Trang

Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2015

19-04-2015 : (phần I) CHÚA NHẬT III PHỤC SINH năm B

19/04/2015
Chúa Nhật III Phục Sinh Năm B
(phần I)



Bài Ðọc I: Cv 3, 13-15. 17-19
"Ðấng ban sự sống thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi ấy, Phêrô nói với dân chúng rằng: "Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Ðấng mà anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô, trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em đã chối bỏ Ðấng Thánh, Ðấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Ðấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng.
"Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Ðức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 4, 2. 7. 9
Ðáp: Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con! (c. 7a)
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Khi con cầu, nguyện Chúa nghe, lạy Chúa công bình của con, Chúa đã giải thoát con trong cơn khốn khó, nguyện xót thương và nghe tiếng con cầu! - Ðáp.
2) Nhiều người nói: "Ai chỉ cho ta thấy điều thiện hảo?" Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con! - Ðáp.
3) Ðược an bình, con vừa nằm xuống, thoắt ngủ ngon, vì lạy Chúa, duy có Chúa cho con yên hàn. - Ðáp.

Bài Ðọc II: 1 Ga 2, 1-5a
"Chính Người là của lễ đền tội, không những cho chúng ta mà thôi, nhưng còn cho cả thế gian".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, Cha viết những điều này cho các con, để các con đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai đã phạm tội, thì chúng ta có Ðức Giêsu Kitô, Ðấng công chính, làm trạng sư nơi Ðức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian. Chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng ta biết Chúa Giêsu, nếu chúng ta giữ các giới răn Người. Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời Người, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: x. Lc 24, 32
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh; xin làm cho tâm hồn chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 24, 35-48
"Họ nhận ra được Người khi họ nhận bánh do Người bẻ trao cho".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Mọi người còn đang bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ". Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây". Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Ðoạn Người phán: "Ðúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh". Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói: "Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Cộng Ðoàn Hội Thánh Chúa Kitô

Cũng như các bài Kinh Thánh của Chúa nhật trước, các bài đọc hôm nay nói với chúng ta về Hội Thánh. Chúng ta thử đổi kiểu tìm hiểu. Thay vì đi từ ngoài vào trong lòng Hội Thánh như đã làm Chúa nhật trước, hôm nay chúng ta đi từ trong ra ngoài, nhưng tạm dùng phương pháp thời gian.
Bài Tin Mừng không gợi lên sự việc trong chính ngày Chúa sống lại hay sao? Theo cách Luca kể thì Ðức Yêsu đã hiện ra với các môn đệ chính chiều ngày Người phục sinh. Còn bài sách Công vụ các Tông đồ cho chúng ta nghe lại lời của thánh Phêrô sau khi chữa lành một người què, tức là một thời gian sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Cuối cùng bài thư 1 Yoan là tác phẩm của nhiều chục năm sau.
Tuy nhiên dù trải rộng ra trên thời gian Giáo huấn của Hội thánh vẫn trước sau như một và vẫn muốn nói với chúng ta ngày hôm nay sứ điệp ngàn đời nhưng luôn luôn mới mẻ của Chúa.
Ðàng khác, tuy kể lại những sự việc xem ra cách quãng nhau khá dài trong thời gian, cả ba bài Kinh Thánh hôm nay đều đã được soạn hầu như cùng vào một thời đại; và nhất là đều nhằm một mục đích trình bày cho tín hữu về đời sống của Hội Thánh, dưới những khía cạnh làm cho nhau nên phong phú.

1. Một Cộng Ðoàn Khởi Sự Tin
Bài Tin Mừng theo thánh Luca cho chúng ta thấy hai môn đệ Emmaus vừa về tới Yêrusalem vào chiều tối ngày Chúa nhật phục sinh. Họ đến nơi các môn đồ của Chúa đang hội họp. Theo văn mạch, không những chỉ có các tông đồ nhưng cũng có cả những người khác. Họ đang bàn tán về việc Chúa đã hiện ra với các phụ nữ, và nhất là với Phêrô. Câu chuyện của hai môn đệ đi Emmaus không "ăn khách" bao nhiêu, bởi vì đối với mọi người điều đáng kể là Chúa đã hiện ra với Phêrô. Và như vậy có thể nói là việc Người sống lại đã được chính thức công nhận. Cộng đoàn tín hữu luôn hợp nhất với thủ lãnh của mình trong đức tin.
Họ đang bàn chuyện thì Chúa Yêsu hiện đến đứng giữa họ. Luca không nói rõ như Yoan rằng khi ấy cửa nhà nơi họ hội họp đang đóng kỹ vì sợ người Dothái. Nhưng Luca lại nhấn mạnh đến phản ứng của họ khi thấy Chúa thình lình đứng giữa họ. "Kinh hoàng khiếp đảm họ tưởng mình thấy ma". Không hiểu đã có bao giờ nhiều người thấy ma cùng một lúc không? Rõ ràng ở đây họ đã phản ứng như đêm nào đang ở trên thuyền gặp gió ngược, họ thấy một "bóng ma" đi trên nước. Họ kêu rú lên nhưng đã được trấn tĩnh: "Thầy đây đừng sợ" (Mc 6,47-50). Chúng ta có thể xích hai câu chuyện lại với nhau để nhìn thấy khi Ðức Yêsu hiện ra ở trên biển sóng gió, Người đã muốn mạc khải sự phục sinh và thần tính của Người; đang khi hôm nay hiện ra với họ trong thân xác phục sinh, Người muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.
Lời Người trách họ: tại sao hoảng hốt và có những suy nghĩ như thế ở trong lòng, khiến chúng ta lại nhớ tới những lời trách tương tự. Người đã nói với họ khi đi chung thuyền với họ mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy họ thì vất vả chèo chống, còn Người thì nằm ngủ. Họ đến lay Người dậy. Người trách họ hầu giống như hôm nay, nhưng rồi đã ra lệnh cho sóng gió lặng yên. Hôm nay, dùng những lời tương tự để trách họ, phải chăng Người không muốn gợi lại chuyện cũ để ngầm ý nói rằng: Người đã ngủ dậy, tức là đã sống lại; cộng đoàn của Người không còn gì phải sợ sóng gió trần gian nữa. Việc Người phục sinh là chiến thắng vĩnh viễn.
Nhưng có lẽ họ chưa bắt được hết ý tưởng của Người. Họ vẫn còn tưởng đây là ma, tức là "linh hồn" Người đã chết nay hiện về với họ. Có lẽ họ còn nhớ câu truyện vua Saolê thấy hồn tiên tri Samuel hiện lên (1S 28,8). Và như vậy họ càng sợ hơn nữa, vì vua Saolê ngày trước khi thấy Samuel hiện về đã khiếp sợ vì mặc cảm tội lỗi. Họ không có một chút mặc cảm này sao khi họ đã bỏ rơi Người trong mầu nhiệm tử nạn?
Nhưng không, Người không phải là Samuel. Người bảo họ sờ vào thân xác mang thương tích của Người để biết rõ đây không phải là "linh hồn" Người hiện về, nhưng là thân xác Người đã sống lại. Và những thương tích này không những không gây mặc cảm tội lỗi cho họ trái lại còn đem đến cho họ niềm vui cứu độ. Và để giúp họ tin hoàn toàn và dứt khoát, Người còn ăn một chút cá nướng trước mặt họ để họ thấy đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải linh hồn hiện về hay là ma. Có thể nói sự thật trước mắt đã xua đuổi hết mọi hồ nghi khỏi lòng môn đồ. Họ là những người có phúc vì được xem thấy. Nhưng họ còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục sinh cho những người không được phúc xem thấy. Chính cho những người này và để giúp các tông đồ diễn tả được niềm tin của mình, Chúa Yêsu đã bắt đầu dùng Thánh Kinh để giải thích cho họ về mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh cứu thế của Người. Làm công việc đó xong, việc hiện ra của Người mới hoàn tất.
Từ nay cộng đoàn dân Chúa có thể tiến bước vững vàng trên biển trần gian đầy sóng gió. Chúa Phục sinh đã ban cho họ những dấu hiệu về việc Người sống lại và đã dùng Thánh Kinh để củng cố những dấu hiệu ấy. Từ nay Hội Thánh vừa có các bí tích là những dấu hiệu ban ơn cứu độ vừa có Lời Chúa ghi trong Kinh Thánh. Với những "sản nghiệp" phong phú ấy và dưới sự lãnh đạo của Phêrô đã được Chúa sống lại hiện ra, cộng đoàn dân Chúa không những đã được lòng tin vững vàng mà còn có khả năng rao truyền và làm chứng niềm tin ấy nữa... Những điều này, chúng ta sẽ thấy trong hai bài đọc sau.

2. Một Cộng Ðoàn Rao Giảng Ðức Tin
Ai cũng thấy Phêrô và Yoan hôm nay không còn như hôm Chúa nhật Phục sinh nữa. Họ đã được đầy Thánh Thần. Không những tay họ đã làm cho một người què đi được; nhưng nhất là thần trí họ đã đổi mới hoàn toàn. Họ tin chắc chắn và dạn dĩ rao giảng việc Ðức Yêsu đã sống lại. Chính để làm chứng việc này, và để tỏ ra Người đã được tôn vinh, con người mà thiên hạ đã đóng đinh vào Thập giá, mà Thiên Chúa đã cho người què được khỏi tật khi tin vào Danh Ðức Yêsu Kitô.
Phép lạ này là một dấu hiệu. Thiên Chúa dùng tay các tông đồ để đến nói với mọi người. Nhưng người ta có thể hiểu dấu hiệu không đúng. Người ta có thể nghĩ " bởi quyền phép riêng, hoặc lòng đạo đức riêng" của các tông đồ mà người kia được khỏi tật. Phêrô đã giải thích: người ấy được khỏi vì Danh Ðức Yêsu, vì Thiên Chúa muốn làm chứng rằng Người mà họ đã đóng đinh vào thập giá, nay đã sống lại. Và như thế là đúng như Kinh Thánh đã nói.
Do đó ở đây cũng như ở trong bài Tin Mừng, người ta đã được nhìn thấy dấu hiệu rồi được dẫn giải về Kinh Thánh, để người ta tin Chúa Yêsu Phục sinh. Các bí tích và lời Chúa phải giữ vai trò trọng yếu trong lời rao giảng đức tin của Hội Thánh. Và nếu chúng ta hiểu bí tích có thể có một ý nghĩa rộng rãi hơn số 7 bí tích Hội Thánh vẫn cử hành, thì đi đôi với việc công bố Lời Chúa, Hội Thánh phải có những dấu hiệu thánh thiện giúp người ta lãnh hội Lời này. Và người tông đồ hiểu ngay các dấu hiệu nói đây có thể là chính thái độ, tư cách đạo đức mà mình phải có để khơi nguồn đức tin trong lòng người nghe.
Ðồng thời người tông đồ cũng còn phải làm như Ðức Yêsu trong bài Tin Mừng và như Phêrô trong bài sách Công vụ. Cả hai khi đem lại cho người ta những dấu hiệu và lời giảng về sự phục sinh, đã phải xua đuổi và làm tan biến những trở lực ở nơi họ đối với đức tin. Ðức Yêsu đã phải trách môn đồ về những tâm tư nghi ngờ. Phêrô phải mạnh bạo lột trần phần trách nhiệm của mỗi người trong việc giết đấng "khơi nguồn sự sống". Ở đây, chúng ta thấy người khẳng định rõ rệt và cụ thể hơn hôm người giảng lần đầu tiên khi người ta tuốn đến xem dấu hiệu Lửa Thánh Thần hiện xuống. Hôm ấy, người nói họ đã dùng tay kẻ vô đạo đóng đinh Ðức Yêsu vào Thập giá (2,23). Hôm nay người dám nói rằng: trong khi Philatô xét là phải tha Ngài, thì họ đã từ chối đấng Thánh và xin ân xá cho một tên sát nhân, rồi đã giết Ðấng là nguồn sự sống.
Nhưng đó cũng chỉ là vì "vô tri". Nay thấy Thiên Chúa đã mở mắt cho mọi người khi tôn vinh Ðức Yêsu, tức là cho Người sống lại từ cõi chết, thì họ phải "hồi đầu" trở lại để được tẩy xóa tội lỗi và được sống. Lúc ấy họ sẽ được phúc hơn cả người què vừa được chữa khỏi, vì mọi chúc lành Thiên Chúa đã hứa cho Abraham và dòng dõi ông, từ nay sẽ là kỷ phần của họ. Và như vậy, Ðức Yêsu thật là vị tiên tri mà Môsê đã nói sẽ đến và sẽ giống như mình, vì Người sẽ giải phóng dân khỏi tội lỗi và sự chết để khơi nguồn và trở thành sự sống mới cho họ.
Không chắc các thính giả Dothái hôm ấy đã bắt được hết ý tưởng của Phêrô. Nhưng hiển nhiên khi viết lại bài giảng này, sách Công vụ các Tông đồ muốn cho chúng ta lĩnh hội đầy đủ lời rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh. Phêrô lại làm cho các thính giả của người việc mà chính Ðức Yêsu đã làm cho các môn đồ khi hiện ra với họ. Dùng dấu hiệu và lời nói Chúa và Hội Thánh loan truyền cho chúng ta mầu nhiệm phục sinh như là công việc cứu độ của Thiên Chúa để chúng ta từ bỏ tội lỗi, "hồi đầu" trở lại với Ðấng là nguồn sống giải cứu chúng ta khỏi chết muôn đời, để khi giữ lời Người, chúng ta được hưởng mọi Lời Hứa tốt lành của Thiên Chúa.
Có lẽ muốn cho chúng ta chú ý đến điểm cuối cùng này mà phụng vụ đã đọc cho chúng ta nghe bài thư Yoan hôm nay.

3. Một Cộng Ðoàn Sống Ðức Tin
Xét theo thời gian của những việc xảy ra, bức thư này nói đến nếp sống khá lâu sau ngày Chúa nhật Phục sinh và tuần lễ Thánh Thần hiện xuống. Thánh Yoan viết thư cho con chiên của người để khuyên họ đừng phạm tội. Vì sao vậy? Có lẽ vì bấy giờ không còn phải là lúc mới tin đạo nữa. Buổi đầu, người ta sốt sắng và sống thánh thiện. Nhưng dần dần bắt đầu có sự nguội lạnh; rồi chống trả cám dỗ yếu đi, có nhiều tín hữu bắt đầu phạm tội.
Sự kiện này đặt ra một thắc mắc. Những kẻ đã tái sinh mà bây giờ phạm tội lại thì sẽ như thế nào? Họ không còn là "thánh hữu"; ít nhất cũng không thể bảo ho còn là tín hữu thánh thiện, vì họ đã phạm tội lại. Ơn cứu chuộc họ đã lãnh nhận một lần rồi; còn cách nào cứu họ được nữa không?
Chắc chắn hồi đó Hội Thánh chưa có đủ thời giờ và kinh nghiệm để khám phá ra bí tích cáo giải nơi kho tàng mạc khải. Thánh Yoan cũng chưa hiểu điều đó. Ðứng trước sự kiện có những tín hữu sa ngã lại, người chỉ biết đưa ra hai điều khuyên: một là cố gắng đừng phạm tội ; và hai là tội nhân hãy biết rằng chỉ có lòng tin vào Ðức Yêsu cứu thế là được tha tội mà thôi.
Người lấy hết tình "cha con" mà khuyên điều thứ nhất. Người gọi tín hữu là "các con thơ bé" để nói lên tình thắm thiết của một người cha, một người mẹ, hầu khẩn khoản nài xin họ đừng phạm tội. Và muốn như vậy, họ phải giữ các lệnh truyền của Chúa. Chắc chắn người muốn nói đến giới răn bác ái huynh đệ vì theo các tác phẩm của người, Chúa chỉ để lại cho chúng ta một lệnh truyền mà thôi, đó là chúng ta hãy yêu mến nhau. Ai giữ điều này là kẻ thật sự giữ đạo; bằng không nó là kẻ nói láo, vì lẽ nếu không yêu người anh em mà nó thấy thì làm sao có thể yêu Chúa là đấng vô hình được. Ðàng khác, nơi kẻ có lòng yêu thương anh em, lòng mến của Thiên Chúa mới nên trọn được. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Người ở trong lòng ai, thì kẻ ấy phải yêu thương tha nhân. Không yêu anh em là không có tình yêu ở trong lòng, khiến lòng mến của Thiên Chúa chưa làm sao nên trọn ở nơi kẻ ấy. Vậy như Thiên Chúa đã cứu chuộc chúng ta khi ban tình yêu cứu độ của Người cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải duy trì tình yêu ấy để được ở mãi trong ơn cứu độ.
Nhưng nếu trót phạm tội thì sao?
Thánh Yoan không dứt khoát trả lời. Người chỉ nêu lên một chân lý rất đúng để người ta trông cậy: hãy tin vào Ðức Yêsu Kitô là Ðấng công chính; Người là hy lễ đền tội của cả thế gian; Người là Ðấng bầu chữa cho tội nhân nơi Thiên Chúa Cha. Phải đợi nhiều năm sau nữa, Hội Thánh mới tìm thấy rõ ràng trong kho tàng mạc khải có nguồn nước tha tội phong phú là bí tích cáo giải.
Chúng ta ngày nay sống ở thời đại mà mầu nhiệm cứu chuộc đã được triển khai toàn diện. Nhưng dù đã biết bí tích cáo giải và nhiều kho tàng mạc khải khác, đời sống đạo đức của chúng ta vẫn phải có những nét như ở thời các tông đồ. Chúng ta vẫn phải nhờ vào các dấu hiệu, tức là các bí tích, và Lời Chúa trong Hội Thánh mà tin tưởng lãnh nhận ơn cứu độ. Ðó là ơn của Ðức Kitô Phục sinh giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi để quay đầu chúng ta về đời sống công chính. Chúng ta đừng phạm tội kẻo mất lòng mến Chúa ở nơi mình. Và cho được như vậy, phải yêu thương anh em. Nhưng nếu trót sa ngã lại, chúng ta phải chạy đến với Ðức Yêsu Kitô là hy lễ xá tội và là Ðấng bầu chữa cho tội nhân nơi Thiên Chúa Cha.
Mùa phụng vụ này kéo mắt chúng ta nhìn vào Người là Chiên Vượt qua. Chúng ta ngắm nhìn Người với lòng yêu mến cậy tin, thì chắc chắn chúng ta được thêm ơn tha thứ tội lỗi, được sự sống mới của mầu nhiệm phục sinh, cũng là lòng mến Chúa trọn vẹn hơn, để chúng ta sống bác ái huynh đệ nhiều hơn, làm chúng ta đang ở trong ơn cứu độ.
Thánh lễ sắp cho chúng ta được tiếp xúc và rước lấy Chiên Vượt qua. Chúng ta hãy sốt sắng tham dự với những tâm tình trên.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật III Phục Sinh, Năm B
Bài đọc: Acts 3:13-15, 17-19; I Jn 2:1-5; Lk 24:35-48.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức Kitô sống lại nằm trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa.
Đức Giêsu Kitô có sống lại thật không? Câu trả lời cho câu hỏi này rất quan trọng, vì nó sẽ xác định niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa và vào cuộc sống đời sau. Thánh Phaolô xác quyết: Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta sẽ ra vô ích. Làm sao để biết Đức Kitô có sống lại thật không? Sự kiện tìm thấy ngôi mộ trống với các khăn niệm để lại không đủ bằng chứng để một người tin Chúa đã sống lại, vì người khác có thể đánh cắp xác Chúa và phao tin đồn thất thiệt như người Do-thái và ngay cả các môn đệ của Chúa Giêsu đã nghi ngờ. Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta 3 bằng chứng hùng hồn về việc Chúa sống lại.
(1) Trong Phúc Âm, thánh-sử Lucas tường thuật việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ với lời mời gọi hãy rờ vào thi thể của Ngài, và với việc ăn khúc cá nướng trước mắt các ông, để chứng tỏ Ngài đã sống lại thật. Bên cạnh lần hiện ra hôm nay, các thánh-sử đã tường thuật việc  Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ nhiều lần: với Mary Magdala, với các phụ nữ trên đường về từ mộ, với hai môn đệ trên đường Emmaus, với 10 Tông-đồ không có Thomas, với 11 Tông-đồ có cả Thomas, với các Tông-đồ đi đánh cá; tổng cộng tất cả có ít nhất là 7 lần Chúa đã hiện ra.
(2) Trong Bài Đọc I cũng như trong Phúc Âm, các Tông-đồ cũng như Chúa Giêsu nhắc nhở cho độc giả biết: hãy đọc lại những lời Kinh Thánh và những gì Ngài đã dạy dỗ và báo trước, để biết chính Kinh Thánh đã làm chứng cho Chúa; chẳng hạn: Đấng Thiên Sai sinh ra từ giòng dõi David, tại Bethlehem (Mic 5:4). Thánh Thần Chúa xức dầu tấn phong và sai Ngài đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, chữa lành những người bệnh, phóng thích kẻ bị giam cầm (Isa 61:1). Đấng Thiên Sai phải chịu nhiều đau khổ để gánh tội cho con người (4 Bài ca về Người Tôi Trung của Isaiah). Đấng Thiên Sai sẽ phải chịu chết và ngày thứ ba Người sẽ sống lại (Hos 6:2). Thiên Chúa không “đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Psa 16:10).
(3) Trong Bài Đọc I và II, các Tông-đồ và các tín hữu đã can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh. Các ngài đã nhân danh Đức Kitô rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh, cuộc sống huynh đệ bỏ mọi sự làm của chung của các cộng đoàn tiên khởi, sự phát triển và vững bền của Giáo Hội hơn 2,000 năm qua với hàng triệu thánh nhân đã làm chứng cho Chúa, mỗi năm cả hàng trăm ngàn các anh chị em tân tòng gia nhập đạo.
Với 3 bằng chứng tổng quát và hàng triệu các nhân chứng, việc Chúa sống lại là điều chắc chắn đã xảy ra, và niềm tin của chúng ta sẽ được cùng sống lại với Ngài được đặt trên một nền tảng vững vàng, chắc chắn hơn xây nhà trên đá.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Kitô đã chết và sống lại nằm trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa.
1.1/ Lầm lỡ của kiếp người: Đã là con người, không ai không phán đoán sai lầm và làm những điều tội lỗi. Thánh Phêrô nhắc lại tội của những người trong Thượng Hội Đồng và của toàn dân Do-thái đã làm trong Cuộc Thương Khó của Đức Kitô: “Thiên Chúa của các tổ phụ Abraham, Isaac và Jacob, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng.”
1.2/ Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Theo Kế Hoạch này, Đức Kitô phải chịu đau khổ (Isa 52:13-53:12), chết, và sống lại (Hos 6:1-2); để gánh tội cho con người (Jn 1:29) và bảo đảm cho họ sẽ được sống đời đời (Isa 49:6, Jn 6:39-40). Vì thế, thánh Phêrô quả quyết việc người Do-thái lầm lỗi kết tội Con Thiên Chúa nằm trong Kế Hoạch của Thiên Chúa: "Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình.” Điều quan trọng không hệ tại ở chỗ lầm lỡ kết tội; nhưng ở chỗ biết nhận ra tội của mình, như Phêrô kêu gọi dân chúng: “Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em.”
2/ Bài đọc II: Đức Kitô đã chết và sống lại để xóa bỏ tội lỗi và làm cho con người khỏi chết.
2.1/ Đức Kitô là của lễ đền bù tội của nhân loại: Tiếp tục ý tưởng của thánh Phêrô trong Bài Đọc I, thánh Gioan cũng khuyên các môn đệ của Ngài về sự hiện hữu của tội, và nhu cầu cần phải ăn năn sám hối mỗi khi lầm lỡ để được tha tội: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính.
Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa.” Vì có Đức Kitô sẵn sàng tha thứ tội, con người không còn làm nô lệ cho tội và cho sự chết nữa; nếu họ biết ăn năn thú tội mỗi khi lầm lỡ.
2.2/ Yêu mến Thiên Chúa là giữ cẩn thận các giới răn của Ngài: Theo thánh Gioan, yêu Thiên Chúa không phải chỉ bằng lời nói, nhưng phải biểu tỏ qua hành động như Chúa Giêsu cũng đã từng dạy dỗ các môn đệ của Ngài: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa.” Dĩ nhiên, thánh Gioan không phủ nhận sự yếu đuối và sa ngã của con người; tuy nhiên, con người phải cố gắng sống những gì Chúa dạy. Nếu con người sa ngã vì yếu đuối, Chúa Giêsu sẵn sàng tha tội cho họ qua Bí-tích Giải Tội.
3/ Phúc Âm: Chúa thân hành hiện ra và Kinh Thánh là hai bằng chứng của Mầu Nhiệm PS.
3.1/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông-đồ: Thánh-sử Lucas chú trọng đến những chi tiết về thi thể của Chúa Giêsu Phục Sinh trong trình thuật hôm nay.
(1) Chúa Phục Sinh có hình dạng để con người nhận ra: Khi một người nhìn thấy người chết hiện về, cảm tưởng của họ chắc cũng giống như các môn đệ trong trình thuật hôm nay: Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Tuy nhiên, như trong trình thuật của 2 môn đệ trên đường Emmaus, Chúa Giêsu phải có một hình dạng con người để các môn đệ có thể nhận ra và có tay để bẻ bánh.
(2) Chúa Phục Sinh có thân xác để mọi người có thể sờ vào: Thấy các ông còn nghi ngờ Người là ma, Người mời gọi các ông sờ vào Người: "Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ sờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?" Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem.
(3) Chúa Phục Sinh có thể ăn uống như một con người: Thấy các ông còn đang ngỡ ngàng, Người quyết định tiến xa hơn: "Ở đây anh em có gì ăn không?" Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông. Ma quỉ không thể ăn như Chúa Giêsu ăn trước mắt các môn đệ, vì chúng không có thi thể của con người.
3.2/ Giải thích Lời Kinh Thánh cho các Tông-đồ:Rồi Người bảo các ông: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Moses, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm." Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Theo truyền thống Do-thái, Kinh Thánh bao gồm cả 3 phần: Sách Luật, Sách Ngôn-sứ, và các Thánh Vịnh. Cả ba đều làm chứng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.
(1) Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm: Trong 4 Tin Mừng cũng như Sách CVTĐ, rất nhiều lần nói tới việc: “như lời các ngôn sứ loan báo,” hay “để lời Kinh Thánh nên trọn.” Trong giới hạn của Bài Giảng, chúng tôi chỉ nêu lên một ví dụ cụ thể cho mỗi phần của Kinh Thánh:
- Sách Luật: (Jn 6:45) dẫn chứng (Deut 18:15): “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy.”
- Sách Ngôn-sứ: (Mt 8:17 và 12:18) lặp lại (Isa 42:1-4, 49:1-6, 50:4-9, 52:13-53:12) về Người Tôi Trung chịu đau khổ. (Mt 12:40) lặp lại (Hos 6:2 và Jon 2:1): “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.” (Mt 21:5) dẫn chứng Zech 9:9 về một vị vua khiêm nhường: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.”
- Thánh Vịnh: (Mk 12:10) dẫn chứng (TV 118:22): “Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường.” (Jn 10:35) dẫn chứng (TV 82:6 và Exo 7:1): “Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ.” (Jn 13:18) dẫn chứng (TV 41:10) về sự phản bội của Judah: “Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con.”
(2) Nhiệm vụ của các Tông-đồ: Sau khi đã củng cố niềm tin của các ông bằng việc hiện ra và cắt nghĩa Kinh Thánh, người truyền cho các ông “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Jerusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không bao giờ được để báo chí, dư luận, và cám dỗ thế gian, làm lung lay niềm tin của chúng ta vào sự Phục Sinh của Đức Kitô và vào sự sống đời sau; vì chúng ta đã có quá nhiều bằng chứng và nhân chứng về niềm tin này.
- Khi chúng ta đã tin vào sự sống lại của Đức Kitô, chúng ta cũng phải tin vào những gì Ngài dạy dỗ: sự hiện diện của tội lỗi và nhu cầu được tha thứ, con đường đau khổ là con đường của những người môn đệ Chúa, và phải giữ các giới răn của Ngài.
- Chúng ta phải tin tưởng và năng đọc toàn bộ Kinh Thánh, không được bỏ một phần hay một Sách nào cả, vì toàn bộ Kinh Thánh liên quan đến Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Kế Hoạch này được Đức Kitô thi hành đến chỗ toàn hảo.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

19/04/15 CHÚA NHẬT TUẦN 3 PS – B
Lc 24,35-48

Suy niệm: Một cơn gió có thể làm cho con diều cất cao khỏi mặt đất; một cuộc gặp gỡ Chúa Giê-su phục sinh đủ làm thay đổi cuộc đời con người tức khắc và mãi mãi. Đó là kinh nghiệm gặp Chúa của hai môn đệ Em-mau. Họ đang lê gót về quê cũ mà lòng não nề, thất vọng sau cái chết thảm của Thầy Giê-su. Đi bên cạnh họ, Đức Giê-su lắng nghe họ kể lể nỗi lòng. Thực ra, Ngài muốn họ bày tỏ con người thật của họ đang bị tắt ngấm niềm tin hơn là nghe câu chuyện. Chúa biết họ đang thiếu một đốm lửa của niềm tin, đốm lửa này một khi được bùng lên sẽ phá vỡ bóng tối dày đặc đang che khuất niềm hy vọng nơi họ, sẽ làm cho gương mặt của họ tươi vui thay vì sầu buồn, sẽ giúp họ phấn khởi quay lại Giê-ru-sa-lem để sống đời truyền giáo, thay vì quay về chốn cũ. Chúa Giê-su đã thắp lên đốm lửa ấy, đó là lời Chúa và Thánh Thể, đốm lửa ấy làm biến đổi tâm hồn và cuộc đời họ, khiến họ chia sẻ rằng lòng họ bừng cháy vì được nghe lời Chúa và gặp Chúa.
Mời Bạn: Những khi nghe lời Chúa, mỗi khi tham dự thánh lễ, bạn hãy sống kinh nghiệm của hai môn đệ Em-mau: lòng bừng bừng cháy và mắt sáng lên vì nhận ra Chúa.
Sống Lời Chúa: Trong ngày sống hôm nay, bạn hãy chia sẻ cho người khác niềm vui gặp Chúa Phục Sinh của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su Phục Sinh, làm chứng về công việc và lời nói của Chúa thì không khó, nhưng khó là chỉ nói mà ít bắt chước theo Chúa. Xin cho con mỗi ngày theo Chúa không chỉ trong lời nói mà còn trong hành động nữa. Amen.


Cứ mỗi lần rảo bước dưới nắng chiều, tôi lại nhớ tới cái hình ảnh tuyệt vời khi Chúa Giêsu cũng đi bên cạnh hai môn đệ trên đường Emmaus.
Hôm đó là ngày thứ ba kể từ bữa Chúa Giêsu bị đóng đinh. Các môn đệ cũng có ý chờ xem động tĩnh ra sao, vì trước đó Ngài có nói ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Sáng sớm có mấy người phụ nữ ra mồ, rồi trở về báo tin ngôi mộ trống rỗng. Sau đó, một vài anh em đã vội vã chạy đi kiểm chứng. Nhưng rồi cũng có hai người chán nản bỏ về làng cũ, tên là Emmaus. Không ngờ dọc đường có một người cùng bước đi với họ. Nghe họ giãi bày tâm sự và lấy Kinh Thánh giải thích cho họ hiểu Đức Kitô phải chịu đau khổ trước khi vào vinh quang. Vì trời đã xế chiều, nên họ mời Ngài dừng chân với họ trong lữ quán. Đến lúc ngồi vào bàn ăn, họ mới nhận ra đó là Chúa Giêsu. Nhưng Ngài đã biến đi. Lập tức họ hối hả chạy về Giêrusalem để báo tin cho các bạn. Thế nhưng, khi họ vừa đến nơi, chưa kịp nói gì thì người ta đã cho biết: Chúa đã sống lại và hiện ra với Simon. Họ còn đang trao đổi, thì này Chúa Giêsu đã đứng giữa họ và nói: Bình an cho các con.
Đúng thế, Chúa Giêsu đã sống lại và Ngài có mặt ở khắp nơi, Ngài cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời, từ thành phố đến đồng quê, từ quán trọ đến gia đình. Đâu đâu cũng có Ngài hiện diện. Trước khi chúng ta ra đi, Ngài đã ở đó. Đang khi chúng ta rảo bước, Ngài đã có ngay bên. Rồi trước khi chúng ta đến nơi, Ngài đã đứng đợi và đang khi chúng ta nghỉ mệt, Ngài đã thăm hỏi. Lúc nào cũng có Ngài.
Xưa kia ở Palestine, là một công nhân, Chúa Giêsu đã lao động như chúng ta với nghề thợ mộc. Ngài đã trải qua những ngày tháng long đong không nhà không cửa, những ngày tháng đói nghèo như chúng ta. Ngài ở ngay bên chúng ta, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của chúng ta. Không những chỉ chia sẻ, mà hơn thế nữa, là Thiên Chúa, Ngài còn có mặt ở đó để cứu giúp chúng ta.
Tại Cana, Ngài đã đến dự đám cưới với mọi người. Ngày nay Ngài cũng có mặt trong đám cưới của bất cứ đôi tân hôn nào, để họ được nối kết trong yêu thương. Rồi trong ngày tang tóc của gia đình Martha, Ngài đã đến thăm và làm cho Ladarô được sống lại. Hôm nay Ngài cũng đến trong gia đình chúng ta để an ủi khích lệ khi chúng ta gặp phải cánh đau buồn. Ngài đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều để nuôi sống đám đông đi theo Ngài. Hôm nay Ngài cũng sẽ ban kết quả cho những lao công khó nhọc của chúng ta, để chúng ta có được những chém cơm, những manh áo.
Mục sư Richard Wurmbrand bị tù lâu năm chỉ vì là Kitô hữu. Có lúc ông đã chán nản tuyệt vọng, nhưng rồi ông lấy lại niềm cậy trông, khi nhớ tới lời hứa của Chúa: Đừng sợ, vì Ta ở với con. Rồi ông nói: Trong Đức Kitô có tất cả 365 chữ đừng sợ theo kiểu đó, nên tôi tự nhủ mỗi ngày chỉ sống một chữ cũng đủ rồi.
Hôm nay giữa mọi gian truân thử thách, Chúa cũng đang ở bên cạnh chúng ta để chia sẻ và nâng đỡ. Chúng ta có ý thức được điều đó hay không?

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19 THÁNG TƯ
Thoát Khỏi Ách Thống Trị Của Sự Chết
Nếu chúng ta không thuộc về Thiên Chúa như các chứng nhân và các môn đệ của Đức Kitô, thì chúng ta sẽ hoàn toàn thuộc về thế giới đã sa ngã này. Toàn bộ cuộc sống của chúng ta sẽ dẫn đến sự chết. Qua cái chết, thế giới vật chất sẽ khống chế hoàn toàn phẩm giá của chúng ta trong tư cách là những con người, làm cho chúng ta trở thành ‘bụi đất’ không hơn không kém. Nếu không có đức tin vào Chúa Kitô, thì đấy sẽ là viễn tượng duy nhất của cuộc sống con người. Sự hiện hữu của con người sẽ thật là ảm đạm.
Cuộc Phục Sinh của Đức Kitô giải thoát chúng ta khỏi một viễn tượng tối tăm như thế. Cuộc Phục Sinh ấy giải thoát chúng ta khỏi ách thống trị của sự chết. Đó là lý do tại sao niềm vui Phục Sinh của chúng ta tiên vàn là một niềm vui bật ra từ mầu nhiệm sáng tạo. Bởi đó, chúng ta vui mừng, vì Chúa là Thiên Chúa, vì Ngài đã dựng nên chúng ta, vì chúng ta thuộc về Ngài.
Chúng ta vui niềm vui Phục Sinh vì chúng ta là dân của Thiên Chúa, là đàn chiên do Ngài dẫn dắt. Trong Mùa Phục Sinh, hình ảnh Đức Kitô là Chúa Chiên Lành hiện lên rõ ràng. Người nói về chính mình: “Ta là mục tử tốt lành. Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta.” (Ga 10,14)
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 19-4
Chúa Nhật III Phục Sinh
Cv 3, 13-15.17-19; 1Ga 2, 1-5a; Lc 24, 35-48.

LỜI SUY NIỆM: “Các ông đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo “Bình an cho anh em”.
Các môn đệ đã bỏ tất cả mà theo Chúa Giêsu; vì nhận ra nơi Người là Đấng Ki-tô; nhưng rồi Người đã chết do những con người, và những thế lực chống đối Người. Các ông đâm ra sợ, mặc dầu các ông đã nghe bà Maria Mác-đa-la, cũng như hai người môn đệ trên đường về quê thuật lại, là Chúa đã sống lại, nhưng các ông vẫn bàn tán trong lo sợ. Chúa Giêsu đã đích thân hiện ra với các ông và ban “Bình an” cho các ông; để giúp cho các ông vững tin vào Người.
Lạy Chúa Giêsu, trong mọi thời đại, luôn có những con người, những tập thể, và những quyền lực muốn loại bỏ Chúa ra khỏi trần gian này, và họ cũng đang dùng nhiều hình thức muốn gạt bỏ những người tin vào Chúa. Xin Chúa luôn ban ơn đức tin và bình an của Chúa cho mọi thành viên trong gia đình chúng con. Để luôn giữ vữn đức tin. Tin vào Chúa.
Mạnh Phương


19 Tháng Tư
Trò Chơi Hòa Bình
Một ngày kia, trên con đường đi bách bộ ngang qua một sân chơi, ông Marschak, một nhà văn Liên Xô, dừng lại quan sát các trẻ em vừa lên sáu, lên bảy đang chơi đùa với nhau trên sân cỏ.
Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi: "Này các em, các em đang chơi trò gì đó?". Bọn trẻ nhôn nhao trả lời: "Các em chơi trò đánh nhau".
Nghe thế, ông Marschak hơi cau mày. Rồi ra dấu cho các em đến gần, ông ôn tồn giải thích: "Tại sao các em chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các em biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì đẹp đẽ đâu. Các em hãy chơi trò chơi hòa bình xem nào".
Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên: "Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao". Rồi cả bọn kéo nhau chạy ra sân, chụm đầu nhau bàn tán. thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn Marschak tỏ vẻ hài lòng, mỉm cười tiếp tục cất bước. Nhưng không được bao lâu, ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông nghe một giọng trẻ em hỏi: "Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết".
Vâng, làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình khi chúng chỉ thấy người lớn "chơi trò chiến tranh". Khi chúng thấy các anh lớn lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự trong lúc đất nước không còn một bóng quân thù.
Làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình, khi mỗi ngày chúng thấy trên truyền hình, trên các mặt báo hình ảnh của những người lớn bắn giết nhau, thủ tiêu nhau, ám sát nhau.
Làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình, khi trong chính gia đình chúng thấy anh chị, thậm chí đôi khi cả cha mẹ chúng lớn tiếng cãi vã, mắng chửi nhau. Có khi họ dùng cả tay chân để thay lời nói. Trong thức tế, bầu khí người lớn tạo ra để cho các trẻ em lớn lên không phải là bầu khí hòa bình.
Ðến bao giờ thế giới của người lớn mới hiểu và thực tâm tìm phương thế giải quyết sự mâu thuẫn: là hằng ngày thế giới của người lớn bỏ ra cả tỷ Mỹ kim cho việc nghiên cứu và trang bị về vũ khí.
Trong khi đó, trên thế giới có 800 triệu người sống dưới mức tối thiểu cần thiết cho con người, nghĩa là họ đang bị đe dọa chết đói. Có 600 triệu người trên thế giới đang bị mù chữ. Chỉ có 4 trong số 10 trẻ em được cắp sách đến trường tiểu học trong hơn ba năm. Và cứ 10 đứa trẻ sinh ra trong cảnh cơ hàn thì 2 trẻ bị chết trong năm đầu tiên.
Vâng, thế giới người lớn phải bắt đầu loại bỏ chiến tranh và xây dựng hòa bình, nếu họ muốn trẻ con cũng noi gương chơi trò chơi ấy.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét