Ngày 25 tháng 4
Lễ Thánh Marcô, Thánh Sử
Lễ Kính
* Thánh Marcô là cháu của thánh
Barnaba. Người đã đi theo thánh tông đồ Phaolô trong hành trình truyền giáo lần
thứ nhất, và theo đến tận Rôma. Người cũng là môn đệ của thánh Phêrô và là
thông ngôn của thánh Phêrô, đã soạn lời giảng của thánh Phêrô thành sách Tin Mừng.
Truyền thống cho rằng người đã sáng lập giáo đoàn Alexandria
Bài
Ðọc I: 1 Pr 5, 5b-14
"Marcô,
con tôi, gửi lời chào anh em".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh
em thân mến, tất cả anh em hãy mặc lấy đức khiêm nhường để đối xử với nhau, vì
Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho người khiêm nhường. Vậy anh em
hãy hạ mình dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người nhắc anh em lên
trong thời giờ Người thăm viếng. Anh em hãy trút bỏ cho Người mọi điều lo lắng
của anh em, bởi vì chính Người chăm sóc anh em.
Anh
em hãy ăn ở tiết độ và hãy tỉnh thức, vì kẻ thù anh em là ma quỷ, như sư tử gầm
thét, nó rình mò chung quanh, tìm kiếm một ai để nuốt. Anh em hãy vững vàng
trong đức tin mà chống lại nó, vì biết rằng hết mọi người anh em khác trong thế
gian đều phải chịu cùng một sự đau khổ đó. Nhưng Thiên Chúa nguồn mạch mọi ân sủng,
Ðấng đã kêu gọi anh em tham dự vinh quang đời đời của Người trong Ðức Giêsu
Kitô, chính Người sẽ làm cho anh em là những người chịu đau khổ ít lâu, được
hoàn thiện, vững vàng và kiên cố. Nguyện Người được vinh quang và uy quyền đến
muôn đời. Amen.
Nhờ
Silvanô, người anh em trung tín, tôi cam đoan như thế, tôi viết vắn tắt thư này
cho anh em, để khuyên nhủ và chứng thực rằng đó là ơn đích thực của Thiên Chúa,
và anh em đang tận hưởng. Hội thánh được tuyển chọn ở Babylon và Marcô, con
tôi, gởi lời chào anh em. Anh em hãy chào nhau trong cái hôn thánh thiện.
Nguyện
(chúc) ơn Chúa ở cùng tất cả anh em, những người ở trong Ðức Giêsu Kitô. Amen.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 88, 2-3. 6-7. 16-17
Ðáp: Lạy Chúa, con
sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời. Qua mọi thế hệ, miệng con
loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng
vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2)
Lạy Chúa, trời xanh ca tụng những kỳ công của Chúa, và lòng trung thành Chúa
trong công hội thánh nhân. Vì trên cõi nước mây, ai bằng được Chúa, trong các
con Thiên Chúa, ai giống như Ngài? - Ðáp.
3)
Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan
Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài. -
Ðáp.
Alleluia:
1 Cr 1, 23. 24
Alleluia,
alleluia! - Chúng tôi rao giảng Ðức Kitô chịu đóng đinh, Ngài là quyền năng và
khôn ngoan của Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mc 16, 15-20
"Các
con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng".
Bài
kết thúc Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp
thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ
được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những
người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn
trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những
người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".
Vậy
sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần
các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông,
và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Sư Tử Có Ðôi Cánh
Khách
du lịch đến thưởng ngoạn Venezia, một thành phố mơ mộng nằm trên sông nước và
được làm tăng thêm vẻ đẹp bằng những công trình kiến trúc độc đáo cũng như bằng
những tác phẩm nghệ thuật thời danh nằm ở mạn đông bắc Italia, không thể bỏ qua
công trường Marcô, công trình mang tên của vị thánh bổn mạng của thành phố
Venezia và cũng là vị thánh Giáo hội mừng kính hôm nay.
Trên
con đường tiến gần đến công trường Marcô, du khách nhìn thấy một con sư tử có
đôi cánh đứng sừng sững trên một ngọn tháp cao. Hình sư tử này nhắc đến sự nghiệp
viết sách Phúc Âm đầu tiên của thánh Marcô, như chứng từ của sử gia Papias,
sinh sống vào cuối thế kỷ thứ hai viết như sau:
"Marcô,
người thông ngôn của Phêrô, đã viết ra đúng những gì nhớ được, tuy không theo
thứ tự, về những điều Ðức Kitô đã nói và đã làm. Marcô không trực tiếp nghe
Chúa giảng, cũng không phải là môn đệ của Ngài. Nhưng ông đã tháp tùng Phêrô,
người đã giảng dạy theo những gì ông cảm thấy cần thiết, chứ không phải chủ tâm
thuật lại lời Chúa một cách có hệ thống".
Marcô
là người thông ngôn và lãnh trách nhiệm chép lại những lời Phêrô giảng, vì thế
không lạ gì ở cuối bức thư thứ nhất, Phêrô gọi ông là "Marcô, người con của
tôi".
Ngoài
sự gần gũi với thánh Phêrô, Marcô cũng tiếp xúc lân cận với Phaolô, bắt đầu vào
lần gặp gỡ đầu tiên vào năm 44, khi Phaolô và Barnaba đưa về Giêrusalem số tiền
cộng đoàn Antiokia quyên được để trợ giúp cộng đoàn Mẹ. Khi trở về, Barnaba đem
theo Marcô, là cháu của ông.
Sau
đó, trong khi đồng hành với Phaolô và Barnaba để hoạt động truyền giáo ở đảo
Cypre, vì một sự bất đồng ý kiến nào đó, Marcô đã bỏ về Giêrusalem. Vì lý do
này, trong chuyến truyền giáo thứ hai, Phaolô đã nhất quyết không cho Marcô
theo, mặc dù Barnaba tha thiết yêu cầu. Sự kiện này đã gây đổ vỡ đến sự cộng
tác giữa Phaolô và Barnaba.
Nhưng
trong những ngày cuối đời, khi chờ đợi ngày hành quyết, Phaolô đã viết thư nhắn
với Timôthê: "Hãy đem cả Marcô đến nữa, vì tôi cần sự giúp đỡ của anh ấy lắm".
Bạn bè người ta muốn gặp trong những ngày cuối đời phải là những người đồng
sinh đồng tử!
Những
chi tiết khác nhau đó của cuộc đời của thánh Marcô không lấy gì làm chắc. Có
tài liệu cho là thánh nhân chết tự nhiên. Tài liệu khác lại cho là thánh nhân
được phúc tử đạo. Vương cung thánh đường tại công trường Marcô ở Venezia tự hào
là còn giữ lại hài cốt của Ngài.
Trong
cuộc sống, Marcô đã chu toàn bổn phận mà mọi người Kitô được kêu gọi phải thực
thi: Ðó là rao giảng Tin Mừng và làm chứng về Ðức Kitô. Marcô đã thực hiện công
việc này đặc biệt qua công tác viết sách Phúc Âm, những người Kitô khác qua kịch
nghệ, âm nhạc, thơ phú hay qua việc dạy đạo cho con em quanh bàn ăn của gia
đình hoặc qua cuộc sống chứng tá trong những sinh hoạt và nếp sống hằng ngày.
Veritas Asia
SUY
NIỆM 2: Thánh Sử Marcô
Người
ta không chắc chắn Mác-cô là tác giả sách Tin Mừng thứ hai, nhưng người ta rất
đồng ý về đời sống của Ngài là một phần tử thực hiện lệnh truyền đi rao giảng
Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô cho mọi dân tộc không phân biệt ranh giới không
gian và thời gian. Sách Công Vụ Tông Đồ (13, 13, 15, 38) đã cho chúng ta thấy
Mác-cô còn trẻ người non dạ, vì Thánh Phaolô đã thất vọng từ chối không nhận
Mác-cô trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai của Ngài. Tuy nhiên khi trở
về Giê-ru-sa-lem quê nhà cha mẹ, Mác-cô đã có nhiều điểm tốt phụng vụ cộng đồng
Ki-tô hữu tiên khởi. (Cv. 12,12). Rồi Ngài đi với cậu mình là Bêrnabê đi truyền
giáo ở đảo Síp.(Chypre), sau đó đến Rôma nhập đoàn với Thánh Phaolô đang bị tù,
và Ngài đã giúp Thánh Phêrô như là một thông dịch viên, có lẽ nhờ công việc
này, đã xuất bản cuốn Tin Mừng Mác-cô, rất tượng hình, rất gần kinh nghiệm của
Phêrô sống với Đức Giê-su; người ta còn nói Ngài còn là Giám Mục tiên khởi Hội
Thánh ở Alexandria, và sau cùng ở Venise, nên Tin Mừng của Ngài có biểu tượng nổi
tiếng là con sư tử.
Chúng
ta hãy trở lại Tin Mừng của Ngài. Người ta tin tác phẩm Tin Mừng là của Ngài đã
để lại một tâm sự trong đoạn 14, 51-52 kể lại: “Trong khi đó có một cậu
thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn chỉ một tấm vải gai. Họ túm lấy
anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng”. Đây cũng là dấu chỉ sự sống
lại trong những người được sai đi rao giảng Tin Mừng và cũng đủ trả lời khá rõ
ràng về tác giả Tin Mừng là của Thánh Mác-cô, một Tin Mừng có một có một sức mạnh
rất cụ thể sống động chống lại sức mạnh của quỉ dữ muốn làm hại Đức Giê-su.
Ngày nay người ta khá coi thường một thứ Tin Mừng có nhiều phép lạ, nó lôi kéo
chú ý về những kỳ lạ hơn về sứ điệp thứ tha và giải tháot của Tin Mừng; may
thay bản văn vẫn ưu tiên dành cho lời Chúa. Hãy suy nghĩ đến sức mạnh tâm hồn của
các vị truyền giáo, đến những ân huệ các Ngài đã mang đến cho một thế giới
trong lầm than được nghe loan báo về Đấng Cứu Thế đã toàn thắng, đã đoạt được
vinh quang của ngai tòa Thiên Chúa. Như Mác-cô, khiêm tốn nhưng hăng say, chính
Ngài đã tiếp tục theo chân những người nghèo khó nói những lời định mệnh cho đến
tận thế để nối đất của chúng ta với trời.
L.P
SUY
NIỆM 3: Thánh Marcô, Thánh sử
Marcô
là ai ? Chắc chắn Ngài không phải là một trong 12 tông đồ. Nhưng một người tên
Marcô đã được các cộng đoàn Kitô giáo sơ khai biết đến, nhiều như là người bạn
đồng hành của thánh Phaolô và như người bạn thân ái của thánh Phêrô ở Roma (Cl
4,10; 1Pr 5,13; 2Tim 4,11). Sách Công vụ ba lần nói tới một "Gioan cũng gọi
là Marcô" (Cv 12,12; 25,15.17) là bạn thiết của thánh Barnaba.
Các
học giả thường đồng ý rằng: Marcô đã được nói tới trong các thánh thư, Gioan
tên Marcô trong sách công vụ và tác giả Phúc âm thứ II đều chỉ là một người. Đồng
ý với sự đồng hóa trên, chúng ta có thể phác họa hình ảnh của thánh sử như sau:
-
Ngài là con của Maria. Một góa phụ giàu có ở Giêrusalem có một người giúp việc
và căn nhà rộng rãi làm nơi tụ họp các tín hữu.
Năm
43, sau khi thoát khỏi ngục tù, thánh Phêrô đã chọn nhà này làm nơi trú ngụ (Cv
12,12-17). Như thế, Marcô sớm quen thuộc với những ghi nhận của thánh Phêrô.
Hai năm sau, tức là năm 45, chúng ta thấy Marcô và thánh Barnaba cùng đi trong
cuộc hành trình thứ nhất của Phaolô. Nhưng khi đoàn truyền giáo đi về hướng bắc,
Marcô đã từ giã để trở về Giêrusalem (Cv 13,13). Phaolô bất bình và không muốn
nhận cho Marcô đi theo trong cuộc hành trình thứ hai. Năm 50, như Barnaba đề
nghị, Barnaba về phe với Marcô, và đáp tàu về Cyprus là quê hương của Barnaba
(Cv 15,36-39).
Chúng
ta không thấy nói gì đến Marcô nữa cho tới năm 61 khi Ngài ở Roma với Phaolô
(Cl. 4,10), ba năm sau tức là năm 64 thánh nhân vẫn có mặt ở Roma vì Phêrô có
nhắc tới tên Người trong các lời chào của mình (1Pr 5,13). Đây là năm thánh
Phêrô chịu tử đạo. Ít lâu sau đó có lẽ thánh Marcô đã bắt đầu viết sách Phúc âm
ở Roma, dầu một số tác giả mới đây cho rằng ở Alexandri. Năm 67, thánh sử ở
Ephesô vì một ít tháng trước khi qua đời, thánh Phaolô dặn dò Timothêô đưa theo
Marcô đến Roma (2Tm 4,14). Mối bất hòa xưa đã được hàn gắn hoàn toàn.
Từ
đây, chúng ta phải dựa vào truyền thống để tìm hiểu về Marcô. Có lẽ sau khi
thánh Phêrô qua đời, Marcô đi rao giảng ở Alaexandria thành lập và làm giám mục
giáo đoàn này. Sự kiện không được chắc vì các bậc tiến sĩ của Alexandria như
Clêmente (200), và Origênê (203) không nhắc nhở gì đến.
Cuốn
Chronicon-Pascale không mấy có thế giá cho rằng: Marcô đã làm giám mục ở
Alexandrie và bị thiêu sống dưới thời Trajanô (năm 98 - 117).
Dựa
vào bút pháp của Marcô, chúng ta cố gắng tìm hiểu tính khí của Ngài. Tính chất
sống động của Phúc âm thứ II biểu lộ rõ chứng tích mục kiến của Phêrô, chứ
không phải của Marcô, dầu có thể là Marcô đã chứng kiến việc bắt bớ Chúa Giêsu
vì các nhà chú giải đồng hóa Ngài với người thanh niên vô danh bỏ chạy mình trần
(Mc 14,50-52). Dầu vậy, thánh Marcô không phải là một máy ghi âm diễn lại lời của
Phêrô, Ngài là tác giả ghi lại ký ức của Phêrô với bút pháp riêng. Ngài là người
ít lời (673 câu so với 1068 câu nơi Matthêu) và có giọng văn không chải chuốt.
Người
ta có thể cho rằng: Ngài không có đau khả năng viết văn cho duyên dáng. Nhưng với
những khiếm khuyết này, Marcô lại tỏ ra rất chân thành, Ngài đã ương ngạnh từ
chối việc bỏ bớt những sự kiện vụng về hay là giải thích chúng. Chẳng hạn không
thánh sử nào giấu giếm sự chậm hiểu của các thánh tông đồ, nhưng ở Marcô nhấn mạnh:
"Lòng họ ra như chai lại" ( Mc 6,51). Marcô cũng không che dấu tham vọng
không thể tin nổi của họ (Mc 9,34). Chính Phêrô cũng rất thẳng thắn: "Ông
không biết phải đáp ứng làm sao" (Mc 9,6). Có lẽ chứng cớ hùng hồn nhất
nói lên sự lương thiện của Marcô là Ngài đã liều tỏ ra mâu thuẫn với chính
mình.
Chẳng
hạn đối với Ngài Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa với ý nghĩa đầy đủ nhất của từ ngữ
"vượt các thiên thần" (3,32) "có quyền tha tội" (2,10).
Nhưng rồi Ngài không ngần ngại viết rằng: "Ở Nazareth Người đã không làm
được phép lạ nào" (6,5) Ngài cũng không dấu diếm sự kiện bà con Chúa Giêsu
nghi ngờ Người thiếu khôn ngoan (3,21) hay sự kiện Chúa Giêsu thất vọng với cây
vả không trái (11,13). Những chi tiết loại này khiến cho tựa đề của Marcô được
nguyên vẹn (Phúc âm Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa) nhưng lại mang dáng vẻ khó
hiểu vì Ngài đã không thèm dấu giếm gì hết. Với một sử gia tài danh như vậy,
chúng ta rất an tâm.
Tại
đền thờ thánh Marcô người ta nói có chôn dưới bàn thờ thánh nhân do các thương
gia mang từ Alexandria về vào thế kỷ IX. Thánh sử được biểu trưng bằng hình con
sư tử vì Phúc âm của Ngài mở dầu bằng tiếng nói oai hùng của Gioan tẩy giả từ
trong sa mạc. Đọc Phúc âm theo thánh Marcô, chúng ta như có thể nghe tiếng nói
thô sơ của thánh sử "Đừng nhìn tôi, hãy nhìn Người".
(Trích
‘Hạnh Tích Các Thánh’)
SUY
NIỆM 4: Thánh Marcô, Thánh sử
Thánh
Marcô, mặc dù mang tên Roma, nhưng lại là người Do Thái, và còn được gọi theo
tên Do Thái là Gioan. Tuy không thuộc nhóm Mười Hai Tông Đồ, nhưng rất có thể
ngài đã quen biết Chúa Giêsu. Nhiều văn gia Giáo Hội phát hiện ra chữ ký kín ẩn
của thánh Marcô trong Phúc Âm của ngài, trong trình thuật người thanh niên bỏ
chạy với một mảnh vải trên người, khi Chúa Giêsu bị bắt trong vườn Cây Dầu: ý
nghĩa ở đây là chỉ có mình thánh Marcô đề cập đến chi tiết ấy. Điều này còn
trùng hợp với một chi tiết khác: Marcô là con trai bà Maria, một góa phụ giàu
có, sở hữu ngôi nhà, nơi các tín hữu Jerusalem tiên khởi thường tụ họp. Theo một
truyền thống cổ xưa, ngôi nhà này chính là ngôi nhà có phòng Tiệc Ly, nơi Chúa
Giêsu đã ăn bữa Tiệc Ly và thiết lập bí tích Thánh Thể.
Marcô
có bà con với thánh Barnabas; ngài đã đồng hành với thánh Phaolô trong cuộc
truyền giáo lần thứ nhất, và ở bên cạnh vị Tông Đồ dân ngoại trong những ngày
cuối đời của ngài. Tại Roma, Marcô còn làm môn đệ của thánh Phêrô. Trong Phúc
Âm của ngài, với ơn linh hứng Chúa Thánh Thần, thánh Marcô đã trung thành trình
bày giáo huấn của vị Tông Đồ trưởng. Theo một truyền thống cổ xưa được thánh
Jerome kể lại, sau khi hai thánh Phêrô và Phaolô chịu tử đạo, thánh Marcô đã
sang Alexandria, giảng đạo, thành lập giáo đoàn và trở thành giám mục tiên khởi
ở đó. Vào năm 825, thánh tích của ngài được dời từ Alexandria về Venice, thành
phố hiện nay nhận ngài làm quan thầy.
1. Marcô, người phụ tá của thánh Phêrô.
Ngay
từ khi còn rất trẻ, Marcô đã thuộc vào nhóm các tín hữu tiên khởi ở Jerusalem,
những người quen biết và được sống bên cạnh Đức Mẹ và các Tông Đồ. Mẹ của ngài
là một trong những phụ nữ đã lấy tài sản chu cấp cho Chúa Giêsu và mười hai
Tông Đồ. Marcô cũng có bà con với thánh Barnabas, một trong những nhân vật
chính yếu trong thời kỳ đầu, và là người đầu tiên dìu dắt ngài trong công cuộc
rao giảng Phúc Âm. Marcô đồng hành với thánh Phaolô và thánh Barnabas trong
hành trình truyền giáo lần thứ nhất,1 nhưng khi đến đảo Cyprus, Marcô cảm thấy
không thể tiếp tục được nữa nên đã từ giã và trở về Jerusalem.2 Thánh Phaolô dường
như rất thất vọng về tính thay đổi của Marcô. Về sau, khi trù định cho hành
trình truyền giáo lần thứ hai, thánh Barnabas muốn đem theo Marcô, nhưng thánh
Phaolô nhất định không chịu vì nhớ lại sự việc trước đó. Cuộc tranh luận giữa
thánh Phaolô và thánh Barnabas căng thẳng đến nỗi sau cùng hai vị đã chia tay,
mỗi người tiến hành chương trình của riêng mình.
Khoảng
mười năm sau, chúng ta lại thấy Marcô tại Roma, lần này ngài giúp đỡ thánh
Phêrô. Lời thánh Phêrô đã viết trong thư: con tôi là Marcô,3 minh chứng mối
liên hệ lâu bền và gần gũi giữa hai vị. Thời gian ấy, Marcô là thông dịch viên
cho vị Tông Đồ trưởng, việc này đem lại một lợi điểm mà chúng ta nhận ra trong
Phúc Âm được ngài viết sau đó ít năm. Mặc dù không ghi lại một bài giáo huấn
dài nào của Chúa, nhưng bù lại, thánh Marcô đã mô tả rất sinh động về những biến
cố trong cuộc sống của Chúa Giêsu với các Tông Đồ. Trong các trình thuật của
ngài, chúng ta thấy hiện lên những thị trấn nhỏ ven bờ biển Galilê; chúng ta cảm
nhận được những lời bàn tán của đám đông đi theo Chúa Giêsu, chúng ta như thể
tiếp xúc với những cư dân của các địa phương ấy, nhìn thấy những việc kỳ diệu của
Chúa Giêsu, và những phản ứng tự phát của nhóm Mười Hai. Tóm lại, chúng ta thấy
mình như giữa đám đông dân chúng, được chứng kiến các biến cố Phúc Âm. Qua những
mô tả sinh động, thánh Marcô đã in đậm vào linh hồn chúng ta một hấp lực dịu
dàng nhưng không sao cưỡng lại của Chúa Giêsu mà dân chúng và các Tông Đồ đã cảm
nghiệm được trong cuộc sống với Thầy Chí Thánh. Thánh Marcô đã trung thành ghi
lại những hồi tưởng thân mật của thánh Phêrô với Thầy Chí Thánh: những ký ức ấy
không phai nhòa theo năm tháng, nhưng càng ngày càng sâu đậm và sinh động hơn,
càng thấm thía và hứng thú hơn. Có thể nói Phúc Âm thánh Marcô là tấm gương
sinh động về giáo huấn của thánh Phêrô.4
Thánh
Jerome cho chúng ta biết, theo thỉnh nguyện của các tín hữu Roma, Marcô, môn đệ
và thông ngôn của thánh Phêrô, đã viết Phúc Âm theo những gì ngài đã được nghe
thánh Phêrô giảng dạy. Và chính thánh Phêrô, sau khi đã duyệt bản Phúc Âm ấy,
đã dùng quyền bính chấp thuận cho sử dụng trong Giáo Hội.5 Đây thực sự là sứ mệnh
chính trong cuộc đời thánh Marcô: trung thành ghi lại những lời giảng của thánh
Phêrô. Ngài đã để lại cho hậu thế biết bao ích lợi! Ngày nay, chúng ta thực sự
phải mang ơn thánh Marcô vì nhiệt tâm ngài đã đặt vào công việc và lòng trung
thành với ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần! Ngày lễ kính thánh Marcô là dịp để
chúng ta xét lại việc hằng ngày chúng ta đọc Phúc Âm, lời Chúa nói trực tiếp với
chúng ta, như thế nào. Chúng ta có thể tự hỏi đã bao lần chúng ta đã sống như
người con hoang đàng, hoặc áp dụng cho mình lời cầu khẩn của anh mù Bartimaeus:
Lạy Chúa, xin cho con được nhìn thấy – Domine, ut videam! Hoặc lời thỉnh nguyện
của người cùi: Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, xin cho tôi được sạch – Domine, si vis,
potes me mundare! Bao lần chúng ta cảm thấy tận đáy lòng rằng Chúa Kitô đang nhìn
và mời gọi chúng ta hãy sát bước theo Người, kêu gọi chúng ta hãy vượt thắng một
thói xấu nào đó làm chúng ta xa cách Người, hoặc như các môn đệ trung thành,
hãy sống nhân ái hơn nữa với những người khó hòa hợp với chúng ta?
2. Là khí cụ của Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng thực hiện một
cuộc khởi đầu mới.
Thánh
Marcô đã giúp đỡ thánh Phêrô nhiều năm tại Roma, ở đó, chúng ta còn thấy ngài
phụ giúp thánh Phaolô nữa.6 Quả thế, con người mà thánh Phaolô thấy không thể sử
dụng trong hành trình truyền giáo lần thứ hai thì nay lại là một niềm an ủi7 và
một người bạn trung thành. Vào khoảng năm 66, thánh Tông Đồ đã viết cho
Timothy: Con hãy đem Marcô đi với con, vì anh ấy rất hữu ích cho công việc phục
vụ của cha.8 Sự kiện đảo Cyprus một thời hết sức ảm đạm, thì nay dường như đã bị
quên lãng hoàn toàn. Giờ đây, thánh Phaolô và thánh Marcô là bạn hữu và đồng sự
của nhau trong công cuộc quan trọng là mở rộng vương quốc Chúa Kitô. Thực sự
đây là một tấm gương lớn lao và cũng là một bài học tuyệt vời cho chúng ta học
biết: đừng bao giờ kết luận dứt khoát về một ai, khi nào cần thiết một ai,
chúng ta hãy biết cách nối lại mối dây thân hữu mà đã có lúc xem như đã tan rã
hoàn toàn!
Giáo
Hội hôm nay nêu lên mẫu gương thánh Marcô. Thật là một hy vọng và ủi an khi
chiêm ngưỡng đời sống vị sử gia thánh thiện này. Mặc dù có những yếu đuối,
nhưng chúng ta vẫn có thể như ngài, tin tưởng vào ơn Chúa và sự phù trợ của Mẹ
Giáo Hội. Những thất bại và những hành vi nhát đảm của chúng ta, dù lớn hoặc nhỏ,
phải làm chúng ta khiêm tốn hơn, liên kết chúng ta mật thiết hơn với Chúa
Giêsu, và kín múc từ nơi Chúa nguồn sức mạnh mà chúng ta đang thiếu thốn.
Chúng
ta đừng để những bất toàn nên cớ làm chúng ta xa cách Chúa hoặc từ bỏ sứ mạng
tông đồ, mặc dù đôi khi chúng ta đã không đáp ứng đúng mức với ơn Chúa, hoặc
chúng ta đã ngần ngại khi được nhờ cậy. Những hoàn cảnh như thế, nếu có khi nào
xảy ra, chúng ta không nên ngạc nhiên, bởi vì như lời thánh Phanxicô Salê đã
nói, Không có gì phải ngạc nhiên vì bệnh tật là bệnh tật, yếu đuối là yếu đuối,
và gian ác là giac ác. Tuy nhiên, hãy hết sức gớm ghét điều bạn đã xúc phạm đến
Chúa, và với lòng tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, hãy quảng đại quay lại
con đường mà bạn đã từ bỏ.9
Những
thất bại và những hành vi nhát đảm rất quan trọng. Chúng khiến chúng ta trở về
bên Chúa để nài xin ơn tha thứ và trợ giúp của Người. Nhưng Chúa vẫn tin tưởng
chúng ta, và chúng ta vẫn cậy trông ơn Chúa, nên chúng ta hãy lập tức làm lại
và quyết tâm trung thành hơn trong tương lai. Với ơn phù trợ của Đức Mẹ, chúng
ta sẽ biết cách rút ra điều hữu ích từ những yếu đuối, nhất là khi kẻ thù, những
kẻ không bao giờ nghỉ ngơi, ra sức làm chúng ta thất đảm và từ bỏ cuộc chiến.
Chúa Giêsu muốn chúng ta thuộc về Người mặc dù chúng ta đã có một lịch sử yếu
đuối với những sai phạm.
3. Sứ vụ tông đồ.
Hãy
đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo.10 Hôm nay, chúng ta đọc
những lời này trong Ca Nhập Lễ. Đây là sứ vụ tông đồ Chúa đã ban và thánh Marcô
đã ghi lại. Về sau, được ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, thánh nhân đã minh chứng
lệnh truyền ấy đã được thực hiện khi ngài chép Phúc Âm: Các tông đồ ra đi và
rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố tin mừng bằng
những phép lạ kèm theo.11 Đó là những lời thánh Marcô kết thúc Phúc Âm của
ngài.
Thánh
Marcô đã trung thành với sứ vụ tông đồ mà ngài đã nghe qua lời giảng của thánh
Phêrô: Hãy đi khắp thế gian. Chính thánh Marcô và Phúc Âm của ngài đã là một thứ
men hiệu quả cho thời đại ngài. Chúng ta cũng phải trở nên một thứ men tốt cho
thời đại chúng ta. Nếu sau lần nhát đảm, thánh nhân đã không khiêm nhượng và
dũng cảm làm lại, có lẽ giờ đây chúng ta không có những kho tàng lời giảng và
việc làm của Chúa Giêsu để thường xuyên suy gẫm, và nhiều người, nếu không nhờ
ngài, chắc cũng chẳng bao giờ biết được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ của nhân loại.
Sứ
mạng của thánh Marcô - cũng như của các Tông Đồ, của các nhà truyền giáo, của
các tín hữu tốt lành luôn ra sức sống đúng với ơn gọi của mình - chắc chắn
không phải là một sứ mạng dễ dàng. Chúng ta biết ngài đã chịu tử đạo. Ắt hẳn
thánh nhân đã trải qua kinh nghiệm chịu bách hại, mệt mỏi, và hiểm nguy trong
việc theo bước Chúa.
Chúng
ta hãy cám tạ Thiên Chúa, cũng như các tín hữu thời các Tông Đồ, vì sức mạnh và
niềm vui Chúa Kitô đã được truyền lại đến ngày nay cho chúng ta. Mọi thế hệ
Kitô hữu, mọi cá nhân đều được mời gọi lãnh nhận sứ điệp Phúc Âm và truyền thụ
lại cho người khác. Ơn Chúa không bao giờ thiếu: Non est abbreviata manus
Domini – Cánh tay Chúa không bị thu ngắn.12 Người tín hữu biết Chúa đã thực hiện
các phép lạ từ nhiều thế kỷ trước kia, và hiện nay Người vẫn đang thực hiện.13
Với ơn Chúa giúp, mỗi người chúng ta cũng sẽ thực hiện những phép lạ nơi tâm hồn
thân nhân, bạn bè, và những người quen biết, nếu chúng ta sống trong mối kết hợp
với Chúa Kitô qua lời cầu nguyện.
(Trích
‘dongcong.net’)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Lễ
Thánh Marcô Thánh Sử (Ngày 25 tháng 4)
Bài
đọc:
1 Pet 5:5b-14; Mk 16:15-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung
thành với sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Theo
truyền thống, Marcô Thánh Ký được đồng nhất với John Mark (Acts 12:12, 25;
15:37; Col 4:10; 2 Tim 4:11; Phi 24). Thánh Phêrô trong bài đọc I hôm nay gọi
Marcô là “con của ngài” (1 Pet 5:13). Marcô là anh em họ (anepsios) của
Barnabas (Col 4:10), là con của bà Mary. Bà này là bạn với thánh Phêrô, sống tại
Jerusalem (Acts 21:12), và là một thành phần quan trọng của giáo hội sơ khai tại
Jerusalem. Chính tại nhà Bà mà thánh Phêrô đến, sau khi được sứ thần của Thiên
Chúa giải thoát khỏi ngục tù (Acts 12:12-13).
Khi
nạn đói xảy ra vào năm 45-46 AD, Barnabas và Phaolô sau khi đã hoàn thành sứ vụ
tại Jerusalem, họ mang Marcô đi với họ trong hành trình trở về Antioch (Acts
12:25). Không lâu sau đó, khi bắt đầu hành trình truyền giáo thứ nhất, họ đem
Marcô theo như một trợ tá (hupereten, Acts 13:5). Theo văn mạch ám chỉ,
Marcô có thể đã giúp hai ông ngay cả trong việc rao giảng Tin Mừng. Khi hai ông
tiếp tục cuộc hành trình từ Perga tiến vào trong vùng trung tâm của Asia Minor,
Marcô bỏ hai ông và trở về Jerusalem (Acts 13:13). Tại sao Marcô trở lại
Jerusalem, không ai biết rõ lý do; nhưng có thể Marcô sợ khổ cực (Acts 15:38).
Phaolô không quên biến cố này, nên ông từ chối cho Marcô đi theo trong hành
trình truyền giáo thứ hai. Sự từ chối này dẫn tới việc phân ly giữa Phaolô và
Barnabas, Phaolô tiếp tục cuộc hành trình, Barnabas và Marcô xuống thuyền tới đảo
Cyprus (Acts 15:37-40). Sau biến cố này (khoảng 49-50 AD), chúng ta mất dấu
Marcô trong CVTĐ, cho tới khi Marcô xuất hiện khoảng 10 năm sau như một bạn đồng
hành của Phaolô, và đi theo Phêrô tại Rôma.
Theo
cuốn Lịch Sử Giáo Hội của Eusebius (III,39), viết khoảng năm 130 AD, đặt căn bản
trên thế giá của một kỳ mục, Marcô là “người thông dịch” (hermeneutes) của
Phêrô, và đã viết cách chính xác, mặc dù không theo niên lịch, giáo huấn của
Phêrô. Nhiều người giả sử chàng thanh niên ở trần trốn chạy từ vườn Gethsemane
là Marcô (Mk 14:51). Điều này có thể vì nhà mẹ của Marcô nằm trong Jerusalem và
là nơi các môn đệ hay lui tới. Ngày chết của Marcô không chắc chắn, thánh
Jerome cho là năm thứ tám của triều đại Nero (62-63 AD). Thánh Marcô là quan thầy
của Alexandria, Ai-cập; và là quan thầy của thành phố Venice, nước Ý.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Hội-thánh ở Babylon, và Marcô, con tôi, gửi lời chào anh em.
1.1/
Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.
Trình
thuật hôm nay là phần khuyên nhủ và kết thúc Thư I của thánh Phêrô. Ngài tóm tắt
những điều cần khuyên nhủ quan trọng tới các tín hữu.
(1)
Hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh
em khi đến thời Người đã định: Đây là đức tính quan trọng hàng đầu người tín hữu
cần luyện tập; nếu không có đức tính này, họ sẽ dễ dàng rơi vào bẫy giăng của
ma quỉ và sa ngã như ông Adam và bà Eva trong Vườn Địa Đàng
(2)
Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em: Lo lắng làm con người
bất an và nghi ngờ tình thương của Thiên Chúa. Để diệt lo lắng, con người cần
tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa, chẳng lẽ Ngài bỏ rơi con cái trông
đợi nơi tình thương của Ngài!
(3)
Hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm
thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé: Tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa
không có nghĩa con người không cần phải làm chi cả. Thánh Phêrô khuyên con người
hãy tập luyện để biết sống tiết độ. Nói cách khác, con người cần tập luyện nhân
đức mới có thể thắng vượt các chước cám dỗ của ba thù.
(4)
Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần
gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế: Đức tin cần được thử thách bằng
những gian khổ, ai cũng phải trải qua tiến trình rèn luyện để vượt qua những
gian khổ. Người chiến thắng là người kiên vững trong đức tin cho dù phải gian
nan, đau khổ, ngay cả phải chấp nhận cái chết.
1.2/
Phần thưởng của các tín hữu là cuộc sống mai sau: Các Kitô hữu phải
chịu đau khổ để thử luyện đức tin trước khi được lãnh nhận vinh quang: “Thiên
Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời
của Người trong Đức Kitô. Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính
Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường.”
Ân
sủng của Thiên Chúa đủ cho các tín hữu: Khi phải chịu thử thách nặng nề, thay
vì kêu trách Thiên Chúa và tha nhân, các tín hữu cần chạy đến với Thiên Chúa để
xin gia tăng ơn thánh, hầu có thể đứng vững trong đức tin. Thánh Phêrô, cũng
như thánh Phaolô, tin chắc ơn thánh của Thiên Chúa ban đủ sức giúp các tín hữu
vượt qua mọi trở ngại trong cuộc đời: “Tôi viết ít lời để khuyên nhủ anh em và
làm chứng rằng đó thật là ân sủng của Thiên Chúa: anh em hãy sống vững vàng
trong ân sủng đó.”
2/
Phúc Âm:
Chúa Giêsu trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ.
2.1/
Trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Người nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên
hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu
độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án." Khi Chúa Giêsu phục sinh và lên
trời, Ngài đã hoàn tất sứ vụ mang lại ơn cứu độ cho con người. Giờ đây Ngài
trao sứ vụ loan báo Tin Mừng cho các môn đệ, để các ông mang ơn cứu độ này cho
mọi người sống trên trần thế. Để được hưởng ơn cứu độ, con người cần tin vào Đức
Kitô và chịu Phép Rửa.
2.2/
Ban uy quyền cho các môn đệ để khán giả tin vào lời các ông rao giảng: Chúa hứa với các
nhà rao giảng: "Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân
danh Thầy, họ sẽ:
(1)
Khai trừ quỷ: Phaolô truyền cho quỉ xuất khỏi người đầy tớ tại Philippi (Acts
16:18)
(2)
Nói được những tiếng mới lạ: Các Tông-đồ nói tiếng của thổ dân trong ngày Lễ
Ngũ Tuần (Acts 2:1-11)
(3)
Tránh được nguy hiểm: "Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc,
thì cũng chẳng sao."
(4)
Chữa lành: "Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ
được mạnh khoẻ." Điều này đã được làm bởi Phêrô, Phaolô, và rất nhiều môn
đệ.
"Nói
xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ
ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu
lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Trung thành theo Chúa đến cùng không phải là điều dễ dàng vì chúng ta phải
đương đầu với ba kẻ thù nặng ký là ma quỉ, thế gian và xác thịt.
-
Để có thể vượt qua các thử thách, con người cần tập luyện nhân đức và cầu nguyện
xin Thiên Chúa ban ơn thánh. Chúng ta phải trỗi dậy sau mỗi lần bị ngã và tiếp
tục tiến bước. Ngoài ra, chúng ta cũng phải giúp nhau để trung thành trong ơn gọi
của mình.
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
25/04/15 THỨ BẢY TUẦN 3
PS
Th. Mác-cô, tác giả sách Tin Mừng
Mc 16,15-20
Th. Mác-cô, tác giả sách Tin Mừng
Mc 16,15-20
Suy niệm: Chúa
về trời, hoàn tất sứ mạng tại thế, còn các Tông Đồ được sai đi rao giảng Tin
Mừng. Trong công cuộc truyền giáo và xây dựng Giáo Hội, các tông đồ không đơn
độc nhưng luôn “có Chúa cùng hoạt động.” Lịch sử hai ngàn năm của Giáo Hội chứng minh
điều đó. Bất chấp những yếu đuối của con người, những thành công hay thất bại
giữa trần gian, Tin Mừng vẫn luôn được rao giảng cho đến tận cùng trái đất.
Mời Bạn: Căn
cứ vào lệnh truyền của Đức Ki-tô thì việc loan báo Tin Mừng phải là mối quan
tâm hàng đầu của bạn và mỗi việc bạn làm phải được biến thành một hành động
loan báo Tin Mừng. Thế nhưng dường như lệnh truyền này nơi bạn vẫn đang bị tê
liệt? Những thăng trầm trong lịch sử có làm bạn nao núng, chao đảo, ảnh hưởng
đức tin và nhuệ khí tông đồ không? Bạn nhớ rằng bạn có dấn thân hành động thì
Chúa mới “cùng hoạt động với bạn.”
Chia sẻ: “Khốn cho tôi, nếu tôi không
rao giảng Tin Mừng” (1Cr
9,16). Bạn nghĩ gì về lời nói đó của thánh Phao-lô? Bạn có sáng kiến gì để thúc
đẩy việc loan báo Tin Mừng?
Sống Lời Chúa: Mỗi
lần tham dự cử hành phụng vụ, hãy chú ý lắng nghe và cảm nghiệm lời chào này:
“Chúa ở cùng anh chị em”, để luôn chuẩn bị tâm hồn đón nhận cách xứng đáng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin củng cố đức tin, để chúng con luôn cảm thấy
Chúa ở cùng chúng con mọi ngày. Xin ban cho con ơn sức mạnh của Chúa Thánh
Thần, để con dạn dĩ loan báo Tin Mừng cho anh chị em con. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25
THÁNG TƯ
Phục
Sinh Trong Hiện Tại
Đức
Kitô đã sống lại từ cõi chết tại một thời điểm nhất định trong thời gian. Tuy
nhiên, Người vẫn đang đợi chờ sự Phục Sinh của Người tác động biến đổi mọi người.
Người vẫn đang đột phá vào cuộc sống của mỗi cá nhân và vào lịch sử của mọi dân
tộc. Nhưng tác động chuyển hóa của cuộc Phục Sinh đối với xã hội và cá nhân còn
tùy thuộc vào sự hợp tác của con người nữa.
Trong
cuộc Phục Sinh này, người ta phá vỡ sự ràng buộc của tội lỗi và sự chết. Người
ta sống lại trong Đức Kitô như chính Người đã sống lại vào buổi sáng Phục Sinh
cách đây hai mươi thế kỷ ấy. Vâng, bất cứ ở đâu có một trái tim thắng vượt ích
kỷ, bạo lực, và đố kỵ – bất cứ ở đâu có một trái tim mở ra cho một ai đó đang cần
đến mình – thì ở đó Đức Kitô được Phục Sinh từ cõi chết, được Phục Sinh trong
hiện tại hôm nay. Bất cứ ở đâu có người theo đuổi công lý và hòa bình đích thực,
thì sự chết bị đánh bại và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô được khẳng định lại. Bất
cứ khi nào một người lìa đời sau khi đã sống một cuộc sống đầy tràn tin, yêu,
và đau khổ vì Đức Kitô … thì ở đấy và lúc ấy có sự Phục Sinh.
Cuộc
Phục Sinh này – được định liệu cho mọi người – là chiến thắng tối hậu. Đó là
câu trả lời của Thiên Chúa cho những đau buồn và thử thách của con người. Đó
không phải là sự chết mà chính là sự sống. Đó không phải là thất vọng mà chính
là hy vọng. Và Giáo Hội mời gọi mọi con người hôm nay đón nhận niềm hy vọng
này.
Giáo
Hội nhắc lại với chúng ta, với mọi người, lời công bố khó tin nhưng rất thật rằng:
Đức Kitô đã sống lại! Mong sao cả thế giới cùng sống lại với Người! Alleluia!
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
25-4
Thánh
Marcô, Tác giả Sách Tin Mừng
1Pr
5, 5b-24; Mc 16, 15-20.
LỜI
SUY NIỆM: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa, sẽ được cứu độ; còn
ai không tin, thì sẽ bị kết án”
Đây
là lệnh truyền của Chúa Giêsu ngay lúc này và cho từng người trong chúng ta.
Đây chính là tình yêu của chúng ta đối với Chúa Giêsu và cũng là tình yêu đối với
hết mọi linh hồn của mọi người chung quanh chúng ta, những người đang cùng sống,
đang cùng làm việc và học tập và cả những người chúng ta gặp trên đường đi. Để
cùng nhau lãnh nhận ơn cứu độ, được sống và sống lại trong vinh quang với Người.
Lạy
Chúa Giêsu. Giáo Hội đang dạy chúng con: “Cộng đoàn Giáo xứ được thiết lập để
thi hành sứ vụ Chúa Ki-tô giao phó là tôn thờ Thiên Chúa và thực thi bác ái cộng
đồng trong Giáo Hội cũng như trong xã hội” Xin ban ho mọi thành viên trong gia
đình chúng con quyết tâm: “Cùng với Cộng đoàn Giáo xứ, luôn tích cực cầu nguyện
và quảng đại dấn thân cho sứ vụ loan báo Tin Mừng”.
Mạnh
Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét