo.
Năm 1249, Đức giám mục địa phận Bacelona mời Ngài về giúp việc địa phận. Nhưng lúc 48 tuổi, thánh nhân đã trốn mọi danh vọng và xin gia nhập dòng Daminh, Ngài chỉ ao ước được trao phó cho những công việc thấp hèn nhất. Nếu được tán thưởng, Ngài liền xin bề trên cho được làm việc đền tội. Tuy nhiên việc đền tội Ngài không mong mỏi chút nào, là việc nhà dòng trao cho Ngài trách nhiệm viết một tác phẩm về các vấn đề lương tâm để hướng dẫn các cha giải tội. Tác phẩm này cho tới ngày nay vẫn còn danh tiếng.
Năm 1230, Đức giáo hoàng Gregoriô IX cảm kích những thành quả do thánh Raymundô mang lại, đã mời làm cha giải tội cho mình, đồng thời chọn Ngài làm tổng giám mục thành Tarragona. Nhưng danh dự này đã khiến thánh nhân, khi nghe tin, lên cơn sốt liền trong vòng ba ngày, Ngài đã xin các đức hồng y can thiệp cho mình khỏi lãnh nhận danh dự và gánh nặng này. Cuối cùng Đức giáo hoàng đành chấp thuận. Năm năm làm việc tại giáo triều, đức giáo hoàng đã ủy thác cho thánh nhân thu thập các sắc lệnh của các đức giáo hoàng và các công đồng thánh nhân đã gom góp vào năm cuốn sách và được phê chuẩn năm 1234. Ngoài việc chu toàn các nghĩa vụ được trao phó, Ngài còn theo đuổi một nếp sống nhiệm nhặt, khiến Ngài lâm trọng bệnh. Thánh nhân liền khẩn nài cho mình được trở về với nếp sống tu sĩ bình thường.
Từ khứơc mọi đặc ân thánh nhân rời khỏi Roma trở về Barcelona. Trên chuyến tàu Ngài gặp một người lâm bệnh nặng không còn nói năng gì được. Cầu nguyện và xin mọi người cầu nguyện cho ông, thánh nhân hỏi ông có muốn xưng tội không ? Bệnh nhân bỗng nói được. Ông ta đã xưng tội rồi tắt thở.
Tại Barcelon, thánh nhân trở lại đời sống sám hối rất gương mẫu. Hàng ngày Ngài vẫn xưng tội rước khi dâng lễ. Ngài nói: - "Những ngày bị ngăn trở không xưng tội được, đối với tôi là những tang chế u sầu".
Năm 1238, Ngài được bầu làm bề trên tổng quyền thứ ba của dòng Daminh. Suốt hai năm làm bề trên, Ngài đã đi bộ đến thăm viếng mỗi tỉnh dòng để hun nóng lòng nhiêt thành của các tu sĩ. Hai năm sau Ngài xin từ chức vì tuổi già sức yếu.
Tuy nhiên trong tuổi già yếu, Ngài vẫn góp phần xây dựng cho tổ quốc. Ngài đã viết thư yêu cầu thánh Tôma viết một bộ sách để chống lại bọn lạc giáo, như vua Giacôbê yêu cầu. Thánh Tôma đã nhận lời và viết bộ sách "Summa Contra Ghentiles" Dù được nhà vua quí mến chiều chuộng, nhưng thánh nhân không ngại cảnh cáo ông ta. Một lần kia, trong cuộc chinh phục đảo Maiorqua. Vua mời thánh nhân cùng đi. Thánh nhân nhận lời với ước vọng giảng thuyết để phá đổ những sai lầm tại đó. Nhưng tới nơi, Ngài khám phá ra rằng nhà vua đang phá hoại tổ chức bằng cuộc sống tội lỗi của mình. Ngài can ngăn nhưng nhà vua không giữ lời hứa.
Thánh nhân liền tuyên cáo: - Vì Ngài không bỏ đường tội lỗi nên tôi sẽ bỏ đi.
Hoảng hốt, nhà vua cấm mọi tàu thuyền không được phép chở Ngài. Tương truyên rằng: thánh nhân đã nói với một tu sĩ đi theo Ngài rằng:  - Một vua trần thế cản đường, thì vua trên trời sẽ mở lối cho chúng ta đi.
Nói rồi, Ngài cởi áo ngoài trải ra trên mặt biển, cắm cây gậy làm cột và cuốn một góc làm buồm. Ngài mời thầy dòng lên "Tàu" nhưng ông không dám. Thế là một mình Ngài đáp "tàu" hồi hương. Vài giờ sau thánh nhân tới bến và Ngài vội vàng cuốn áo thẳng về nhà dòng để tránh tiếng hoan hô của dân chúng. Phép lạ này đã trở thành sức mạnh cải hóa nhà vua, đưa ông trở lại với lương tâm và quê hương mình.
Về già, thánh Raymundô đã chịu nhiều cơn đau yếu, nhưng lòng nhiệt thành của Ngài vẫn bốc cháy không ngừng. Ngày 6 tháng giêng năm 1275 Ngài đã từ giã cõi thế là nơi mà Ngài đã hiến trọn đời phụng vụ Chúa.
(daminhvn.net)


07 Tháng Giêng
33 Năm Sau
Với tựa đề "33 năm sau", đó là một câu chuyện thuật lại như sau: "Những gì đã xảy ra cho đứa bé năm nào?". Một trong ba vua đã đi triều bái vua Do Thái mới sinh tự hỏi. Suốt cuộc đời mình, nhà vua không thể nào quên được cuộc hành trình cách đây khoảng 33 năm, một cuộc hành trình dõi theo ánh sáng sao lạ dẫn ông đến hang đá Bêlem.
Câu hỏi: "Liệu đứa bé ấy có trị vì dân Israel được không?". Làm cho nhà vua bồn chồn đứng ngồi không yên. Rồi chẳng dừng được, một lần nữa nhà Vua quyết định lên đường đi đến Palestine. Tại Giêrusalem, những bậc bô lão còn nhớ đến những vì sao lạ, nhưng không ai biết gì đến đứa bé được sinh ra dưới điềm lạ ấy. Còn tại Bêlem mọi người được hỏi đều lắc đầu, ngoại trừ một cụ già cho nhà Vua biết: Làm gì có ông Giêsu Bêlem, chỉ có ông Giêsu Nagiarét, một người nói phạm thượng tự xưng mình là Con Thiên Chúa, nên cách đây mấy tuần đã bị xử "tử hình thập giá".
Thất vọng ê trề, nhà Vua thẫn thờ nhập vào đoàn những người hành hương trở lại Giêrusalem, vào đúng ngày Lễ Ngũ Tuần. Chen lấn vào đoàn lũ đang mừng lễ Tạ Ơn Sau Mùa Gặt, nhà Vua chú ý đến một đám đông đang bu quanh một nhóm người. Tò mò ông lấn qua đám đông để đến gần và nghe có kẻ nói: "Tưởng gì chứ lại gặp mấy tên say rượu nói tầm xàm".
Nhưng tai nhà Vua lại nghe một người trong nhóm nói tiếng nước mình và rõ ràng ông ta nói về ông Giêsu Nagiarét, người đã bị đóng đinh, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết. Như bị một sức mạnh vô hình thúc đẩy, nhà Vua chen vào đám đông cất tiếng hỏi: "Vậy bây giờ ông Giêsu đó ở đâu?". Ðại diện nhóm người đứng ở giữa đám đông là Simon Phêrô trả lời: "Ngài đang ở giữa chúng tôi. Ngài đang ở trong chúng tôi. Chúng tôi là môi miệng, là tai mắt, là đôi tay, là đôi chân của Ngài".
Trong lúc Phêrô đang nói, bỗng có một luồng gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa một lần nữa thổi tràn xuống mọi người. Nhà Vua bỗng lại thấy ánh sao Bêlem, nhưng lần này ánh sao ấy chia ra nhiều ánh sao khác rơi xuống mọi người. Trong tâm hồn, nhà Vua chợt hiểu: Mỗi người phải trở nên máng cỏ nơi Ðức Giêsu sinh ra và mỗi người phải mang Ngài đến cho mọi người xung quanh.
Câu chuyện trên nối liền ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, mừng biến cố Ngôi Lời nhập thể với Lễ Tưởng Niệm Biến Cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Ðồng thời câu chuyện cũng nêu nổi bật bổn phận của mọi người Kitô, là những kẻ phải trở nên tai mắt, trở nên môi miệng và chân tay của Ðức Kitô để mang Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ và cộng tác hằng ngày.
(Lẽ Sống)

Thứ Ba 7-1
Thánh Raymond ở Penafort

(1175 - 1275)
Ð
ược Thiên Chúa cho hưởng thọ đến 100 tuổi, Thánh Raymond có cơ hội để thực hiện được nhiều điều trong đời. 
Là một phần tử của dòng dõi quý tộc Tây Ban Nha, ngài có đầy đủ tài nguyên và nền tảng giáo dục vững chắc để bước vào đời. Ngay từ khi còn nhỏ, ngài đã yêu quý và sùng kính Ðức Mẹ. Vào lúc 20 tuổi, ngài dạy triết. Trong khoảng 30, ngài đậu bằng tiến sĩ về giáo luật và dân luật. Tuy nhiên, ngài đã từ bỏ tất cả để gia nhập Dòng Thuyết Giáo (Ða Minh) và là một linh mục năm 47 tuổi. Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô IX gọi ngài về Rôma làm việc cho đức giáo hoàng và cũng là cha giải tội cho người. Một trong những điều đức giáo hoàng yêu cầu ngài thi hành là thu thập tất cả các sắc lệnh của các giáo hoàng và công đồng trong 80 năm, kể từ lần sưu tập sau cùng của Gratianô. Cha Raymond biên soạn thành năm cuốn sách được gọi là "Bộ Giáo Lệnh" (Decretals). Những cuốn này được coi là bộ sưu tập giáo luật có giá trị nhất của Giáo Hội mãi cho đến năm 1917 khi giáo luật được hệ thống hóa.
Trước đó, Cha Raymond đã viết một cuốn sách dành cho các cha giải tội, được gọi là "Summa de Poenitentia et Matrimonio". Cuốn sách này không chỉ kể ra các tội và việc đền tội, mà còn thảo luận các luật lệ và học thuyết chính đáng của Giáo Hội liên hệ đến vấn đề hay trường hợp mà cha giải tội phải giải quyết.
Khi Cha Raymond được 60 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục của Tarragona, thủ phủ của Aragon nằm về phía đông bắc Tây Ban Nha. Ngài không thích vinh dự này chút nào nên kết quả là ngài bị đau yếu và đã từ nhiệm sau đó hai năm.
Tuy nhiên, ngài không được hưởng sự an bình đó bao lâu, vì khi 63 tuổi ngài được anh em tu sĩ dòng chọn làm bề trên của toàn thể nhà dòng, chỉ sau Thánh Ða Minh. Cha Raymond phải vất vả trong các công việc như đi thăm các tu sĩ dòng, cải tổ lại hiến pháp dòng và cố đưa vào hiến pháp dòng điều khoản cho phép vị bề trên có thể từ chức. Khi bản hiến pháp mới được chấp nhận, Cha Raymond, lúc ấy 65 tuổi, đã xin từ nhiệm.
Nhưng ngài vẫn còn phải làm việc trong 35 năm nữa để chống với bè rối và hoán cải người Moor ở Tây Ban Nha. Và theo lời yêu cầu của ngài, Thánh Tôma Aquina đã viết cuốn "Summa Contra Gentes".
Mãi cho đến khi ngài được 100 tuổi thì Thiên Chúa mới cho ngài về hưu dưỡng. Năm 1601, Cha Raymond được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VIII tuyên xưng là thánh.
Lời Bàn
Thánh Raymond là một luật gia và là nhà giáo luật. Thói vụ luật (legalism) là một trong những điều mà Giáo Hội cố tránh trong Công Ðồng Vatican II. Có sự khác biệt lớn lao giữa các điều khoản với tinh thần và mục đích của luật lệ. Luật lệ tự nó có thể trở thành cùng đích, do đó giá trị mà luật lệ muốn nhắm đến đã bị quên lãng. Nhưng chúng ta cũng phải thận trọng đừng ngả về thái cực bên kia, coi luật lệ như vô ích hoặc cho đó là một điều tầm thường. Một cách lý tưởng, luật lệ được đặt ra là vì lợi ích của mọi người và phải đảm bảo quyền lợi của mọi người được tôn trọng. Qua Thánh Raymond, chúng ta học được sự tôn trọng luật lệ như một phương tiện phục vụ công ích.
Lời Trích
"Ai ghét bỏ luật lệ thì không khôn ngoan, và sẽ bị nghiêng ngả như con tàu giữa cơn phong ba" (Sách Huấn Ca 33:2).



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét