Thứ Bảy Ngày 01/06/2013
Tuần VIII Thường Niên – Năm
C
BÀI ĐỌC I: Hc 51, 17-27 (Hl 12-20)
"Tôi sẽ tôn vinh
Đấng ban cho tôi sự khôn ngoan".
Trích
sách Huấn Ca.
Tôi
tuyên xưng, ca ngợi và chúc tụng danh Chúa.
Khi
tôi còn trẻ, trước khi tôi đi đó đây, tôi đã công khai tìm kiếm sự khôn ngoan
trong khi cầu nguyện. Trước đền thờ, tôi đã xin sự khôn ngoan, và tôi sẽ còn
tìm nó cho đến ngày cuối đời tôi. Trước tinh hoa của sự khôn ngoan, như chùm
nho hồng, tâm hồn tôi vui sướng: chân tôi bước đi trên đường ngay chính. Từ
buổi thanh xuân, tôi đã tìm kiếm nó. Tôi đã lắng tai và nghe tiếng nó. Tôi đã
tìm thấy trong tôi sự khôn ngoan cao cả, và nhờ nó tôi đã được tiến triển
nhiều. Tôi sẽ tôn vinh Đấng ban cho tôi sự khôn ngoan, vì tôi đã suy niệm để
đem nó ra thực hành, tôi đã hăng say làm điều lành và tôi không hổ thẹn. Cùng
với sự khôn ngoan, linh hồn tôi đã chiến đấu, và khi hành động, tôi được thêm
vững chắc. Tôi đã giơ hai tay lên cao, và đã than khóc, vì đã không biết đến
nó. Tôi đã hướng tâm hồn tôi về nó, và tôi đã tìm được nó với tâm hồn trong
sạch. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 18, 8. 9. 10. 11
Đáp: Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can (c. 9a).
1)
Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ
dốt. .
2)
Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng
soi con mắt. .
3)
Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực,
công minh hết thảy. .
4)
Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả
mật chảy tự tàng ong. .
ALLELUIA: Gc 1, 18
Alleluia,
alleluia! - Do ý định của Thiên Chúa, Người đã sinh chúng ta bằng lời sự thật,
để chúng ta nên như của đầu mùa các tạo vật. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 11, 27-33
"Ông lấy quyền
nào làm sự đó?"
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ lại đến Giêrusalem. Và trong khi Chúa Giêsu đi lại
trong đền thờ, thì những trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão đến hỏi Người: "Ông
lấy quyền nào mà làm sự đó? Và ai đã ban quyền cho ông để làm như vậy?"
Chúa Giêsu đáp: "Tôi sẽ hỏi các ông một câu thôi, hãy trả lời cho Tôi thì
Tôi sẽ bảo cho các ông hay Tôi lấy quyền nào mà làm việc đó: Phép rửa của Gioan
bởi trời hay bởi người ta? Hãy trả lời Tôi đi". Họ liền bàn riêng với nhau
rằng: "Nếu chúng ta trả lời 'Bởi trời', ông ấy sẽ nói: 'Vậy sao các ông
không tin Người?' Nhưng nếu chúng ta nói 'Bởi người ta', chúng ta sợ dân chúng,
vì mọi người đều coi Gioan thật là một tiên tri. Vậy họ thưa cùng Chúa Giêsu
rằng: "Chúng tôi không biết". Và Chúa Giêsu bảo họ: "Vậy thì tôi
cũng không nói cho các ông biết bởi quyền phép nào Tôi làm sự đó". Đó là
lời Chúa.
SUY NIỆM : Chất vấn về
quyền
Theo
Tin Mừng Marcô, Chúa Giêsu đã bắt đầu tranh luận với những người Do thái không
tin khi Chúa Giêsu lên Yêrusalem lần cuối cùng. Bầu không khí đối đầu giữa Chúa
và các vị lãnh đạo Do thái khởi sự với biến cố Chúa đuổi những kẻ buôn bán ra
khỏi Ðền Thờ. Ngày hôm sau, khi Chúa và các môn đệ trở lại Ðền Thờ, các Thượng
tế, Luật sĩ và Kỳ mục đến chất vấn Chúa: "Ông lấy quyền nào mà làm các
điều ấy?". Tin Mừng hôm nay ghi lại cuộc tranh luận đầu tiên trong năm
cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái, trước khi Chúa
Giêsu bước vào cuộc tử nạn của Ngài.
Tinh
thần chân thành và đối thoại vốn là tinh thần của Phúc Âm. Là con người hiếu
hòa, Chúa Giêsu cũng tỏ ra chân thành và thích đối thoại. Tuy nhiên, khi những
người đối thoại với Ngài tỏ ra gian manh, thì Chúa Giêsu lại giữ thái độ yên
lặng, như khi Ngài đứng trước Caipha, Hêrôđê, Philatô. Nhưng trường hợp những
kẻ đối thoại bắt bẻ điều gì, thì Chúa lại chứng tỏ sự trổi vượt của Ngài. Ngài
cũng đáp lại bằng một phương thế khác, khi những người đối thoại muốn gây áp
lực để buộc Chúa phải trả lời, như khi họ hỏi Chúa có nên nộp thuế cho hoàng đế
Cesar không, hoặc có nên ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại
tính không?
Hôm
nay, chúng ta chứng kiến một cảnh đối ngoại, nhưng thật ra đó chỉ là một cách
gài bẫy để bắt bẻ Chúa: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?" Chúa
Giêsu nhận thấy thái độ không thành thật của họ nên Ngài hỏi vặn lại:
"Phép rửa của Gioan là do Trời hay do người ta?". Cách thức trả lời
của những kẻ chống đối Chúa cho thấy họ đã tìm ra giải đáp cho câu hỏi họ đặt
ra. Họ không thể chối cãi sự kiện phép rửa của Gioan là từ Trời, do quyền của
một vị Tiên tri. So sánh phép rửa của Gioan với những việc làm và những phép lạ
của Chúa Giêsu mà họ đã chứng kiến, thì chắc chắn những phép lạ của Chúa hơn
phép rửa của Gioan. Do đó, theo lý luận nghiêm chỉnh và thành thật, những kẻ
chống đối Chúa phải biết Chúa đã lấy quyền từ đâu để làm các điều ấy.
Như
thế, câu hỏi của Chúa Giêsu: "Phép rửa của Gioan là do Trời hay do người
ta?" là câu hỏi để đánh thức lương tâm và kêu gọi đến sự thành thật nơi
những kẻ chống đối Ngài. Chỉ những ai chấp nhận đi theo con đường sự thật với
lòng chân thành, người đó mới vào được Nước Chúa và được cứu rỗi. Ðể có thể vào
Nước Chúa, những kẻ chất vấn Chúa trong Tin Mừng hôm nay, cần phải canh tân đời
sống, cần phải có lòng chân thành, lương tâm ngay chính và tinh thần phục
thiện.
Chúng
ta hãy nhìn về cuộc sống của mình và xét xem chúng ta đã sống thế nào? Chúng ta
hãy xin Chúa cho chúng ta nhận biết sự thật, khiêm tốn đón nhận và sống sự thật
của Chúa cho đến cùng.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 8 TN1, Năm Lẻ
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Khôn
ngoan là luôn biết và sống theo sự thật.
Khôn
ngoan là một nhân đức trong bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần ban cho con người
khi họ chịu bí-tích Rửa Tội và Thêm Sức. Giống như tất cả các nhân đức, khôn
ngoan được ví như hạt giống có đầy đủ tiềm năng, con người phải luyện tập thì
nhân đức mới phát triển được; nếu không chịu luyện tập, con người có thể mất
nó. Nhân đức khôn ngoan giúp con người nhận ra các sự thật của Thiên Chúa và
mau mắn thi hành.
Các
bài đọc hôm nay tập trung trong nhân đức khôn ngoan: làm sao để tìm được và thi
hành khôn ngoan. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca cho độc giả những cái
nhìn rất thâm sâu về Đức Khôn Ngoan: nó là một tiến trình của cả đời người, con
người phải cầu nguyện mới có, con người phải thực hành những gì học được, giữ
luật Thiên Chúa, và nhất là phải biết giữ tâm hồn trong sạch mới sở hữu được
Đức Khôn Ngoan. Trong Phúc Âm, các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến chất vấn
Chúa Giêsu lý do tại sao Người đánh đuổi các con buôn ra khỏi Đền Thờ. Chúa đặt
cho họ một câu hỏi để thử xem họ có thành thật muốn đi tìm sự thật không; nhưng
khi thấu hiểu thâm tâm gian dối của họ, Ngài không trả lời cho họ biết sự thật.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Khi giữ mình trong sạch, tôi tìm được đức khôn ngoan.
1.1/
Kiên trung tìm kiếm Đức Khôn Ngoan: Vì khôn ngoan đến từ Thiên Chúa, chứ không
đến từ con người; vì vậy, để có được khôn ngoan, con người phải thành tâm cầu
nguyện, thì Thiên Chúa mới ban cho con người. Tác giả nói về kinh nghiệm của
mình như sau: “Thời còn trẻ, trước khi bôn ba đây đó, tôi đã công nhiên tìm
kiếm đức khôn ngoan khi dâng lời cầu nguyện.”
Đức
Khôn Ngoan không được ban cho con người một lúc, nhưng là tiến trình của cả đời
người; vì thế, con người phải học hỏi hàng ngày. Tác giả nói: “Tôi dõi theo đức
khôn ngoan từ thuở còn thanh xuân... và cho đến mãn đời, tôi vẫn tìm kiếm đức
khôn ngoan.”
1.2/
Cách thức học khôn ngoan: Để hấp thụ được Đức Khôn Ngoan, tác giả cho độc giả những lời
khuyên quan trọng.
(1)
Lắng nghe nhiều hơn nói: “Chỉ lắng tai một chút mà tôi đã hấp thụ được, và tìm thấy cho
bản thân một giáo huấn dồi dào.” Điều này dễ hiểu, vì khi nghe là con người hấp
thụ vào; còn khi nói là lúc con người cho đi. Nếu một người hay nói, làm sao họ
có thể hấp thụ được khôn ngoan của người khác?
(2)
Quyết tâm sống theo những gì Đức Khôn Ngoan dạy: “Vì tôi đã cương quyết sống theo đức
khôn ngoan, tôi hăng say tìm điều thiện và sẽ không xấu hổ thẹn thùng.” Để sinh
ích cho bản thân, một người không chỉ cần biết Đức Khôn Ngoan, nhưng còn phải
thực hành nó nữa. Khi thực hành, con người có thể phải vượt qua xấu hổ, dèm
pha, và truy tố của người không biết Đức Khôn Ngoan.
(3)
Thực hành Lề Luật: “Trong đức khôn ngoan, hồn tôi đã phấn đấu, và chuyên cần tuân
giữ Lề Luật.” Điều này hiển nhiên vì Lề Luật đến từ Thiên Chúa, nguồn gốc của
mọi khôn ngoan. Vì con người không biết tất cả, nên Thiên Chúa thân hành ban
cho con người Thập Giới qua Moses, để giúp con người biết sống thế nào mang lại
hạnh phúc.
(4)
Giữ mình trong sạch: “Tôi đã hướng lòng về đức khôn ngoan, và khi giữ mình trong
sạch, tôi tìm được đức khôn ngoan.” Trong Tân Ước, Chúa Giêsu dạy: “Phúc cho
những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa” (Phúc
thứ 6). Thánh Augustino và Thomas Aquinas cũng dạy điều này, và cho nhân đức
trong sạch rất cần thiết trong hành trình đi tìm khôn ngoan và nhìn thấy Thiên
Chúa. Người không trong sạch sẽ không được chiêm ngắm Thiên Chúa, Đấng khôn
ngoan và rất mực thánh thiện.
2/
Phúc Âm: Con người có bổn phận phải thi hành sự thật.
2.1/
Chúa Giêsu không sợ đương đầu với quyền lực của Thượng Hội Đồng: Trình thuật này tiếp
tục trình thuật Chúa Giêsu vào Đền Thờ Jerusalem
để đánh đuổi những kẻ đang mua bán và đổi tiền trong Đền Thờ, vì họ biến nhà
cầu nguyện của Cha Ngài thành hang trộm cướp. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục
trong Đền Thờ rất tức giận với Ngài, vì Ngài đã động tới nồi cơm và quyền lợi
của họ. Nhiều người trong bọn họ hay gia đình họ có những quầy hàng trong Đền
Thờ, và những người buôn bán phải trả tiền thuê cho họ.
Lẽ
ra họ phải vui mừng khi thấy Đền Thờ được Chúa Giêsu trả lại sự thánh thiện cho
việc thờ phượng; nhưng họ đâu để ý đến điều đó, mà chỉ để ý đến những mối lợi
vật chất, nên họ đến cùng Người và hỏi: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều
ấy, hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?" Một lý do nữa là tự ái họ bị
tổn thương, vì Chúa Giêsu là người duy nhất dám đương đầu với thế lực của họ.
Dân chúng không ai dám chống lại họ, vì biết sẽ bị khoác trên đầu tội phạm
thượng và bị ném đá chết.
2.2/
Chúa Giêsu không dạy sự thật cho những người khinh thường sự thật. Trước khi trả lời câu
hỏi của họ, Chúa thách thức họ dám nói sự thật bằng việc đặt với họ một câu
hỏi: Phép rửa của Gioan bởi đâu? do Trời hay do người ta?
Họ
có đủ khôn ngoan để nhận ra sự thật; nhưng không dám nói thật. Họ bàn với nhau:
“Nếu mình nói: "Do Trời," thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế sao các
ông lại không tin ông ấy?” Nhưng chẳng lẽ mình nói: "Do người ta?" Họ
sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gioan thật là một ngôn sứ. Họ mới trả lời
Đức Giêsu: "Chúng tôi không biết."
Đức
Giêsu liền bảo họ: "Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi
lấy quyền nào mà làm các điều ấy." Ngài biết chẳng ích lợi gì để giảng
giải sự thật cho những con người gian dối, không dám nói thật, chứ chưa nói tới
việc thi hành sự thật. Họ chỉ thờ phượng Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, họ
nhân danh Thiên Chúa và lợi dụng niềm tin của những con người ngây thơ chất
phác để kiếm lợi nhuận vật chất.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
-
Đức Khôn Ngoan đến từ Thiên Chúa. Ngài chỉ ban nó cho những ai thành tâm cầu
nguyện và kiên trì học hỏi. Vì thế, chúng ta phải cầu nguyện trước khi bắt đầu
học hỏi Đức Khôn Ngoan.
-
Học khôn ngoan là tiến trình dài cả cuộc đời, chứ không phải chỉ trong ít phút
cuối tuần hay tham dự vài lớp căn bản. Vì thế, chúng ta cần phải học Đức Khôn
Ngoan suốt đời và trong mọi biến cố của cuộc đời.
-
Để sở hữu Đức Khôn Ngoan, chúng ta không phải chỉ học để biết, nhưng còn phải
tìm dịp thi hành trong cuộc đời thì mới sinh ích lợi. Một người chỉ biết mà
không thi hành, họ sẽ dần dần mất luôn những điều họ đã học được.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 8 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Thứ Bảy :
Mc 11,27-33
A. Hạt giống...
1. Việc Chúa Giêsu đánh đuổi những người
buôn bán trong đền thờ đã khiến các trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão nổi giận. Họ
đến chất vấn Ngài : "Ông lấy quyền nào mà làm sự đó ?"
2. Chúa Giêsu không tự đưa ra câu trả lời,
nhưng hỏi ngược lại họ về nguồn gốc phép rửa của Gioan tẩy giả. Không phải Ngài
tránh né vấn đề, nhưng đây là cách Ngài khuyến khích họ suy nghĩ : nếu họ đừng
có thành kiến nhưng biết sáng suốt nhận định thì họ sẽ thấy rõ sứ mạng của
Gioan là bởi trời, và sứ mạng cùng quyền năng của Chúa Giêsu cũng bởi trời.
3. Nhưng vì muốn bám chặt vào thành kiến
nên họ đã không chịu suy nghĩ.
B.... nẩy mầm.
1. Thành kiến là ngục tù giam hãm con
người. Thành kiến làm cho người ta phán đoán sai lệch "Thương ai thương cả
đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng" ; "Đã thương quả ấu cũng
tròn, không thương bồ hòn cũng méo". Tôi có thành kiến không ? Thành kiến
với ai ? Thành kiến chuyện gì ?
2. Chúa cũng thích đối thoại với tôi. Nhưng
nếu Ngài bảo "Hãy trả lời Ta đi" mà tôi tránh né "Con không
biết", thì Ngài cũng lại nói "Vậy thì Ta cũng không nói cho con
biết". Xin cho con biết lắng nghe những câu Chúa chất vấn con. Xin cho con
cảm đảm trả lời thành thật. Và xin cho con được biết Chúa muốn dạy con làm gì.
3. Có một nhà thiên văn nọ sáng chế được
một viễn vọng kính. Đêm nọ ông bỗng phát hiện một con rồng trên mặt trăng. Ông
chạy khắp thành phố mời bạn bè đến xem khám phá của ông. Mọi người xem đều tấm
tắc khen ngợi tài năng của ông. Nhưng trong đám đông hiếu kỳ, có một nhà thiên
văn học kỳ cựu cũng đến để tìm hiểu thực hư. Vừa đưa mắt nhìn vào viễn vọng
kính, ông mỉm cười một cách bí ẩn rồi mở ống kính ra, cho mọi người thấy có một
con ruồi đã chết cứng trong đó. Thì ra con rồng trên mặt trăng không là gì khác
hơn là con ruồi nằm trong ống kính.
Chúng ta dễ có khuynh hướng nhìn người khác
qua lăng kính những thành kiến có sẵn.
4. "Ông lấy quyền nào mà làm các điều
ấy ?" (Mc 11,28)
Các thượng tế và ký lục đã chất vấn Chúa
Giêsu như thế, khi Người xua đuổi những kẻ buôn bán trong đền thờ.
Tôi cũng là đền thờ của Chúa nhưng tội lỗi
đã làm ô uế đến thời ấy. Tôi cũng hỏi Chúa câu trên khi Ngài yêu cầu tôi đánh
đổ những thành kiến, xua đuổi các tật xấu và ý nghĩ xấu xa...
Chúa Giêsu muốn con người hiểu rằng Ngài có
quyền đòi hỏi mọi người phải tôn trọng đền thờ Cha Ngài.
Tại sao tôi lại chất vấn quyền của Chúa nhỉ
?
Lạy Chúa, xin cho con đừng tra hỏi Ngài
nhưng biết khẳng định quyền của Ngài trên đời sống hàng ngày của con. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI –
Gp.Cần Thơ
01/06/13 THỨ
BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 8 TN
Th. Giúttinô, tử đạo
Mc 11,27-33
Th. Giúttinô, tử đạo
Mc 11,27-33
CÓ QUYỀN HAY KHÔNG CÓ QUYỀN ?
“Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai đã cho ông quyền làm
các điều ấy?” (Mc 11,28)
Suy niệm: Những người trong giới lãnh đạo
tôn giáo của Do Thái chất vấn Chúa Giêsu về việc mới xảy ra trước đó: Ngài xua
đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, với lời xác quyết: “Nào đã chẳng có lời chép rằng
Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc sao? Thế mà các ngươi đã biến
thành sào huyệt của bọn cướp!”
Đây là sự căng thẳng giữa hai khía cạnh cơ chế và đặc sủng của tôn giáo. Cơ chế –tức đặc tính tổ chức, phẩm
trật, quyền bính trong Giáo hội– là điều cần thiết. Nhưng nó chỉ cần thiết để
phục vụ cho đặc sủng của Giáo hội, tức Giáo hội hiểu là chứng nhân của Tin Mừng tình
yêu và cứu độ. Tách khỏi mục đích này, cơ chế Giáo hội sẽ mất ý nghĩa. Và đó là sự mỉa mai bộc lộ nơi lời chất
vấn thẩm quyền Đức Giêsu, một “thường dân” không có chức tước gì trong Do thái
giáo thời ấy. Đức Thánh Cha Phanxicô đã lưu ý rằng Giáo hội không phải là một
tổ chức, một bộ máy, một hệ thống văn phòng…, mà trước hết là một câu chuyện
tình yêu!
Mời Bạn quan tâm đến sức sống thực sự
của Giáo hội, đó là sống với Chúa và với tha nhân bằng tình yêu tự hiến. Ta
đừng quên rằng Giáo hội vững mạnh không vì vẻ ‘hoành tráng’ bên ngoài, mà là ở
đời sống chứng tá yêu thương.
Sống Lời Chúa: Dù bạn chỉ là một giáo dân
‘trơn’, cuộc canh tân đời sống Giáo hội vẫn có thể bắt đầu từ bạn đó!
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa bị chất
vấn vì đã ngăn chặn việc Nhà Thiên Chúa biến thành “sào huyệt của bọn cướp”,
xin giúp con luôn biết yêu mến và góp phần thăng tiến sức sống thâm sâu của
Giáo hội. Amen.
Chúng
tôi không biết
Làm thế nào để chúng ta không tìm cách tránh né sự thật, dù
chấp nhận sự thật đòi chúng ta phải thay đổi tận căn và trả giá? Làm thế nào để
chúng ta can đảm nhận mình sai để lại bắt đầu?
Suy niệm:
“Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy
hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?” (c.
28).
Ba giới chức cao nhất của Do Thái giáo
đã đặt câu hỏi như vậy với Đức Giêsu khi Ngài
đi đi lại lại
trong Đền Thờ Giêrusalem vào những ngày cuối
đời.
Ông lấy quyền nào mà dám đuổi những kẻ buôn bán
ở đây?
Ông lấy quyền nào mà lật bàn của những người
đổi tiền,
và xô đổ ghế của những người bán bồ câu? (c.
15).
Tất cả những người làm chuyện buôn bán
đều nhằm phục vụ cho nhu cầu tế tự của Đền Thờ.
Nếu không cho buôn bán ở đây thì người dân lấy
gì mà dâng cúng?
Có phải ông định phá hoại các sinh hoạt ở Đền
Thờ không?
Tại sao ông dám nói nơi Thánh này đã trở nên
hang ổ của bọn cướp ?
Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục muốn giết Đức
Giêsu (c. 18).
Họ nghiêm chỉnh đến gặp Ngài và đòi Ngài phải
trả lời câu hỏi của họ.
Họ muốn biết người nào đã cho Đức Giêsu quyền
đó.
Đức Giêsu dùng phương pháp của các rabbi,
trả lời một câu hỏi bằng cách đặt ngược một câu
hỏi khác.
“Tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi.
Các ông trả lời đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông
biết
tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy” (c. 29).
Ngài đặt cho họ câu hỏi về nguồn gốc của phép
rửa bởi Gioan:
“Phép rửa của ông Gioan là do Thiên Chúa hay do
loài người?” (c. 30).
Câu hỏi tưởng như đơn giản này lập tức đưa họ
vào thế kẹt.
Nếu trả lời phép rửa của Gioan là bởi Thiên
Chúa
thì họ sẽ bị tố cáo vì đã không tin vào lời
giảng của Gioan.
Hơn nữa khi tin vào Gioan, họ cũng phải tin vào
Đức Giêsu,
Đấng đã được Gioan hết lòng khiêm cung làm
chứng.
Nếu trả lời phép rửa của Gioan là bởi loài
người
thì họ sẽ vấp phải sự chống đối từ phía dân
chúng,
vì họ tin Gioan là một vị ngôn sứ đích thực.
Như thế câu hỏi của Đức Giêsu đã đưa họ vào thế
tiến thoái lưỡng nan.
Câu hỏi của Ngài dồn họ vào thế phải trả lời:
“Chúng tôi không biết.” (c. 33).
Có thật họ không biết hay chỉ là né tránh sự
thật?
Họ đã không tin Gioan, vì sợ tin Gioan sẽ phải
tin cả Giêsu nữa.
Nhưng họ lại sợ không dám nói ra điều đó cho
dân chúng biết.
Nỗi sợ bị mất uy tín, mất chỗ đứng, khiến họ
trở nên câm lặng.
Câu hỏi của Đức Giê su đòi họ trở về với lòng
mình
để tự tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi của họ:
“Ông lấy quyền nào?”
Quyền của Đức Giêsu là quyền năng của Thánh
Thần Thiên Chúa.
Làm thế nào để chúng ta thoát khỏi thành kiến
và nỗi sợ hãi
để có được sự tự do khi trao đổi với nhau?
Làm thế nào để chúng ta không tìm cách tránh né
sự thật,
dù chấp nhận sự thật đòi chúng ta phải thay đổi
tận căn và trả giá?
Làm thế nào để chúng ta can đảm nhận mình sai
để lại bắt đầu?
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau
trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.
Xin cho chúng con đến với nhau
không
chút thành kiến,
và tin
tưởng vào thiện chí của nhau.
Khi cộng tác với nhau,
xin cho
chúng con cảm thấy Cha hiện diện,
nhờ đó
chúng con vượt qua
những tự
ái nhỏ nhen,
những
tham vọng ích kỷ
và những
định kiến cằn cỗi.
Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,
để tìm
kiếm chân lý
ở mọi nơi
và mọi người,
nhất là
nơi những ai khác quan điểm.
Lạy Cha,
xin sai
Thánh Thần đến trên chúng con,
để chúng
con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,
và hiểu
nhau ngay trong những dị biệt.
Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,
xin cho
chúng con được triển nở không ngừng
và Thánh
Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy niệm Mc
11,27-33
Trong cuộc
sống ngày nay, việc nhận ra được chân lý đã là khó, nói chi sống theo chân lý
quả là không dễ chút nào.
Xin Chúa
cho chúng ta có được đôi tai sâu lắng như Đức Maria, để chúng ta cũng có thể
nhận ra lời chân lý từ Chúa. Và xin cho chúng ta có được sức mạnh nội tâm như
Đức Maria, để can đảm sống theo lời chân lý của Chúa dạy.
Khi thấy
đời sống độc thân-khiến tịnh của các linh mục, anh em chính quyền hay thắc mắc
và đặt câu hỏi:
Làm sao các
vị ấy có thể sống khiết tịnh được?
Nếu là
người có thiện chí, thì lời giải thích của ta sẽ làm cho họ hiểu và dễ chấp
nhận. Ngược lại, họ hỏi để đã kích, bôi nhọ, hạ bệ thì dù cho giải thích thề
nào đi nữa thì cũng như không.
Sau khi
Chúa đánh đuổi những người buôn bán, đổi tiền ra khỏi đền thờ. Các thượng tế,
kinh sư và đầu mục thấy khó chịu muốn nhổ bỏ "cái gai Giêsu" ra khỏi
mắt họ. Chính vì thế họ họp lại với nhau, bàn luận cách thế để hạ bệ Ngài.
Sau cuộc hội thảo, họ tóm kết lại thành hai câu hỏi để gài bẫy đẩy Chúa Giêsu
vào con đường chết, đó là:
1.“Ông lấy
quyền nào mà làm các điều ấy?
2. Ai đã
cho ông quyền đó để ông làm các điều ấy?”
Hai Câu hỏi
trên không phải vì thiện chí muốn tìm hiểu sự thật, nhưng là để gài bẫy hạ bệ
và tiêu diệt Đức Giêsu. Điều này không chỉ xảy ra một lần trong tin mừng mà ít
nhất là ba lần.
Trước những
câu hỏi nhằm tìm cách gài bẫy như thế này, Chúa Giêsu không hề trả lời trực
tiếp? Vì nếu trả lời quyền ấy là do từ trời là sẽ lọt vào khung phạm luật cao
nhất của thời bấy giờ. Còn nếu trả lời không biết, thì sẽ đánh mất niềm
tin của dân chúng. Đàng nào cũng nguy.
Nhưng “võ
quít dày có móng tay nhọn”. Thay vì trả lời trực tiếp, Chúa đảo ngược tình thế
nhằm đưa họ về chính cõi lòng, để tự vấn lương tâm bằng cách đặt câu hỏi ngược
lại: “Tôi xin hỏi các ông một điều, nếu các ông trả lời đúng thì tôi sẽ nói cho
các ông biết, tôi lấy quyền ai mà làm việc đó. Vậy phép rửa của ông Gioan bởi
Thiên Chúa hay bởi loài người?.”
Nếu họ trả
lời phép rửa của Gioan bởi trời. Tại sao không tin Chúa? vì chính Gioan làm
chứng và loan báo về Đấng Cứu Thế là do Thiên Chúa sai đến và có uy quyền Thiên
Chúa. Còn nếu trả lời là do bởi người ta, thì sẽ gặp phản ứng của dân chúng, vì
họ tin ông Gioan là ngôn sứ bởi trời đến để loan báo về Đấng Cứu Thế. Đàng nào
cũng không được, nên họ chọn cách an toàn nhất là: “chúng tôi không biết” cho
xong chuyện. Dù biết rõ nhưng phải dối lòng.
Xin cho
chúng ta biết chân thành tìm kiếm sự thật đích thực. Đừng bao giờ vì quyền lợi
hay thành kiến mà đóng chặt cửa lòng phủ nhận chân lý.
Xin cho
chúng ta biết can đảm sống thành thật trong lời nói, ý tưởng và việc làm nhất
là can đảm làm chứng cho chân lý.
Xin cho
chúng ta cũng biết khiêm tốn nhận ra quyền năng Chúa hành động trong thế giới
này và luôn tin tưởng vào uy quyền của Chúa. Amen.
Lm. Seoka
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng
Sáu
1 THÁNG SÁU
Hơi Thở Sự Sống
Bản văn
Thánh Kinh trong Sách Sáng Thế cho phép chúng ta hiểu rõ rằng con người – được
tạo thành như thế – khác hẳn với toàn thể thế giới hữu hình, nhất là khác hẳn
với thế giới động vật. Chính “hơi thở sự sống” đã làm cho con người có thể biết
các động vật, có thể đặt tên cho chúng – và có thể nhận ra mình khác với chúng
(St 2, 18 – 20).
Mặc dù
trình thuật Gia-vít về cuộc tạo dựng con người không nói đến “linh hồn”, ta vẫn
dễ dàng nhận ra từ trình thuật này rằng sự sống con người là một sự sống siêu
việt trên sự sống thuần túy chất thể của động vật, rằng sự sống vượt quá vật
chất để vươn tới chiều kích tinh thần. Đây chính là nền tảng cốt yếu của “hình
ảnh Thiên Chúa” mà bản văn Sáng Thế 1, 27 nói về.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul
II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh
Justinô, tử đạo
Hc
51,12-20; Mc 11, 27-33
LỜI
SUY NIỆM: Trong câu chuyện các thượng tế, kinh sư và các kỳ mục chất vấn Đức
Chúa Giêsu về thẩm quyền của Ngài, khi Ngài xua đuổi những con buôn ra khỏi Đền
Thờ, cũng như Ngài giảng dạy dân chúng trong Đền Thờ. Chúa Giêsu đã đặt lại câu
hỏi về phép Rửa của Gioan, nhưng những kẻ chất vấn đã tính toán, và cuối cùng,
họ chọn sự im lặng, để che đậy cái tâm không thành thật của mình. Bởi vì Công
việc của Chúa Giêsu đã đụng chạm đến vị thế và quyền lợi vật chất của họ. Qua
câu chuyện này Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải biết quan tâm đến chân lý và sự
thật, đồng thời luôn phải tự xét mình đã có đủ điều kiện, đủ thiện tâm, thiện
chí để chất vấn người anh em? Chất vấn là để giúp cho mình hiểu đủ và hiểu
đúng; đồng thời tôn trọng, nâng cao người anh em lên hơn mình.
Mạnh
Phương
Gương
Thánh nhân
Ngày
01-06
Thánh
GIUSTINÔ
Tử
Đạo (+165)
Thánh
Giustinô tử đạo sinh tại Nablus , Samaria ở vào đầu thế kỷ
thứ II. Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, nhưng Ngài luôn nuôi dưỡng
nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa chân thật. Với nhiệt tình này, Ngài đã tiếp xúc
với mọi triết thuyết đương thời và không thoả mãn được các đòi hỏi của trí
khôn.
Trong
tác phẩm "Đối thoại với Tryphon" (Dialogus cum Tryphone), chính thánh
Giustinô kể lại cuộc tìm kiếm của mình : - Trước hết, Ngài tin tưởng vào một
người theo phái khắc kỷ. Những người này chẳng dạy gì về Thiên Chúa. Ông ta nói
rằng sư hiểu biết ấy không cần thiết gì. Sau đó, Ngài đến với một người theo
thuyết của Aristote. Ông này đòi thù lao quá cao, khiến sinh viên trẻ là
Giustinô phẫn uất: người ta không rao bán triết học.
Một
người theo lý thuyết của Pythagore hỏi Ngài : - Anh đã học âm nhạc, thiên văn
và địa lý chưa ? Bởi vì để chiêm ngưỡng điều góp phần tạo nên hạnh phúc cần
phải biết học giải thoát tâm hồn khỏi các đối tượng hữu hình để có thể tiếp
nhận được những đối tượng trong trí khôn và cho phép thấy được sự thiện mỹ nội
tại.
Giustinô
chưa biết gì về những môn học, nhưng lại thấy mình bị thúc bách tìm kiếm Thiên
Chúa hơn. Ngài gặp một người theo phái Platon Ngài nói: - Sau nhiều đàm luận,
tôi hiểu được những điều vô hình ở mức độ cao hơn. Việc chiêm ngưỡng thế giới
tư tưởng chấp cánh cho tinh thần của tôi.
Dầu
vậy, không có gì làm cho Ngài thỏa mãn được cơn khát chân lý. Tại Ephesô,
Giustinô gặp một cụ già đầy khôn ngoan. Ông trách Ngài đã thích lý sự về từ ngữ
hơn sự kiện. Ông đã cho Ngài một lời khuyên cao cả là hãy tìm đọc kinh thánh:
phải vượt qua những giới hạn của trí khôn, phải đi xa trong thời gian hơn các
triết gia, phải nghe các tiên tri là những người nói bởi Chúa Thánh Thần, nhất
là phải cầu nguyện vì: - Không ai có thể thấy hay nghe được những điều này nếu
Thiên Chúa và đức Kitô không cho họ hiểu biết.
Theo
lời khuyên này, Giustinô đã khám phá ra Kitô giáo bảo đảm hơn triết học nhiều.
Từ đấy đức tin là qui luật xử thế và sự thánh thiện lý tưỏng của Ngài, Ngài mở
một trường học tại Rôma và sống đời tông đồ đích danh. - Tôi sẽ nói sự thật, không
một đắn đo sợ sệt, cả vào lúc bị phân thay thành trăm mảnh.
Gương
mẫu của các thánh tử đạo đánh động ngài rất nhiều : - Thấy họ kiên vững trước
cái chết, tôi thầm nói rằng: họ không thể sống trong sự dữ và ham mê các khoái
lạc được nữa.
Ngài
sẽ tìm được ở đâu sự thăng hoa cuộc sống lớn lao hơn là trong Kitô giáo ? Bởi
vậy Ngài đã tìm mở rộng môi trường hoạt động ra ngoài ranh giới lớp học và
những cuộc tranh luận, bằng việc viết nhiều tác phẩm để phổ biến tư tưởng tôn
giáo. Ngày nay chúng ta chỉ còn giữ lại được hai cuốn: Đối Thoại Với Tryphone,
và Hộ Giáo. Nhưng với hai tác phẩm ấy, thánh Giustinô cũng tỏ ra là một nhà
minh giáo có thế giá được thế kỷ thứ II và là người đã phác họa ra nền thần học
Kitô giáo.
Từ
một đức tin vững chắc vào các chân lý Kitô giáo. Thánh Giustinô đã không ngần
ngại tìm hết khả năng trổi vượt của trí khôn để hai lần viết thơ can ngăn các
bạo vương. Lần thứ nhất vào năm 138. Ngài viết cho Antonin Le Pieux và lần thứ
hai cho Marcô Aurelio. Cả hai lần Ngài cố gắng chỉ dẫn đến kết quả là bị kết án
tử hình.
Giustinô
và các bạn bị dẫn tới trước mặt tổng trấn Rusticus, một người theo triết thuyết
Khắc Kỷ. Ngài lớn tiếng tuyên xưng đức tin. - Không ai có lương tri mà lại bỏ
rơi chân lý để theo sự lầm lạc cả.
Thánh
nhân từ chối không chịu tố giác nơi các kitô hữu hội họp. Sau cùng Ngài và các
bạn bi đánh đòn rồi bị chém đầu. Tài liệu còn ghi lai nhiều chân lý mà thánh
nhân đã phát biểu trong cuộc đối thoại với Rustisus, chẳng hạn: - Mọi nguyên
tắc chính đáng mà các triết gia và các nhà lập luật khám phá được và trình bày
cũng phải nhớ ở điều mà Ngôi lời đã diễn tả một phần.
Ngài
còn nói : - Không ai tin Socrate đến độ chết vì điều ông ta dạy. Chính vì những
lý do khác hẳn với lãnh vực văn chương mà bao nhiêu giáo phụ đã lấy máu mình để
ký nhận các công trình của các Ngài, chính tình yêu Thiên Chúa nhập lòng các
Ngài.
(daminhvn.net)
01 Tháng Sáu
Con
Người Khờ Khạo
Một cuốn phim Pháp với
tựa đề "Gigot", đã kể lại cuộc đời cao thượng nhưng vô cùng đáng
thương của một người câm tên là Gigot. Ðúng như cái tên có thể gợi lên, Gigot
là một người khờ khạo nhưng có một tâm hồn cao quí. Ngày ngày anh quét đường,
kiếm từng đồng xu nhỏ để mua những mẩu bánh mì vụn sống qua ngày. Nơi trú ngụ
của anh là một cầu thang bẩn thỉu nằm bên dưới một ngôi nhà. Những người bạn
duy nhất của anh là các chú chó và một con mèo hoang. Hằng ngày, từ tiệm bánh
mì đi ra, anh đều mang theo thức ăn cho chúng. Anh đi đâu, chúng quấn quít bên
người đến đó... Những con thú thương anh như một người bạn, nhưng những người đồng
bào của anh chỉ nhìn anh như trò đùa. Mỗi khi cần có một trận cười, người ta
gọi Gigot đến cho anh uống rượu để anh có thể nhảy múa trong cơn say và làm trò
hề cho họ.
Một đêm nọ, sau khi say
túy lúy và làm đủ trò hề cho thiên hạ cười, Gigot đi ngã ngiêng về nhà giữa cơn
mưa. Anh bắt gặp một người đàn bà và một đứa con gái nhỏ đang nằm co ro trong
góc hè phố, mình mẩy ướt như chuột lột. Anh dìu hai mẹ con người đàn bà về nhà
mình và dọn chỗ cho họ qua đêm. Trong những ngày kế tiếp, anh tìm đủ mọi cách để
làm cho người đàn bà được hạnh phúc và cô bé được vui cười. Anh đưa cô bé đến
nhà thờ và dùng thứ ngôn ngữ câm của mình để nói với nó về Chúa Giêsu... Một
hôm, người mẹ muốn đi nơi khác vì không chịu nổi cảnh thiếu thốn trong căn nhà
của anh. Người câm không biết làm gì hơn là đành phải đến hiệu bánh mì quen để
đánh cắp một số tiền. Với số tiền ấy, anh có thể sắm sửa tươm tất cho hai mẹ
con người đàn bà...
Thế nhưng, một hôm, khi
thức giấc, anh không còn thấy người đàn bà trong căn gác của mình nữa. Anh đưa
cô bé vào sâu trong cầu thang và làm trò đùa cho nó cười. Vô tình, căn gác đổ
nát sụp xuống trên anh và đứa bé. Anh vừa mang đứa bé đến nhà thờ để xin cha sở
chạy chữa, thì người ta cũng phát giác ra sự mất tích của nó... Người ta tri hô
lên anh là thủ phạm bắt cóc đứa bé. Cuộc săn đuổi đã làm anh trượt té xuống một
dòng sông... Một chiếc phà chạy qua. Chiếc mũ của anh trồi lên. Mọi người tưởng
rằng anh đã chết chìm giữa dòng sông... Sự cảm thông và thương tiếc bỗng bừng
dậy, người ta lấy chiếc mũ của anh, đặt lên một chiếc quan tài và cử hành nghi
lễ tống táng. Người người sụt sùi khóc. Bao nhiêu bài điếu văn được đọc lên để
ôn lại tấm lòng cao thượng của người quá cố... Nhưng từ một chòm cây trong
nghĩa địa, Gigot lắng nghe tất cả, anh bật thành tiếng khóc, khóc vì sự cảm
thông quá muộn màng của người đồng loại, mà có lẽ cũng khóc khi nghĩ đến thân
phận của anh.
Hôm
nay chúng ta bước vào tháng dành riêng để tôn kính Trái Tim Chúa Giêsu.... Có
riêng một tháng để nhắc nhớ cho con người về Tình Yêu của Thiên Chúa, bởi lẽ
con người không hiểu mà cũng dễ quên tình yêu của Thiên Chúa...
Thiên
Chúa cũng giống như một người tình câm. Ngài làm mọi sự và tìm đủ mọi cách để
cho con người hiểu được Tình Yêu của Ngài. Không còn ngôn ngữ nào nữa, Thiên
Chúa đành phải dùng chính cái chết, bởi lẽ không có tình yêu nào trọng đại cho
bằng mối tình của người chết vì người mình yêu...
"Chúng
sẽ nhìn xem Ðấng chúng sẽ đâm thâu qua". Qua cái chết của Ðức Kitô trên
thập giá, con người mới có thể thấy được tình yêu của Thiên Chúa đối với mình.
Cái chết là ngôn ngữ cuối cùng của Tình Yêu. Mối tình câm lặng nhất đã được bày
tỏ...
(Lẽ Sống)
1-6
Thánh Justin Tử Ðạo
(c. 165)
T
|
hánh Justin là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã có
những sáng tác vĩ đại bảo vệ đức tin Kitô Giáo. Nhờ các văn bản ấy, chúng ta
biết về cuộc đời ngài.
Thánh Justin sinh ở Flavia Neapolis, Samaria khoảng năm 100, cha
mẹ ngài là người ngoại giáo, gốc Hy Lạp. Ngài được giáo dục kỹ lưỡng và đặc
biệt yêu thích khoa hùng biện, thi ca và sử học. Khi còn trai trẻ, ngài bị thu
hút bởi triết thuyết Plato. Tuy nhiên, ngài nhận thấy chỉ có Kitô Giáo mới trả
lời được những thắc mắc lớn lao về đời sống và sự hiện hữu.
Qua những tài liệu Kitô Giáo cũng như việc quan sát các gương anh
hùng tử đạo, Thánh Justin đã trở lại Kitô Giáo khi ngài 30 tuổi. Ngài tiếp tục
mặc áo choàng của các triết gia thời bấy giờ, và trở nên triết gia Kitô Giáo
đầu tiên. Ngài tổng hợp Kitô Giáo với các yếu tính đặc sắc nhất trong triết lý
Hy lạp. Theo quan điểm của ngài, triết lý là một nhà mô phạm của Ðức Kitô, một
nhà giáo dục dẫn đưa người ta đến với Ðức Kitô.
Thánh Justin nổi tiếng là một người biện giáo thời bấy giờ. Ngài
đi đây đó và tranh luận với các người ngoại giáo, lạc giáo và Do Thái Giáo. Khi
người Kitô tiếp tục bị bách hại bởi nhà cầm quyền, ngài đã công khai bảo vệ
Kitô Giáo qua lời giảng dạy cũng như văn bản. Trong các sáng tác của ngài, hiện
nay chúng ta vẫn còn giữ được hai bản văn gửi cho hoàng đế Rôma và cho Thượng
Viện.
Sau cùng ngài bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn Rôma là
Rusticus. Khi được yêu cầu thờ cúng tà thần, Thánh Justin trả lời, "Người
có suy nghĩ đúng đắn không vì sự giả trá mà chối bỏ sự thật."
Thánh Justin bị chém đầu ở Rôma năm 165.
Lời Bàn
Là quan thầy các triết gia, Thánh Justin khích động chúng ta hãy
dùng các sức mạnh tự nhiên (nhất là sức mạnh của sự hiểu biết) để phục vụ Ðức
Kitô, và để hình thành đời sống Kitô Giáo trong nội tâm chúng ta. Vì con người
dễ bị sai lầm, nhất là đối với các vấn đề sâu xa của đời sống và sự hiện hữu,
chúng ta cũng phải sẵn sàng sửa đổi và kiểm soát lại tư duy chúng ta trong sự
soi dẫn của chân lý Kitô Giáo. Do đó, chúng ta mới có thể nói như các thánh
nhân uyên bác của Giáo Hội: Tôi tin để có thể hiểu, và tôi hiểu để có thể tin.
Lời Trích
"Triết lý là sự am tường những gì hiện hữu, và là sự hiểu
biết rõ ràng về chân lý; và hạnh phúc là phần thưởng của sự am tường và sự hiểu
biết đó" (Thánh Justin, Ðối Thoại Với Trypho, 3)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét