Hãy
Học Với Thầy, Tâm Hồn Các Con Sẽ Được Nghỉ Ngơi Bồi Dưỡng
Tu huynh Guillaume, đan sĩ Xitô người
Pháp, phát biểu về ơn gọi đời sống thánh hiến như sau. Lưỡi gươm mà cụ già
Simêông nói với Đức Maria, Mẹ của Hài Nhi GIÊSU trong Tin Mừng theo thánh Luca
chương 2 câu 35, nói lên ơn gọi tiên tri của đời sống đan tu đồng thời nói lên
sự sẵn sàng để cho bị đâm thâu, bị trần trụi vì Lời Chúa trên con đường từ bỏ
để thực thi 3 lời khuyên Phúc Âm, chọn lựa lối sống vừa cô tịch vừa cộng đoàn,
nhất là nếp sống khó nghèo để được dồi dào hoa quả của THIÊN CHÚA.
Sau đây là chứng
từ ơn gọi đời sống thánh hiến của Chị Têrêxa Hài Đồng GIÊSU nữ tu Kín Cát Minh thuộc đan viện Nevers ở miền Trung nước Pháp.
Tôi chào đời năm
1921 và là con gái đầu lòng của một đôi vợ chồng nông dân trẻ. Đó là thời kỳ
khó khăn sau đệ nhất thế chiến 1914-1918. Thật vậy, Song Thân tôi mới đến lập
nghiệp tại một ngôi làng bị tàn phá vì chiến tranh và chưa được tái thiết. Gia
đình chúng tôi sống trong khó nghèo túng thiếu hơn là giàu sang sung túc. Một
ưu điểm chuẩn bị trước cho tôi sẽ bước vào đời sống ơn gọi kín Cát Minh trong
tương lai.
Giữa năm 1927 và
1928 thân phụ tôi lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh. Giáo xứ tôi, đã long trọng
mừng Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU (1873-1897) được tôn phong hiển thánh năm
1925, cùng hiệp ý xin thánh nữ bầu cử cho thân phụ tôi được ơn khỏi bệnh. Bà
Nội tôi còn hứa là nếu thân phụ tôi thoát chết Bà sẽ cho vợ chồng con trai Bà
đi hành hương Lisieux. Lời Khấn Xin được chấp nhận. Thân Phụ tôi khỏi bệnh và
chuyến hành hương Lisieux đã diễn ra. Song Thân mang về cho chúng tôi quyển
sách ”Đóa Hồng Trụi Lá” kể chuyện cuộc đời Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU. Đây
là tiếp xúc đầu tiên của tôi với thế giới Carmêlô.
Vào ngày tôi
rước lễ trọng thể, vị Linh Mục hỏi tôi có muốn đi tu làm dì phước không, tôi
dứt khoát trả lời ngay là Không! Lúc ấy tôi chỉ có một hiểu biết thô sơ về tôn
giáo và có một tư tưởng sai lầm về con đường nên thánh của đời sống tu dòng nên
nghĩ là mình không xứng đáng!
Lễ Giáng Sinh
năm 16 tuổi tôi được diễm phúc sống kinh nghiệm ơn giữ thinh lặng và cầu
nguyện. Ơn này tái diễn vào Lễ Mình Thánh Chúa. Điều này khơi dậy trong tôi
Tiếng Gọi bước vào đời sống thánh hiến. Nhưng tôi cương quyết đẩy lui. Rồi đến
đệ nhị thế chiến 1939-1945 bùng nổ. Năm 1940 với mức xâm lăng nhanh chóng của
quân Đức, gia đình chúng tôi tan tác chạy loạn. Nguy hiểm rình rập khắp hang
cùng ngõ hẽm. Chính khi ấy tôi kêu lên cùng Chúa:
-
Con sẽ đi tu làm dì phước nếu gia đình con được đoàn tụ nhưng con không biết là
con có khả năng hay không và cũng không biết sau đó gia đình con ra sao.
Cầu nguyện xong
tôi phó thác tâm tình dâng hiến cho Đức Chúa GIÊSU.
Vào Chúa Nhật
thứ nhất Mùa Vọng năm 1941 Tiếng Chúa gọi được bày tỏ khi tôi đang vắt sữa bò.
Tôi cảm nhận - chứ không trông thấy - sự hiện diện của Đức Chúa GIÊSU và nghe
một lời nói bên trong là Ngài yêu tôi. Tôi liền hiểu là tôi được gọi để trở
thành nữ tu Kín Cát Minh. Tôi quyết định trình bày cho Cha Sở biết câu chuyện của
tôi. Cha Sở khuyên tôi nên đợi một năm.
Thời gian trôi
qua. Ơn Gọi chín mùi. Cha Sở bảo tôi phải nói cho Song Thân biết vào Tuần Thánh
năm 1943. Cha Mẹ tôi trả lời là phải chờ đến khi chiến tranh chấm dứt. Nhưng
tôi quyết định liên lạc với Nhà Kín và sau cùng thì Song Thân cũng chấp nhận
cho tôi gia nhập Dòng Kín sau lễ Phục Sinh. Song Thân chấp nhận với ý nghĩ là
nhờ hy sinh của các ngài mà cuộc đổ bộ của quân đội đồng minh được chờ đợi từ
lâu sẽ sớm diễn ra. Và thực tế đã xảy ra như vậy. Tôi gia nhập Đan Viện Kín Cát
Minh ngày 14-4-1944 và cuộc đổ bộ diễn ra vào ngày 6-6-1944.
Vào Đan Viện Kín
tôi đặt rất nhiều câu hỏi về Đức Tin. Nền huấn luyện thiêng liêng trong thời kỳ
tập viện mang lại cho tôi nhiều câu trả lời giúp tôi sống Niềm Vui Phúc Âm nhờ
kho tàng phong phú của Lời Chúa và việc tự dâng hiến vì tình yêu. Câu Đức Mẹ
MARIA đáp lời thánh tổng lãnh thiên thần Gabrie trở thành lời thân thưa của tôi
với Chúa: ”Này con là nữ tỳ Chúa, xin
Chúa cứ làm cho con như lời sứ thần nói” (Luca 1,38).
... Vào lúc ấy, Đức Chúa
GIÊSU cất tiếng nói: ”Lạy CHA là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen CHA, vì
CHA đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại
mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy CHA, vì đó là điều đẹp ý CHA .. CHA
Thầy đã giao phó mọi sự cho Thầy. Và không ai biết rõ Người Con, trừ CHÚA CHA;
cũng như không ai biết rõ CHÚA CHA, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mặc
khải cho .. Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy,
Thầy sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Thầy, và hãy học
với Thầy, vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ
ngơi bồi dưỡng. Vì ách Thầy êm ái, và gánh Thầy nhẹ nhàng” (Matthêu 11,25-30).
(Ӄglise
de la Nièvre”, La revue du diocèse de Nevers, No 3, Mars 2015, trang 22-23)
Sr. Jean
Berchmans Minh Nguyệt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét