13/05/2014
Thứ Ba sau Chúa Nhật IV
Phục Sinh
Bài
Ðọc I: Cv 11, 19-26
"Họ
cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
những ngày ấy, vì cơn bách hại xảy ra nhân dịp Têphanô bị giết, có nhiều người
phải sống tản mác, họ đi đến Phênixê, Cyprô và Antiôkia, họ không rao giảng lời
Chúa cho một ai ngoài những người Do-thái. Nhưng một ít người trong họ quê ở
Cyprô và Xyrênê; khi đến Antiôkia, họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp
nữa. Và tay Chúa ở với họ; nên có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu
tai Hội Thánh Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và
thấy việc ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng
tin nơi Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có
đoàn người đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được rồi,
liền đưa Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm, giảng dạy
cho quần chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đồ lần đầu tiên nhận tên
là Kitô hữu.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 86, 1-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Hỡi muôn dân,
hãy ngợi khen Chúa (Tv 116, 1a).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Chúa yêu cơ sở Ngài thiết lập trên núi thánh; Ngài yêu cửa nhà Sion hơn mọi
cư xá nhà Giacóp. Hỡi thành trì của Thiên Chúa, thiên hạ đang nói những điều hiển
hách về ngươi. - Ðáp.
2)
Ta sẽ kể Rahab và Babel vào số người thờ phượng Ta, kìa Philitinh, Tyrô và dân
Êthiôpi: những người này đã sinh ra tại đó. Và thiên hạ sẽ nói về Sion rằng:
"Riêng từng người và hết mọi người đã sinh tại đó, chính Ðấng Tối Cao đã củng
cố thành này". - Ðáp.
3)
Chúa sẽ ghi chép vào sổ sách của chư dân rằng: "Những người này đã sinh ra
tại đó". Và khi ca vũ, người ta sẽ ca rằng: "Mọi nguồn vui thú của
tôi đều ở nơi ngươi". - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Chúa Kitô, Ðấng tác tạo mọi loài, đã sống lại và đã xót thương nhân
loại. - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 10, 22-30
"Tôi
và Cha Tôi là một".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu
đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói:
"Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì
xin ông nói rõ cho chúng tôi biết". Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với
các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về
Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi. Chiên
Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống
đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi
tay Tôi. Ðiều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có
thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Ta
Và Cha Là Một
"Ta ban cho chúng được
sự sống đời đời, Ta ban cho những ai tin Ta có sự sống đời đời, không ai cướp
được chúng khỏi tay Ta. Ta và Cha là một" (Ga 10,28-30).
Ðây là một thực tại cao cả nơi cuộc
sống của những người tin vào Chúa, và Chúa Giêsu muốn mạc khải cho những người
Do Thái đến hỏi Chúa: "Ông để chúng tôi phân vân đến bao giờ nữa, nếu ông
là Ðức Kitô thì hãy nói trắng ra cho chúng tôi biết" (Ga 10,24). Thánh
Gioan đã đặt những lời mạc khải trên của Chúa Giêsu về thực tại đời sống Ðức
Tin của người Kitô hữu vào dịp lễ cung hiến Ðền Thờ Giêrusalem, và như ta đã
biết, cổng đền thờ là nơi các thầy thông luật Do Thái đến để giải thích lề luật
cho dân chúng, do đó Chúa Giêsu đến đây để giảng dạy cho dân chúng. Nhưng hơn
ai hết, Chúa Giêsu là một vị thầy hơn mọi vị thầy thông luật của Israel thời
đó, vì Con Thiên Chúa Lam Người đã hiện diện nơi đó không những để giảng dạy lề
luật, mà còn là Ðấng thay thế cho các bậc thầy vĩnh viễn. Như lời Chúa đã phán:
"Chúng con không có vị thầy nào khác vì Thầy là Ðường, là Sự Thật và là Sự
Sống" (Ga 14,6).
Hơn nữa, dịp tụ họp dân chúng nơi
cổng Salomon ở đền thờ là dịp lễ cung hiến đền thờ Giêrusalem. Lễ cung hiến đền
thờ có ý nghĩa gì đối với người Do Thái? Thưa, đây là một trong những lễ trọng
của người Do Thái vì để ghi dấu đền thờ Giêrusalem trước đó đã bị ô uế, bị xúc
phạm, nay thánh hiến lại để bắt đầu trở lại sinh hoạt tôn giáo. Lễ cung hiến
đền thờ nhắc cho người dân nhớ lại sự phục hưng tôn giáo được những sứ giả của
Chúa là anh em Macabê thực hiện vào năm 146 trước Chúa Giáng Sinh. Vào năm 170
đền thờ đã bị vua Syria làm ô uế, làm nơi dâng lễ vật cho thần ngoại bang Hy
Lạp vì thế mà đã xúc phạm đến Thiên Chúa chân thật. Giờ đây đền thờ cung hiến
được lại là để nhắc nhớ lại khung cảnh tôn giáo và địa điểm cung thánh giảng
dạy là cổng Salomon.
Như vậy, thánh Gioan muốn nhắc lại
một cách kín đáo cho các độc giả của ngài về chương trình hay những ý định sâu
xa của Chúa Giêsu, đó là lúc Chúa Giêsu muốn mạc khải sự thật về ơn cứu rỗi,
hầu khai mạc một thời đại mới, thời đại phục hưng tôn giáo dựa trên đức tin vào
Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Khi ấy ở Giêrusalem dịp cung hiến
đền thờ bấy giờ là vào mùa đông, và Chúa Giêsu đã đi đi lại lại ở cổng đền thờ
Salomon. Sau những câu nhập đề mô tả khung cảnh tôn giáo như vậy, thánh Gioan
kể tiếp thắc mắc của người Do Thái, bấy giờ người Do Thái vây quanh Chúa Giêsu
và hỏi: "Ông để chúng tôi phân vân đến bao giờ nữa, nếu ông là Ðức Kitô
thì hãy nói trắng ra cho chúng tôi biết".
Thánh Gioan thường dùng từ ngữ
những người Do Thái để chỉ những kẻ không tin Chúa, không những không tin mà
còn có ý đồ xấu bắt bẻ lời Chúa và âm mưu làm hại Người. Xem ra họ muốn tìm
hiểu về Chúa nhưng thực sự là họ có ý đồ xấu, muốn nghe chính Chúa nói mình là
Con Thiên Chúa, là Ðấng Kitô để tố cáo Ngài. Nói phạm thượng và tội phạm thượng
là tội đáng bị xử tử theo luật Do Thái, họ muốn có bằng cớ thêm để tố cáo
"Ông này là người mà dám xưng mình là Con Thiên Chúa" (Ga 5,18). Ðó
là lời tố cáo sau này được nói lên khi luận xử Chúa Giêsu trước khi đóng đinh
Ngài vào Thập Giá như chúng ta đã biết.
Chúa Giêsu đã phơi trần âm mưu của
họ: "Ta đã nói với anh em rồi mà anh em không tin, vì các anh không phải
là chiên Ta" (Ga 10,25-27). Lời nói và việc làm của Chúa mà người Do Thái
thấy tận mắt tai nghe từ khi Chúa Giêsu rao giảng cho đến lúc này đã quá đủ mạc
khải Ngài là ai rồi. Nếu những kẻ nghe và nhận thấy Chúa Giêsu có một tâm hồn
sẵn sàng, đó là tâm hồn yêu thương gắn bó với người chủ chăn. Không có thái độ
nội tâm sẵn sàng thì không có thái độ đón nhận Lời Chúa mạc khải và cũng không
tin nhận Ngài. Mà nếu không tin nhận Chúa làm sao có được sự sống đời đời, làm
sao gắn bó kết hợp mật thiết với Chúa được. Còn đối với những kẻ tin nhận Chúa
thì được một lời bảo đảm vô cùng quan trọng: "Không ai có thể cướp khỏi
Cha được" (Ga 10,29-30).
Sống tin tưởng vào Chúa là một
bảo đảm chắc chắn cho những ai yêu mến Ngài. Lạy Chúa, xin cho con luôn kết hợp
với Chúa trong mọi nơi, mọi lúc của cuộc đời. Amen.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 11:19-26; Jn
10:22-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ai thuộc về đoàn
chiên của Thiên Chúa nghe tiếng Chúa Giêsu.
Có
những tiếng nói hay tiếng cười đã quá quen thuộc khiến con người chẳng cần nhìn
cũng nhận ra người đang nói hay đang cười là ai. Chẳng hạn, khi Chúa Giêsu hiện
ra với Mary Magdala, Chúa chỉ cần gọi một tiếng ngắn ngủi: “Mary.” Bà nhận ra
ngay và kêu lên: “Lạy Thầy!” Trong mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người
cũng thế. Vì Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh và các đức tính của
Ngài, con người theo tính tự nhiên dễ hướng chiều về sự thật, về yêu thương và
tha thứ, và nhất là về Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người.
Các
Bài Đọc hôm nay muốn nói lên mối liên hệ mật thiết giữa Thiên Chúa và con người.
Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật sự thành công trong việc rao giảng Tin Mừng
của các môn đệ Chúa: Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở
lại cùng Chúa; không chỉ những người Do-thái, mà còn rất nhiều Dân Ngoại. Chính
tại Antioch mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu tuyên bố với các đối phương của Ngài: "Chiên của tôi thì nghe
tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa.
1.1/
Tin Mừng bắt đầu được loan truyền ra ngoài lãnh thổ của Do-thái: Sau cuộc bách hại
xảy ra nhân vụ ông Stephanô, các môn đệ phải tản mác đi đến tận miền Phoenicia,
đảo Cyprius và thành Antioch. Họ không rao giảng Lời Chúa cho ai ngoài người
Do-thái. Nhưng trong nhóm, có mấy người gốc Cyprius và Cyrene; những người này,
khi đến Antioch, đã giảng cho cả người Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa Giêsu cho
họ.
Điều
làm chúng ta ngạc nhiên là sự trở lại của rất nhiều người và trong nhiều trường
hợp rất ly kỳ, như sự trở lại của Phaolô, của viên Thái Giám người Ethiopia, và
của viên Đại Đội Trưởng người Roma. Trình thuật hôm nay cho chúng ta lý do
chính xác của các cuộc trở lại: "Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số
đông đã tin và trở lại cùng Chúa." Nói cách khác, những người này luôn
khao khát sự thật, khao khát được biết về Thiên Chúa, và khao khát được sống
muôn đời; nên khi họ nghe những lời các môn đệ của Chúa rao giảng Tin Mừng, họ
nhận ra ngay những khao khát của họ được đáp ứng, nên họ tuyên xưng đức tin và
chịu Phép Rửa.
1.2/
Chính tại Antioch mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu: Khi Hội Thánh tại
Jerusalem nghe tin nhiều người trở lại tại Antioch, họ cử ông Barnabas đi
Antioch để thành lập cộng đoàn tại đó. "Khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa
như vậy, ông Barnabas mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa,
vì ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một đám rất
đông theo Chúa." Tên của ông Barnabas có nghĩa "con của khuyên nhủ,"
vì ông được Chúa ban cho có biệt về "khuyên nhủ." Điều này cho ta thấy
người mục tử phải là người sống gần gũi với Thiên Chúa, trước khi có thể dẫn dắt
con người đến với Thiên Chúa. Nếu người mục tử không nghe được tiếng Thiên
Chúa, làm sao ông có thể giảng giải cho dân và khuyên nhủ họ đến với Ngài?
Sau
đó, ông Barnabas trẩy đi Tarsus tìm ông Phaolô. Khi tìm được rồi, ông đưa ông
Phaolô đến Antioch. Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm và giảng
dạy cho rất nhiều người. Sứ vụ của hai ông tại Antioch khởi sự cho sứ vụ rao giảng
Tin Mừng đặc biệt cho Dân Ngoại. Chính tại Antioch mà lần đầu tiên các môn đệ
được gọi là Kitô hữu. Danh xưng này có nghĩa là những người theo Đức Kitô. Để
theo Ngài, họ cần biết nghe và thực hành những gì Ngài giảng dạy, chứ không phải
chỉ là Kitô hữu trên danh nghĩa. Nói cách khác, họ là những môn đệ của Đức
Kitô, và có bổn phận phải họa lại cuộc đời của Ngài cho người khác thấy và tin
vào Ngài.
2/
Phúc Âm:
Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.
2.1/
Người Do-thái thắc mắc về căn tính của Chúa Giêsu: "Khi ấy, ở
Jerusalem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa Đông. Đức
Giêsu đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang Solomon. Người Do-thái vây
quanh Đức Giêsu và nói: "Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến
bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết."
Ngày lễ Cung Hiến Đền Thờ cũng là ngày lễ hội ánh sáng (Hanukka) của người
Do-thái. Họ cử hành lễ để tôn vinh ánh sáng vì ngày trở nên ngắn và đêm tối trở
nên dài hơn (tháng 12). Ánh sáng và bóng tối có một ý nghĩa đặc biệt trong
Gioan.
Tại
sao cũng những lời rao giảng của Chúa Giêsu, mà có người tin vào Ngài, và có những
người không tin vào Ngài? Thái độ cần phải khiêm nhường khi đi tìm sự thực là
điều quan trọng, vì nếu đã hãnh diện biết rồi, còn cần gì phải đi tìm nữa! Khi
người Do-thái hỏi Chúa Giêsu câu hỏi như trên, họ không có ý nhiệt thành muốn
đi tìm sự thực; nhưng coi Chúa Giêsu như lý do làm họ phải nhức đầu, và họ
không muốn thay đổi lề lối suy nghĩ của họ. Với một thái độ như thế, làm sao họ
có thể học hỏi những gì Chúa Giêsu muốn mặc khải cho họ! Lý do khác làm họ cứng
lòng vì họ muốn ở trong bóng tối (Jn 3:19-20).
2.2/
Mối liên hệ giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha, và với con người:
(1)
Liên hệ giữa Chúa Giêsu và con người: Chúa Giêsu thẳng thắn cho họ biết lý do tại sao họ
không nghe Ngài: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những
việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông
không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe
tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời;
không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay
tôi." Họ không tin Chúa Giêsu không phải vì không có các lý do chắc chắn để
tin; nhưng vì họ từ chối không chịu lắng nghe và suy nghĩ những gì Chúa Giêsu
đã nói và đã làm. Họ muốn thấy dấu lạ, Chúa Giêsu đã làm nhiều dấu lạ. Họ muốn
nghe lời chân lý, Chúa Giêsu đã mặc khải bao nhiêu sự thật của Thiên Chúa. Nếu
những người thiện chí muốn đi tìm sự thật, họ đã nhận ra Ngài đến từ Thiên Chúa
từ lâu rồi. Nhưng họ đã nhìn và đã nghe đến độ Chúa phải dùng lời tiên tri
Isaiah mà nói: "Chúng ra đui mù và lòng chúng ra chai đá, kẻo mắt chúng thấy
và lòng chúng hiểu được mà hoán cải, rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành" (Jn
12:40).
(2)
Liên hệ giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha: Chúa nói: "Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi,
thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa
Cha là một."
Trong
Kế Hoạch Cứu Độ, con người được Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu bằng cách tạo cơ hội
để họ nghe Chúa Giêsu rao giảng; đồng thời ban Thánh Thần để họ nhận ra sự thật
và thúc đẩy họ tin vào Đức Kitô. Vì thế, cả hai: Chúa Cha và Chúa Con đều hoạt
động cho cùng một mục đích là để con người có thể tin vào Đức Kitô và được hưởng
cuộc sống muôn đời. Khi các tín hữu đã tin vào Đức Kitô, Ngài sẽ bảo vệ họ; nếu
họ trung thành nghe tiếng Ngài hướng dẫn, không một quyền lực nào có thể động đến
các tín hữu, và cuộc sống muôn đời là của họ (Jn 6:39-40).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta có bổn phận loan truyền Lời Chúa cho mọi người và cho mọi dân tộc trên
thế giới; vì tất cả được Thiên Chúa dựng nên và có khả năng để đón nhận sự thật.
-
Chúng ta là đoàn chiên của Đức Kitô, chúng ta phải biết lắng nghe để nhận ra tiếng
của Ngài, và theo sự hướng dẫn của Ngài, thì mới mong tránh được mọi nguy hiểm
trong cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM TUẦN 4 PHỤC SINH
Ga 10,22-30
A. Hạt giống...
Tiếp bài giáo lý sống theo sự dẫn dắt của Chúa
Giêsu :
Chúa Giêsu là mục tử : "Chiên tôi thì nghe
tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng được sự sống đời
đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất"
B.... nẩy mầm.
1. "Con chiên ta thì nghe tiếng ta. Ta biết
chúng và chúng theo ta". Phụng vụ đang dạy chúng ta sống dưới dự dẫn dắt
của Chúa Giêsu mục tử tốt lành. Muốn thế, ta phải "nghe tiếng" Ngài
và "đi theo" Ngài.
2. Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không
bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản
địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp : không biết. "Vậy nếu lỡ mất một hai
con, làm sao anh biết ? "Câu trả lời thật ý nhị : "Không phải tôi mất
một con số, mà mất một bộ mặt." (Góp nhặt)
3. "Chúa là mục tử... tôi không sợ chi, tôi
không thiếu gì"
Suốt đời tôi, tôi rất sợ chết, cho đến ngày một
đức con tôi về với Chúa. Trong lễ nghi an táng cháu, cha sở kể câu chuyện sau :
"Một mục tử dẫn bầy chiên đến bờ sông. Nhìn dòng nước chảy xiết, tự nhiên
là bầy cừu sợ hãi. Người mục đồng không làm sao hối thúc chúng qua được. Cuối
cùng, ông lựa ra một con cừu non, cùng đi với nó xuống dòng nước và dẫn nó qua
bờ bên kia. Khi cừu mẹ thấy con mình ra đi, nó quên cả sợ hãi phóng theo. Và
thế là cả bầy cừu nối đuôi nhau theo sự hướng dẫn của người mục tử.
Một mai có phải theo con tôi về với Chúa, tôi
chẳng sợ. (Góp nhặt)
4. "Con chiên ta thì nghe tiếng ta. Ta biết
chúng và chúng theo ta"
Trong phim "giai điệu hạnh phúc" (la
Mélodie du bonheur), cô Marie đã đem tình thương và hạnh phúc đến cho gia đình
viên đại úy. Cô đã cảm hoá được những đứa con của ông, chia sẻ và cảm thông với
chúng. Cô đến với từng đứa trẻ, hiểu rõ tính nết và cả những khát vọng
của chúng. Từ những đứa trẻ ngỗ nghịch và bướng bỉnh, chúng đả trở nên
ngoan hiền, dễ thương. Chúng cũng cảm thấy phải yêu thương và nghe lời cô chỉ
bảo.
Hình ảnh của cô đã để lại trong tôi một ấn tượng
hết sức tốt đẹp về người mục tử. Chúa Giê-su là vị mục tử nhân hậu và tốt lành.
Ngài không những biết và biết rõ từng con chiên mà còn yêu thương chăm sóc và
hiến mạng sống vì đoàn chiên. Ngài đã sống lại và trở nên nguồn sống của đoàn
chiên.
Phần tôi, một con chiên trong đàn, tôi cũng được
Ngài yêu thương và chăm sóc vỗ về, nhưng tôi còn biết quá ít về Ngài và chưa
theo Ngài trọn vẹn.
Lạy Chúa, xin cho con cảm mến sự ngọt ngào của
đồng cỏ xanh và dòng suối mát, để được no thoả trong tình yêu của Ngài.
(Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
13/05/14 THỨ BA TUẦN 4 PS
Đức Mẹ Fa-ti-ma
Ga 10,22-30
Đức Mẹ Fa-ti-ma
Ga 10,22-30
NGHE – TIN – THEO
Đức Giêsu nói :”Tôi đã nói với
các ông rồi mà các ông không tin. . . vi các ông không thuộc về đàn chiên của
tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.” (Ga 10,25.27)
Suy niệm: Chúa Giê-su trách những người Do-thái không
tin Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến mặc dù họ đã nghe Chúa Giê-su giảng, chứng
kiến Ngài chữa lành bệnh tật, cho người chết sống lại…; lý do của sự cứng lòng
ấy, Chúa cho biết, là vì họ không thuộc về đoàn chiên của Chúa, vì họ đã không nhận biết tiếng Ngài
và đã không đi theo Ngài. Trái lại, những ai nhận biết tiếng Chúa và đi theo
Ngài, hay nói cách khác, chỉ những ai nghe tiếng Chúa, tin vào Ngài, và sẵn lòng bước theo Ngài mới thuộc về đoàn chiên của Ngài.
Mời Bạn: Trong
ba thái độ cơ bản của người môn đệ Chúa Ki-tô là “Nghe-Tin-Theo” thì “Nghe”
đứng đầu: “Đức tin có là nhờ nghe” (Rm 10,14.17). Thế nhưng trong cuộc sống hôm
nay, con người khó nghe được lời của vị Mục Tử Ki-tô vì tiếng Ngài lại hay bị
nhiễu, bị át đi bởi quá nhiều tiếng động của xe cộ, máy móc, ca nhạc và còn bởi
cả những tiếng ồn ào của lòng ham mê của cải, quyền lực, danh vọng…. Bạn làm gì
để “tắt đi” những tiếng ồn trong cõi lòng bạn để bạn sẵn sàng lắng nghe Lời
Ngài nói với bạn chưa?
Sống Lời Chúa: Ý
thức mình là con chiên nhỏ trong đoàn chiên Chúa, bạn luôn trung thành với việc
suy niệm Lời Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Mục tử nhân lành, xin hướng dẫn con trong tình yêu
Chúa. Xin Chúa gọi con, để con nhận ra tiếng Chúa. Nếu con có lạc đường, xin
hay đem con về và gìn giữ con, vì chỉ có Chúa biết rõ con và đời con chỉ thuộc
về Chúa mà thôi.
Không ai cướp được chúng
Làm chiên trong đàn chiên của Đức Giêsu không có
nghĩa là được hưởng một sự êm ả dễ chịu. Được ở trong ràn chiên của Chúa, không
có nghĩa là được yên ổn, chẳng bị ai quấy phá.
Suy niệm:
Có những Kitô hữu theo đạo
để mong tránh sóng gió của cuộc đời.
Nhưng đã có lần con thuyền
chở Đức Giêsu và môn đệ gặp bão lớn,
nước tràn vào khiến thuyền
gần chìm, làm môn đệ hốt hoảng.
Theo Chúa đâu phải để tránh
bão, nhưng để vượt qua cơn bão.
Theo Chúa đâu phải để khỏi
bị cám dỗ, nhưng để thắng cơn cám dỗ.
Cuộc sống của người Kitô hữu
không tránh khỏi những khó khăn
mà những người không Kitô
hữu phải đối mặt mỗi ngày.
Hơn nữa, người Kitô hữu còn
gặp nhiều khó khăn hơn.
Có những cơn bão ập đến bất
ngờ chỉ vì họ là Kitô hữu.
Làm chiên trong đàn chiên
của Đức Giêsu
không có nghĩa là được hưởng
một sự êm ả dễ chịu.
Được ở trong ràn chiên của
Chúa,
không có nghĩa là được yên
ổn, chẳng bị ai quấy phá.
Đức Giêsu đã nói đến chuyện
kẻ trộm, kẻ cướp, leo tường mà vào (c.10).
Chúng đến để ăn trộm, giết
hại và phá hủy đàn chiên (c. 10).
Khi được dẫn đi ăn nơi đồng
cỏ, chiên còn phải đối đầu với sói dữ.
“Sói cướp lấy chiên và làm
cho chiên tán loạn” (c. 12).
Đức Giêsu khẳng định mình
không phải là người làm thuê,
nên khi sói đến, Ngài không
bỏ chiên mà chạy.
Chiên là điều quý giá đối
với Ngài đến độ Ngài dám nói nhiều lần:
“Tôi hy sinh mạng sống mình
cho đoàn chiên” (cc. 11.15.17.18.).
Và thực sự Ngài đã làm điều
đó trên thập giá.
Rõ ràng bảo vệ đoàn chiên là
chuyện mấy chẳng dễ dàng.
Nếu Đức Giêsu, người mục tử
nhân hậu mà bất khuất,
đã phải hy sinh mạng sống
cho đoàn chiên,
thì hẳn cuộc chiến giằng co
phải rất là ác liệt.
Kẻ thù của chiên chẳng phải
là kẻ kém cỏi tầm thường.
Trong cuộc chiến để bảo vệ
chiên, còn có sự hiện diện của Cha.
Chiên là của Cha và Cha đã
giao chiên cho Đức Giêsu (c. 29).
Cha và Con cùng hợp tác để
bảo vệ đoàn chiên,
không để ai cướp chiên ra
khỏi vòng tay che chở của mình (cc. 28-29).
Cha và Con một lòng một ý
trong nhiệm vụ này (c. 30).
Việc bảo vệ chiên còn kéo
dài mãi đến tận thế.
Chúng ta làm gì để cộng tác
với Chúa trong việc bảo vệ mình khỏi sói dữ?
Hãy tin vào Giêsu và nhận ra
giọng nói của Giêsu để khỏi bị lừa.
Hãy theo sát sự dẫn đường
của Giêsu, vị Mục tử đã chiến thắng cái chết.
Và hãy tin vào Chúa Cha,
Đấng mạnh mẽ hơn tất cả (c. 29).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế
giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn
lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ
bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến ru bởi bao thú
vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của
các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên
trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm
thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên
giống Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
SUY NIỆM
Đức Giêsu có mặt ở Đền Thờ
Giêrusalem dịp lễ Cung Hiến Đền Thờ. Người Do Thái chất vấn Ngài có phải là
Đấng Kitô? Ngài nói rằng Ngài đã trả lời nhiều lần rồi, nhưng tại vì họ không
tin. Ngài cho họ biết lý do họ không tin là vì họ không thuộc đoàn chiên Ngài.
Ngài cũng nói đến hai đặc điểm của những ai thuộc về đoàn chiên Ngài, đó là:
nghe tiếng và đi theo Ngài. Đồng thời, Ngài cũng khẳng định hai điều mà Ngài sẽ
ban cho những ai thuộc về đàn chiên Ngài: sự sống an toàn và sự sống đời đời.
Mong sao, tôi luôn ý thức
mình là chiên mà Chúa là mục tử, để tôi luôn để ý nghe tiếng và đi theo Ngài.
Mong sao, tôi luôn nhớ rằng,
ơn thánh qua Lời Chúa, qua thánh lễ, qua các bí tích… Chúa đang gìn giữ tôi
trong sự sống an toàn.
Và mong sao, tôi được ban sự
sống đời đời – sự sống dành cho những ai biết nghe tiếng Chúa và đi theo Ngài.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13
THÁNG NĂM
Một
Nhịp Cầu Từ Lễ Phục Sinh Đến Lễ Hiện Xuống
“Khi
Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Ngài là
Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Ngài sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa,
anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26 – 27).
Giờ
đây, chúng ta trở lại với những lời này của Đức Kitô. Và chúng ta trở lại với
căn gác thượng ở Giê-ru-sa-lem, nơi mà những lời ấy được nói lên. Lời hứa ấy phải
trở thành sự thật trong cùng căn gác thượng ấy, vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Lời của Đức
Kitô dẫn chúng ta đi từ Lễ Phục Sinh tới Lễ Hiện Xuống. Những lời ấy như một nhịp
cầu.
Chúa
Thánh Thần không ngừng đến với các môn đệ của Đức Kitô như Đấng An Ủi được Chúa
Cha sai đến. Ngài đến như Thần Khí sự thật để làm chứng về Đức Kitô.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 13-5
ĐỨC MẸ FATIMA
Cv 11, 19-26; Ga 10, 22-30.
LỜI SUY NIỆM: “Chiên của tôi thì nghe tiếng
tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không
bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.”
Chúa Giêsu xác định một cách
công khai và rất rõ ràng: Ai thuộc về Chúa thì nghe tiếng của Chúa. - Chúa biết
rất rõ từng con người; khi họ đi theo Chúa. (Có sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần).
Chính Chúa sẽ ban cho họ sự sống đời đời, họ sẽ không bao giờ phải chết hay bị
hư mất. Đặc biết với quyền phép của Chúa, thì không có quyền lực nào có thể cướp
họ ra khỏi tay của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin ban cho
mọi thành viên trong gia đình chúng con, luôn biết lắng nghe Lời Chúa, sống
theo Lời Chúa và luôn ở trong bàn tay yêu thương của Chúa, để không có gì, có
thể tách chúng con ra khỏi tình yêu của Chúa.
Mạnh
Phương
13
Tháng Năm
Ngày Của Mẹ
Ngày
Chúa Nhật thứ hai trong tháng năm, tại nhiều nước trên thế giới, được gọi là
ngày của Mẹ, ngày dành riêng để tỏ lòng báo hiếu đối với Mẹ...
Sáng
kiến dành ngày Chúa Nhật thứ hai của tháng năm làm ngày của mẹ được gán cho một
thiếu nữ người Hoa Kỳ tên là Anna M.Jarvis qua đời khoảng năm 1948. Mẹ của cô
qua đời tháng năm năm 1905. Trong những năm kế tiếp, cô thường tổ chức giỗ mẹ một
cách trọng thể như mời bạn bè đến cầu nguyện tại gia đình. Cô viết thư gửi tới
các nhân vật quan trọng trong nước Mỹ để xin lập một ngày tưởng nhớ các bà Mẹ.
Tiểu bang nơi cô đang sống đã chấp nhận đề nghị năm 1913. Và ngày 10 tháng 5 ấy,
quốc hội Hoa Kỳ cũng thông qua đề nghị nhận ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng
5 như một ngày để ghi ơn các bà mẹ. Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ đã công bố quyết
định này ngày 09/5/1914. Tục lệ này đã lan rộng sang nhiều quốc gia trên thế giới...
Trong ngày nhớ mẹ, người con thường cài trên áo một bông hoa cẩm chướng màu trắng
nếu mẹ đã quá cố và màu hồng dành cho những ai còn mẹ.
Trong
các tước hiệu Giáo Hội dùng để gọi Ðức Maria, có lẽ xứng hợp với tâm tình con
người hơn cả vẫn là tước hiệu Mẹ. Chúng ta có thể gọi Ðức Maria là Mẹ với tất cả
tâm tình trìu mến như khi chúng ta gọi người mẹ của chúng ta. Do lời trăn trối
của chính Chúa Giêsu con Mẹ, Mẹ đã trở thành Mẹ của Giáo Hội. Qua muôn thế hệ,
Mẹ không ngừng cưu mang, sinh ra và dưỡng dục các tín hữu trong Ðức tin.
Niềm
hạnh phúc của bất cứ người mẹ nào vẫn là thấy con mình được nên người. Mẹ Maria
chăm chú theo dõi và lo lắng cho từng người chúng ta. Niềm vui của Mẹ chính là
thấy mỗi người chúng ta được lớn lên theo hình ảnh của Chúa Giêsu con Mẹ...
Chúng
ta mang đến cho Mẹ những bó hoa trong suốt tháng 5, tháng 10 và trong từng lời
Kinh dâng lên Mẹ. Nhưng có lẽ Mẹ sẽ sung sướng hơn mỗi lần nhìn thấy sự trưởng
thành nơi chúng ta. Mỗi lần chúng ta lớn lên trong ân phúc, trong bác ái yêu
thương, trong hy vọng tin yêu: đó là những bó hoa tốt đẹp nhất mà chúng ta dâng
lên Mẹ...
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét