01/02/2015
Chúa Nhật
4 Quanh Năm Năm B
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa:
Chúa Nhật IV Mùa Thường Niên năm B
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN B
(Đnl 18,15-20; 1 Cr 7,32-35; Mc 1,21-28)
(Đnl 18,15-20; 1 Cr 7,32-35; Mc 1,21-28)
LỜI UY QUYỀN
Mọi người đều kinh ngạc
đến nỗi họ bàn tán với nhau:
“Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ,
người dạy lại có uy quyền”
(Mc 1,27)
đến nỗi họ bàn tán với nhau:
“Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ,
người dạy lại có uy quyền”
(Mc 1,27)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1
Sách
Đệ Nhị Luật ghi nhận ba định chế chính nhằm phục vụ cho đời sống của dân khi họ
vào đất hứa, gồm các vua (17,14-20), các tư tế Lêvi (18,1-8) và các ngôn sứ
(18,9-22). Đoạn trích Đnl 18,15-20 hôm nay làm nổi bật vai trò của các ngôn sứ.
Trước
hết, các ngôn sứ là những người do Chúa chọn. Hình ảnh Thiên Chúa nói với dân
tại núi Khôrép là một Thiên Chúa đáng sợ, oai nghiêm, đến nỗi dân không dám
trực tiếp nghe tiếng Ngài, không dám nhìn vào Ngài (Đnl 18,16). Ai thấy Thiên
Chúa coi như không thể tránh khỏi cái chết (Xh 33,20). Dân chỉ có thể “tiếp
xúc”, “trao đổi” với Thiên Chúa thông qua ông Môsê. Vì thế, thể theo lời thỉnh
nguyện của dân, Thiên Chúa chọn từ trong dân các ngôn sứ để làm trung gian giữa
Thiên Chúa và dân, dựa theo khuôn mẫu của ngôn sứ Môsê.
Hơn nữa, các ngôn sứ là những người nói lời Thiên Chúa: “Ta sẽ đặt những lời của Ta trong
miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người
ấy” (Đnl 18,18). Tiến trình này gồm hai nhịp: Một là, ngôn sứ phải
để cho Thiên Chúa đặt lời Ngài vào miệng mình (x. Is 51,16; Gr 1,9), để lời
Ngài chiếm lấy môi miệng mình, thanh tẩy lời lẽ của mình; Hai là, một khi đã
đón nhận lời Chúa, ngôn sứ chỉ nói lời của Chúa, nói những gì Thiên Chúa truyền
dạy mà thôi. Bất cứ vị ngôn sứ nào hoặc không nói lời Thiên Chúa, hoặc nhân
danh bất cứ vị thần nào khác mà nói đều bị trừng phạt cách nghiêm khắc (Đnl
18,20).
Sau cùng, dân cần lắng nghe lời của vị ngôn sứ. Vì được chính
Thiên Chúa tuyển chọn và được chính lời Chúa thanh tẩy môi miệng, sứ điệp ngôn
sứ không còn là lời người phàm mà là lời Thiên Chúa: “Lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý
muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói
theo lệnh của Thiên Chúa” (2 Pr 1,21). Vì thế, dân Chúa có bổn phận
lắng nghe và đón nhận sứ điệp ngôn sứ như chính lời của Thiên Chúa. Ai không
đón nhận thì sẽ bị Thiên Chúa hạch tội (Đnl 18,19).
Tóm
lại, ngôn sứ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn từ giữa dân, được đón
nhận lời Chúa và chỉ nói lời Chúa mà thôi. Sứ điệp ngôn sứ đích thật là lời
Chúa, nên dân cần lắng nghe và đón nhận.
2. Bài đọc 2
Thánh
Phaolô dành trọn chương 7 thư thứ nhất Côrintô để nói về đời sống hôn nhân cũng
như độc thân. Đối với thánh nhân, mỗi bậc sống đều có những bổn phận và trách
nhiệm riêng biệt.
Những
người sống đời hôn nhân có trách nhiệm với người bạn đời của mình. Họ tìm cách
làm đẹp lòng nhau, chăm sóc, lo lắng cho nhau. Đó là lẽ thường tình của điều
thánh Phaolô gọi là “lo lắng việc đời”. Tuy vậy, người sống đời hôn nhân cũng
có bổn phận “gắn bó với Chúa” trong một mức độ nhất định (1 Cr 7,35). Đối với
thánh nhân, dù những người sống đời hôn nhân có mức độ “gắn bó với Chúa” giới
hạn, thì đó là điều có thể hiểu và thông cảm được, nên không có gì phải lo lắng
bị “chia đôi”, “giằng co”.
Trái
lại, những người sống đời độc thân thì thuộc trọn về Chúa; họ được kêu gọi để
làm đẹp lòng Chúa. Đối với thánh Phaolô, độc thân là bậc sống lý tưởng để dành
trọn cả cuộc đời, cả con người cả hồn lẫn xác, cả con tim để phục vụ và làm đẹp
lòng Thiên Chúa. Lý tưởng của người sống đời độc thân, theo thánh nhân, là
“chuyên lo” việc của Chúa. Cuộc đời của họ không có mối bận tâm, lo lắng nào
khác ngoài “chuyên lo” việc của Chúa và làm đẹp lòng Ngài.
Mỗi
bậc sống có mối “bận tâm” khác nhau. Mỗi người có tự do chọn lựa bậc sống của
mình. Dù chọn bậc sống nào đi nữa, thì Thiên Chúa vẫn luôn phải có chỗ đứng, ở
những mức độ khác nhau, trong đời sống của mình.
3. Bài Tin Mừng
Hình
ảnh Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường Caphácnaum gợi nhớ đến sứ mạng của các
ngôn sứ trong Cựu Ước. Tuy nhiên, Đức Giêsu lại cho thấy Người như là vị ngôn
sứ khác biệt qua cách giảng dạy và biểu lộ uy quyền của Người.
Trước
hết, dù Đức Giêsu không tự xưng mình là ngôn sứ, nhưng phần lớn sứ mạng công
khai của Người dành cho việc giảng dạy dân chúng. Điểm khác biệt trong cách
giảng dạy của Đức Giêsu được dân chúng ghi nhận vì “Người giảng dạy như một
đấng có thẩm quyền” (Mc 1,22; 2,10; 11,33). Trong khi các ngôn sứ là những
người nói lời Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là “Con Thiên Chúa” (Mc 1,1.11), nên
lời của Người mang thẩm quyền từ Thiên Chúa và đó đích thực là lời Thiên Chúa.
Dân chúng cũng cảm nhận được trong lời giảng dạy của “Con Thiên Chúa” có thẩm
quyền của chính Thiên Chúa, chứ không như các kinh sư (Mc 1,22).
Hơn
nữa, lời uy quyền của Đức Giêsu được biểu lộ qua việc Người ra lệnh cho thần ô
uế và nó phải chịu khuất phục (Mc 1,25). Chính thần ô uế cũng biết và thừa nhận
thẩm quyền của Đức Giêsu qua việc tuyên xưng Người là “Đấng Thánh của Thiên
Chúa” (Mc 1,24; Lc 4,34). Trong toàn bộ Tân Ước, lời tuyên xưng này chỉ một lần
nữa được đặt trên môi miệng của Phêrô (Ga 9,69). Khi tuyên xưng Đức Giêsu là
“Đấng Thánh của Thiên Chúa”, Đấng đã nhận lấy Thánh Thần (Mc 1,9-11) và sẽ làm
phép rửa trong Thánh Thần (Mc 1,8), Máccô muốn nhấn mạnh rằng Đức Kitô thật sự
được Thiên Chúa thánh hiến. Vì được “thánh hiến” nên Người ở trong thế đối
nghịch với thần “ô uế”; Người dùng lời quyền năng không chỉ trong việc giảng
dạy mà còn để xua trừ thế lực sự dữ.
Sau
cùng, Tin Mừng Máccô ghi nhận sự kinh ngạc và thán phục của dân chúng khi lắng
nghe lời giảng dạy đầy uy quyền của Đức Giêsu (Mc 1,27). Nếu như trong Cựu Ước,
dân Chúa được khuyến cáo hãy lắng nghe lời ngôn sứ vì đó là lời phát xuất từ
Thiên Chúa (Đnl 18,19), thì lời của Đức Giêsu tự nó mang uy quyền của Thiên
Chúa và có năng lực thu hút và thuyết phục người ta. Thêm vào đó, lời Đức Giêsu
thực sự là lời mang “giáo huấn mới mẻ”; lời giáo huấn của Người mở ra một thời
đại mới, trong đó con người được lắng nghe và chứng kiến lời uy quyền của Thiên
Chúa cách trực tiếp và hoàn toàn mới mẻ, chứ không còn cần qua trung gian gián
tiếp là các ngôn sứ nữa.
Tin
Mừng Máccô một lần nữa làm nổi bật Đức Giêsu như là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”,
Đấng không chỉ mang đến giáo huấn mới mẻ trực tiếp từ Thiên Chúa mà còn dùng
lời uy quyền mà xua trừ sự dữ.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Ngôn
sứ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn để nói lời Thiên Chúa. Qua bí tích
Rửa Tội, tôi cũng được Thiên Chúa tuyển chọn để làm ngôn sứ cho Ngài. Tôi có ý
thức về sứ mạng ngôn sứ của mình? Tôi có nhân danh Thiên Chúa mà nói lời Ngài?
2/ Thánh
Phaolô phân biệt bổn phận khác nhau của những người độc thân và sống đời hôn
nhân. Nếu sống đời hôn nhân, tôi có chu toàn trách nhiệm với bạn đời của mình?
Nếu sống đời độc thân, tôi có hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa?
3/ Tin
Mừng Máccô làm nổi bật hình ảnh Đức Giêsu là Đấng mang lại thứ giáo huấn mới mẻ
và là Đấng dùng lời uy quyền mà xua trừ quyền lực sự dữ. Lời Đức Giêsu có là
giáo huấn mới mẻ cho tôi hàng ngày? Lời Người có là lời uy quyền xua trừ quyền
lực sự dữ đang hàng ngày, hàng giờ tìm cách chế ngự con người tôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Thiên Chúa có thẩm quyền trên muôn vật muôn loài, và trên cả
quỉ thần. Ý thức thân phận yếu đuối của con người, chúng ta cùng tôn vinh quyền
năng của Thiên Chúa, và tin tưởng dâng lời cầu xin:
1. Chúa
Giêsu giảng dạy như Đấng có uy quyền trong hội đường của người Do thái. Chúng
ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh, luôn xác tín sức mạnh
tái sinh của Lời Chúa Kitô và hăng say rao giảng cho con người thời đại hôm
nay.
2. Thế
lực ma quỉ và sự dữ luôn tác động trong đời sống xã hội hôm nay dưới nhiều hình
thức. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các các nhà lãnh đạo quốc gia luôn biết can
đảm đứng về phía sự thật và sự thiện để bảo vệ con người và gìn giữ hòa bình
thế giới.
3. Chúa
Giêsu đã dùng lời uy quyền để chữa lành người bị thần ô uế ám. Chúng ta cùng
cầu nguyện cho những người đang đau khổ tinh thần và thể xác trong
thế giới hôm nay tìm được niềm an ủi và sức mạnh chữa lành nơi Lời Chúa và
các cử hành bí tích.
4. Danh
tiếng Chúa Giêsu được đồn ra khắp vùng lân cận xứ Galilêa. Chúng ta cùng cầu
nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết tích cực tuyên xưng Đức
Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” và hăng hái giới thiệu Người cho mọi người
chung quanh.
Chủ tế: Lạy
Chúa là Cha chí thánh, nhờ Con Một Chúa là Đức Giêsu Kitô, Chúa đã giải thoát
chúng con khỏi quyền lực sự dữ và ban tặng đời sống mới. Xin nhận lời chúng con
cầu nguyện và giúp chúng con luôn sống xứng đáng với ân huệ Chúa ban. Chúng con
cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Sợi chỉ đỏ CN 4 TN.B
Năm B
CHỦ ĐỀ :
HÃY THEO ĐỨC GIÊSU,
VÌ NGÀI LÀ ĐẤNG RẤT UY QUYỀN
VÌ NGÀI LÀ ĐẤNG RẤT UY QUYỀN
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (Đnl 18,15-20) : Môsê báo trước
rằng sau này Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một Vị Ngôn Sứ trổi vượt tất cả các ngôn
sứ.
- Đáp ca (Tv 94) : Lời kêu gọi tín hữu hãy
lắng nghe tiếng Chúa.
- Tin Mừng (Mc 1,21-28) : Đức Giêsu chính là
Vị Ngôn Sứ uy quyền mà Môsê đã tiên báo.
- Bài đọc II (1 Cr 7,32-35) (chủ đề phụ) :
bàn về cuộc sống độc thân.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Có khi nào anh chị em đặt vấn đề : Thực ra
sống đạo chủ yếu là gì không ? Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết rằng
sống đạo không chỉ là gia nhập tổ chức Giáo Hội, cũng không phải là cố gắng
tuân giữ những quy luật và lễ nghi, mà sống đạo chủ yếu là đi theo Chúa. Mà
Chúa là người rất đáng được chúng ta đi theo, bởi vì Ngài là Đấng rất uy quyền.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp
chúng ta kiên trì đi theo Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Tuy mang danh là tín hữu của Chúa, nhưng chúng
ta ít khi chú ý lắng nghe tiếng Ngài.
- Chúng ta cố gắng đọc kinh, dự lễ, nhưng không
quan tâm học hỏi gương Chúa để sống theo gương Ngài.
- Nhiều khi chúng ta không tin tưởng vào uy quyền
của Chúa, mà lại cậy dựa vào những uy quyền thế tục như tiền bạc, địa vị, thậm
chí có khi mê tín dị đoan nhờ đến quyền lực của ma quỷ.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Đnl 18,15-20)
Dân do thái đã đi trong sa mạc 40 năm dài. Bây
giờ họ sắp vào Đất Hứa, Môsê thì sắp từ giã cõi đời.
Trong những lời từ biệt dân chúng, Môsê an ủi bảo
họ đừng buồn tiếc, và ông nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị
Ngôn Sứ chẳng kém gì ông mà còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ.
2. Đáp ca (Tv 94)
Thánh vịnh này triển khai ý tưởng của bài đọc I.
Vì Thiên Chúa sẽ cho nổi dậy một Ngôn Sứ trổi vượt mọi ngôn sứ, cho nên các tín
hữu hãy lắng nghe tiếng Ngài.
3. Tin Mừng (Mc 1,21-28)
Đức Giêsu chính là Vị Ngôn Sứ ưu việt mà Môsê
tiên báo. Thánh Marcô trình bày Ngài là một Đấng rất uy quyền :
- Uy quyền trong lời nói : "Dân chúng
kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy
quyền chứ không như các luật sĩ".
- Uy quyền trong hành động : Ngài chỉ cần
nói một lời thì quỷ ô uế phải xuất khỏi người bị nó ám : "Ngài dùng
uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế".
4. Bài đọc II (1 Cr 7,32-35) (chủ đề phụ)
Thánh Phaolô đề cập đến các bậc sống : bậc
độc thân thì thảnh thơi lo việc Chúa hơn bậc có gia đình.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Đi tìm
"minh chủ"
Trong lịch sử nước Trung Hoa, có những thời kỳ
hỗn loạn vô chính phủ. Những tay hảo hán nổi lên xưng hùng xưng bá, mỗi người cát
cứ một vùng. Có những bậc anh hùng hào kiệt bỏ công chịu khó tìm hiểu và cân
nhắc để nhận định ai là minh chủ để dốc sức phò tá.
Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo Hội, cũng
có một câu chuyện tương tự. Nhân vật chính là một người không tên. Chàng có sức
mạnh hơn người và chỉ muốn dùng sức mạnh đó để phục vụ cho kẻ nào mạnh nhất.
Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp nên xin đi theo hộ vệ cho
một tướng cướp. Nhưng mỗi lần sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ một
thầy phù thuỷ làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp để đi theo phù
thuỷ. Một hôm, thấy phù thuỷ đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng
lại không dám đi tiếp. Thế là chàng lực sĩ bỏ rơi phù thuỷ đến đứng bên cạnh
cây Thánh giá để chờ chủ nhân nó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi
mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh Giá. Nơi đó gần một khúc sông cạn. Một hôm,
một câu bé đến nhờ chàng cõng minh qua sông, vì không có đò ngang. Chàng lực sĩ
sẵn sàng. Nhưng mới bơi được một đoạn ngắn, chàng cảm thấy chú bé quá nặng,
liền hỏi lý do. Cậu bé đáp "Ta nâng đỡ cả trái đất trên tay Ta, làm sao mà
không nặng cho được" Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của
cây Thánh Giá. Thế là chàng lực sĩ xin theo phò tá vị Chúa Tể trái đất ấy. Chúa
dạy : muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn
sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang. Chàng lực sĩ tuân theo. Từ đó trở
đi, người ta gọi tên chàng là Chistophe, nghĩa là người đã mang Chúa Kitô trên
vai.
Nếu chúng ta muốn tìm một minh chủ để phụng sự,
chúng ta cũng hãy làm như thánh Christophe, bởi vì không ai xứng đáng hơn ngoài
Đức Giêsu Kitô để cho ta đi theo phụng sự.
Hoàng đế César Augustô của đế quốc La Mã là người
đã biến La Mã gạch ngói thành một La Mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà
cẩm thạch.
Nhưng trong triều đại của César Augustô, một biến
cố đã thay đổi cục diện của thế giới và lịch sử nhân loại, mà ông không hề biết
tới.
Ông làm sao có thể biết trẻ Giêsu chào đời trong
một tỉnh lẻ xa xôi, sẽ biến La Mã cẩm thạch của ông thành những vương cung
thánh đường vĩ đại nhất.
Ông đâu có ngờ các thần minh của ông sẽ phải lui
bước để nhường chỗ cho một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện và chân thật.
Ông cũng không ngờ trẻ Giêsu ấy lại có một sức
mạnh siêu phàm đảo lộn mọi giá trị hiện có, và thiết lập một bậc thang giá trị
hoàn toàn mới mẻ.
*
Sức mạnh siêu phàm ấy hôm nay đã bắt đầu xuất
hiện. Đức Giêsu giải thích Thánh Kinh trong hội đường khiến cho nhiều người
phải kinh ngạc, vì : "Người giảng dạy người ta như Đấng có uy
quyền chứ không như các luật sĩ" (Mc.1,22).
Có uy quyền vì Người dùng quyền mình mà giảng dạy
chứ không lệ thuộc vào thế giá của người khác. Quyền này được chứng tỏ khi
Người sửa sai các tập tục tiền nhân : "Người xưa đã dạy rằng…
Phần Ta, Ta bảo các ngươi" (Mt.5,21).
Khác với các luật sĩ, họ chỉ đọc và giải thích
kinh thánh, mà không dám thêm một ý tưởng mới. Họ gò bó con người vào lề luật
hơn là dùng luật để giải thoát con người.
Lời Người là "Giáo lý mới mẻ". Cái
mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Người là Đấng Cứu Thế. Cái mới mẻ đó làm
cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.
Lời Người là : "Lệnh truyền cho
cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo" (Mc.1,27). Chính thái
độ tuân phục của ma quỉ trước uy quyền của Đức Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã
tới.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm
và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, đồng thời nhận ra
quyền năng Chúa tỏ bày trong vũ trụ.
G. Courtois khẳng định : "Nếu chúng
ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm
trở nên "muối men" cho cả nhân loại vì "ánh sáng" của những
người sống Lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều".
Jacques Delarue viết : "Mọi phần tử
trong Giáo hội phải sống Lời Chúa và yêu mến với cùng một tình yêu của Đức
Giêsu, chính vì thế mà ngày Chúa Nhật họ đi gặp gỡ Chúa trong Lời Người và
trong Thánh Thể trước khi nghe đọc : "Hãy ra đi bình an". Hãy ra
đi, đừng ở lại. Các bạn được sai đi cho mọi tạo vật".
Sống Lời Chúa là soi mình vào tấm gương Giêsu để
tìm cho mình một phong cách đẹp nhất, vì :
"Lời Chúa là đèn soi cho con bước.
Là ánh sáng chỉ đường cho con đi" (Tv.118,105).
*
Lạy Chúa, qua Kinh thánh, Chúa vẫn giảng dạy cho
chúng con ; qua bí tích giải tội Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con ; qua
bí tích Thánh thể, Chúa vẫn sống trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết
sử dụng những phương tiện Chúa ban để nên giống Chúa hơn và làm sáng danh Chúa
nhiều hơn. Amen. (Thiên
Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 3. "Hãy để tôi yên"
Khi vừa gặp Đức Giêsu, người bị quỷ ám liền la
lớn "Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu
diệt chúng tôi ?" Nói như thế cũng có nghĩa là nói "Hãy để cho
tôi yên. Tôi tội lỗi đấy, xấu xa đấy, nhưng mặc kệ tôi, đừng quấy rầy tôi".
Đây không chỉ một lần, mà nhiều lần những người
bị quỷ ám trong Tin Mừng đều la lên như vậy. Họ biết là họ đang ở trong tình
trạng xấu đó, nhưng họ không muốn thay đổi tình trạng, vì thay đổi thì đau đớn.
Ngày nay cũng có rất nhiều người đang ở trong
tình trạng xấu nhưng không muốn thay đổi. Các nhà tâm lý cho biết rằng nhiều
người không muốn được chữa trị, vì chữa trị thì phải thay đổi, mà thay đổi thì
đau đớn.
Một bà mẹ kia vừa sinh con ra thì khám phá con
mình bị mù. Bà gọi tất cả những người nhà đến căn dặn đừng ai cho đứa bé biết
nó bị mù, cũng đừng ai bao giờ nói đến ánh sáng hay màu sắc gì cả trước mặt nó.
Đứa trẻ cứ thế lớn lên, vẫn tưởng nó cũng bình thường như mọi người khác. Thế
nhưng một hôm, một đứa trẻ hàng xóm leo hàng rào vào và gặp đứa bé mù. Do không
được căn dặn trước, nó đã nói tất cả những gì mà người mẹ không muốn nó nói.
Thế là mọi sự sụp đổ tan tành.
Câu chuyện trên phần nào minh họa cho thái độ của
chúng ta. Chúng ta không muốn nhìn nhận những khuyết tật của mình, và cũng
không muốn ai chữa trị cho mình, vì nhìn nhận thì đau khổ và chữa trị thì nhọc
nhằn.
Nhưng không thể tự lừa dối mình bằng cách trốn
tránh sự thật như thế mãi. Hãy can đảm đối diện với sự thật và cầu xin Chúa cứu
chữa. Chắc hẳn Ngài sẽ cứu được chúng ta, bởi vì Người là Đấng rất uy quyền (Viết
theo Flor Mc Carthy)
4. Bệnh tật
Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Đức Giêsu chữa
khỏi một người bệnh. Chúng ta hãy suy nghĩ đôi điều về vấn đề bệnh tật và chữa
bệnh.
Trong vấn đề này có một sự chuyển biến từ chỗ mù
mờ đến chỗ càng ngày càng sáng tỏ hơn nhờ ánh sáng mặc khải soi chiếu :
- Các dân quanh Israel xưa coi bệnh tật là hình
phạt của thần linh trừng trị một sự xâm phạm đến các Ngài. Vì thế để khỏi bệnh
luôn luôn họ kêu cầu đến thần linh. Việc chữa bệnh không phải là việc của thầy
thuốc mà là việc của các đạo sĩ.
- Dân Israel xưa cũng coi bệnh tật là hậu quả của
tội lỗi. Vì người ta phạm tội nên Chúa phạt cho mang bệnh. Muốn khỏi bệnh thì
phải xin Chúa tha tội.
- Nhưng dần dà người ta thấy có những người hoàn
toàn vô tội lại đạo đức mà phải bệnh tật. Cho nên người ta thấy được những ý
nghĩa khác của bệnh tật : đó là việc Chúa thử thách lòng trung tín của
loài người, hay đó còn là dịp cho người ta chịu khổ mà đền tội cho kẻ khác.
Truyện ông Gióp là một bằng chứng rõ ràng nhất về những tư tưởng này.
- Đến thời Đức Giêsu, Ngài mặc khải thêm một ý
nghĩa nữa cho việc chữa bệnh. Trong khi đi rao giảng ơn cứu độ, Đức Giêsu đã
chữa lành rất nhiều bệnh tật, và Ngài coi việc chữa bệnh là một dấu chỉ rằng ơn
cứu rỗi đã đến. Bởi lẽ ơn cứu rỗi là ơn giải phóng người ta khỏi mọi sự dữ như
tội lỗi, nô lệ, đau khổ, tật bệnh... Ơn cứu rỗi muốn giải phóng con người khỏi
tất cả những sự dữ đó. Nhưng trong số những sự dữ đó, tật bệnh là cái dễ thấy
nhất và việc chữa bệnh là một bằng chứng rõ ràng nhất, cho nên Đức Giêsu đã
chữa bệnh để làm dấu chỉ cho thấy ơn cứu rỗi đã đến.
Như vậy, đối với Đức Giêsu, chữa bệnh không phải
là một điều dị đoan, chữa bệnh cũng không phải là mục đích duy nhất và tối hậu
của hoạt động cứu rỗi. Chữa bệnh chỉ là một dấu chỉ, là một tiếng kêu mời người
ta tiến đến đức tin. Chính vì thế mà mặc dù Đức Giêsu đã chữa bệnh rất nhiều
nhưng không phải là chữa tất cả các người bệnh thời đó. Ngài chỉ chữa bệnh để
làm cho người ta tin hơn và nhờ tin mà được cứu rỗi. Ngày nay cũng thế, có
nhiều phép lạ chữa bệnh xảy ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở nơi này nơi nọ. Nhưng đâu
phải tất cả mọi người tới Lộ Đức, Fatima đều được chữa khỏi. Một số phép lạ
thôi cũng đủ để cho mọi người tin tưởng hơn.
Có những kẻ rất thờ ơ với việc đạo, chỉ khi gặp
bệnh tật, khốn đốn mới biết cầu nguyện nhưng lời cầu nguyện cũng chỉ là xin cho
tai qua nạn khỏi. Rồi khi tai đã qua nạn đã khỏi thì lại trở về với nếp sống
nguội lạnh.
Có những người khác gặp bệnh tật tai ương đã hết
sức sốt sắng cầu nguyện xin Chúa giúp. Nhưng cầu nguyện nhiều mà chưa được ơn
thì đâm ra ngã lòng, mất đức tin.
Đó là những người có một đức tin còn ở một trình
độ hết sức thấp kém : tin vì một quyền lợi vật chất chứ không phải tin vì
yêu. Tin để được ơn chứ không phải tin mà phó thác cả cuộc đời cho Chúa dù khi
vui dù lúc buồn, dù khi giàu hay khi nghèo, dù khi mạnh hay khi đau yếu.
Đức tin trưởng thành phải là Đức tin ở trình độ
của ông Gióp. Gióp đã thốt lên trong cơn khốn khổ cùng cực : "Chúng
ta biết nhận điều lành nơi Thiên Chúa, sao lại không biết nhận sự khổ sở Chúa
gởi đến ?"
Chúng ta hãy cầu nguyện để tất cả mọi sự dù là
sướng dù là khổ đều làm cho đức tin của chúng ta càng vững mạnh hơn. Bởi vì ơn
cứu rỗi chính là cái đức tin vững mạnh ấy, đúng như lời Chúa đã nói "Ai
tin thì sẽ được rỗi" vậy.
5. Dị đoan
Theo nghĩa chữ, "đoan" là đầu mối,
"dị" là kỳ lạ. Tin "dị đoan" là tin vào những việc mà liên
hệ giữa chúng với nhau kỳ lạ, không hợp lý ; hay nói cách khác, không có
liên hệ nhân quả với nhau rõ ràng. Thí dụ chữa bệnh không bằng y khoa mà bằng
bùa ngãi, thần chú ; tìm hiểu sự việc không bằng trí óc, phán đoán mà bằng
bói toán v.v.
Đạo công giáo bài bác những chuyện dị đoan vì dị
đoan vừa ngược với lý trí vừa nghịch với đức tin. Là tín hữu của Chúa, một mặt
chúng ta phải biết sử dụng những khả năng Chúa ban để giải quyết những việc khó
khăn xảy đến trong đời mình, và mắt khác hãy biết phó thác cuộc đời cho Chúa
dẫn dắt. Đừng vì yếu đức tin mà chạy theo những việc mê tín dị đoan khi gặp
phải chuyện khó khăn.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, quỉ dữ vẫn
đang hoành hành trên trần gian, chúng ta rất cần được Đức Giêsu cứu độ giải
thoát khỏi quyền lực của quỉ dữ. Chúng ta hãy sốt sắng kêu xin Người :
1. Quỉ dữ luôn quyết tâm phá hoại công trình Tin mừng hóa của Hội
thánh / Xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn vững tin và can đảm
thi hành sứ vụ Chúa đã trao phó.
2. Quỉ dữ luôn tìm cách lôi cuốn những người có quyền lực chống lại
công lý và hòa bình / Xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới biết
quan tâm đến công ích và xây dựng hạnh phúc thật cho mọi người.
3. Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách những người đang gặp đau khổ hoạn
nạn / để họ ngã lòng trong bất mãn và tuyệt vọng / Xin Chúa cho họ
biết chạy đến cầu cứu Chúa để được giải thoát.
4. Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách mỗi người chúng ta ham mê vật chất,
tiền bạc, danh vọng / để cắt đứt tình hiệp thông với Chúa và với mọi
người / Xin Chúa giúp mọi người trong họ đạo chúng ta luôn trung thành thờ
phượng một mình Chúa và sẵn sàng phục vụ anh chị em chúng ta.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa đã đến
trần gian để loại trừ quyền lực của quỉ dữ, xin Chúa đừng để chúng con sa chước
cám dỗ, nhưng cưu chúng con cho khỏi quỉ dữ. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị
muôn đời. Amen.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Trong lời Kinh
Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa uy quyền giải thoát chúng ta
khỏi quyền lực của ma quỷ và các thế lực gian tà.
- Sau kinh Lạy Cha : "Lạy Cha xin
cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin chữa chúng con khỏi những bệnh tật
thể xác và tâm hồn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được
bình an…"
- Trước lúc rước lễ : Mình Thánh Chúa
là thần dược chữa trị những bệnh tật xác hồn. Chúng ta hãy dọn lòng cho xứng
đáng để rước lấy thần dược ấy. "Đây Chiên Thiên Chúa….. Lạy Chúa con chẳng
đáng… nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành sạch"
VII. GIẢI TÁN
Tuần này chúng ta hãy quyết tâm luôn đi theo
Chúa, làm theo ý Chúa trong tất cả mọi biến cố xảy đến.
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa
Nhật IV Thường Niên (B)
Chúa Nhật, 1 Tháng 2, 2015
Chúa Giêsu giảng dạy và chữa lành người ta
Ấn tượng đầu tiên về Tin Mừng của Chúa Giêsu
trên dân chúng
Mc 1:21-28
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban Thần Khí Chúa đến
giúp chúng con đọc Kinh Thánh cùng với tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ
trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh
Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa
trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá
tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự
sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để
chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh,
trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất
là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng
con, để cũng giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức
mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang
sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa
bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã
mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng
con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa để hướng dẫn bài đọc:
Bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ tư thường niên
tuần này nói về nỗi sửng sốt của những người chứng kiến lối giảng dạy của Chúa
Giêsu (Mc 1:21-22), sau đó lại làm phép lạ đầu tiên trừ ma quỷ (Mc 1:23-26) và
cuối cùng, một lần nữa nói về sự kinh ngạc của những người nghe lời giảng dạy
của Chúa Giêsu về quyền năng đuổi ma quỷ của Người (Mc 1:27-28). Vào
những năm thuộc thập niên 70, thời gian mà Máccô đang viết sách Tin Mừng, Cộng
đoàn ở Ý đang cần một số chỉ dẫn cách làm thế nào để công bố Tin Mừng của Thiên
Chúa cho những người bị sống dưới sự áp bức của việc sợ hãi thần linh ma quỷ
bởi vì sự áp đặt độc đoán của các lề luật tôn giáo bởi Đế Chế La
Mã. Trong việc mô tả hoạt động của Chúa Giêsu, Máccô đã cho thấy làm
cách nào các cộng đoàn đã công bố Tin Mừng. Tác giả Phúc Âm đã dạy
qua cách vấn đáp bằng cách nói về các sự kiện và biến cố trong cuộc đời của
Chúa Giêsu.
Đoạn Tin Mừng mà chúng ta suy gẫm cho thấy dấu
ấn Tin Mừng của Chúa Giêsu đối với dân chúng trong thời của
Người. Khi đọc, chúng ta hãy cố gắng chú ý đến những điều sau
đây: Những hoạt động nào của Đức Giêsu đã gây kinh ngạc cho người
ta nhất?
b) Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mc 1:21-22: Trong sự kinh ngạc
về giáo lý của Chúa Giêsu, người ta bắt đầu phát triển một nhận thức quan
trọng.
Mc 1:23-24: Phản ứng của người
bị quỷ ám trước sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Hội Đường.
Mc 1:25-26: Đức Giêsu chinh phục
và trục xuất thần ô uế.
Mc 1:27-28: Một lần nữa, ấn
tượng về Tin Mừng của Chúa Giêsu trên dân chúng.
c) Phúc Âm:
21 Đến thành Caphárnaum, vào ngày Sabbát, Chúa Giêsu vào
giảng dạy trong hội đường. 22 Người ta kinh ngạc về
giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chớ không
như các luật sĩ. 23 Đang lúc đó, trong hội đường có
một người bị thần ô uế, nên hét lên rằng: 24 “Hỡi
ông Giêsu Nagiarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đền để
tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là: “Đấng
Thánh của Thiên Chúa.” 25 Chúa Giêsu quát bảo nó
rằng: “Hãy im đi, và ra khỏi người này.” 26 Thần
ô uế liền dằn vật người ấy, thét lên một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người
ấy. 27 Mọi người kinh ngạc hỏi nhau
rằng: “Cái chi vậy? Đấy là một giáo lý mới
ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế và chúng vâng
lệnh Người.” 28 Danh tiếng Người liền đồn ra khắp
mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời
sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý:
Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Phần nào của đoạn Tin Mừng mà bạn hài lòng
nhất?
b) Về phía dân chúng, điều gì đã tạo sự kinh ngạc nhất
cho họ vào thời của Chúa Giêsu?
c) Điều gì đã khiến người ta thấy sự khác biệt giữa
Chúa Giêsu và các luật sĩ thời bấy giờ?
d) Thần ô uế phải thần phục Đức Giêsu. Điều
này đã tạo nên cảm tưởng gì với người ta?
e) Thực tại của cộng đoàn chúng ta có tạo ra được sự
ngạc nhiên trong thiên hạ không? Bằng cách nào?
5. Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu hơn vào trong
chủ đề
a) Bối cảnh thời ấy và ngày nay:
Chúa nhật tuần này chúng ta suy niệm về câu
chuyện trong Tin Mừng Máccô về phép lạ đầu tiên của Chúa
Giêsu. Không phải tất cả các Thánh sử nói về các sự kiện của đời
sống Chúa Giêsu trong cùng một cách. Mỗi người trong số họ đã lưu
tâm đến các cộng đoàn mà họ đang viết đến, mỗi tác giả đã nhấn mạnh một số điểm
và các khía cạnh của đời sống, các hoạt động và giáo huấn của Chúa Giêsu để có
thể giúp thêm cho độc giả của họ. Độc giả của Mátthêu thì sống ở
vùng phía bắc của Paléstine và Syria; độc giả của Luca thì sống ở Hy-Lạp; độc
giả của Gioan thì ở Tiểu Á và của Máccô có lẽ tại Ý. Một ví dụ cụ
thể của sự đa dạng này là cách của mỗi một sách Tin Mừng nói về phép lạ đầu
tiên của Chúa Giêsu. Trong sách Tin Mừng theo Gioan, phép lạ đầu
tiên là tại tiệc cưới Cana vùng Galilêa, nơi Chúa Giêsu biến nước thành rượu
(Ga 2:1-11). Đối với Tin Mừng Luca, phép lạ đầu tiên là Chúa Giêsu
tự giải thoát mình yên lành khỏi bị giết chết bởi dân thành Nagiarét (Lc
4:29-30). Đối với Mátthêu, đó là việc chữa lành cho một số lớn người
bệnh tật và bị quỷ ám (Mt 4:23), hay một cách chính xác hơn là việc chữa lành
một người bị phong hủi (Mt 8:1-4). Đối với Máccô, phép lạ đầu tiên
là việc chữa lành người bị quỷ ám (Mc 1:23-26). Như vậy, mỗi Thánh
sử, kể lại các sự kiện theo cách riêng của mình, nhấn mạnh đến những gì theo họ
là những điểm quan trọng nhất trong các hoạt động và giáo huấn của Đức
Giêsu. Mỗi người trong các ông có mối quan tâm riêng mà các ông đã
cố gắng dàn trải đến độc giả của mình và đến các cộng đoàn: ngày nay
chúng ta đang sống trong một nơi và thời đại hoàn toàn khác hẳn so với thời của
Chúa Giêsu và các Thánh sử. Ngày nay mối quan tâm lớn nhất đối
với chúng ta trong mối quan hệ sống theo Tin Mừng là
gì? Nó có đáng cho mỗi người chúng ta nên tự hỏi chính mình
rằng: Mối quan tâm lớn nhất đối với tôi là
gì?
b) Lời bình giải về đoạn Tin Mừng:
Mc 1:21-22: Kinh ngạc trước lời
giáo huấn của Chúa Giêsu, người ta bắt đầu phát triển một nhận thức quan trọng.
Việc đầu tiên mà Chúa Giêsu làm vào lúc khởi
đầu hoạt động sứ vụ của mình là kêu gọi bốn người để cùng Người thành lập một
cộng đoàn (Mc 1:16-20). Chuyện đầu tiên mà người ta trông thấy ở
Chúa Giêsu là phương cách khác thường khi Người giảng dạy và nói về Nước Thiên
Chúa. Nó không hẳn vì nội dung giảng dạy, mà là cách giảng dạy của
Người thật là nổi bật. Hiệu quả của cách giảng huấn khác lạ này là
tri thức quan trọng đã được hình thành trong lòng dân chúng trong mối liên hệ
với các người có thẩm quyền về tôn giáo lúc bấy giờ. Người ta đã
thấy, so sánh và cho biết: Chúa đã giảng dạy như Đấng có uy
quyền chứ không như các Luật sĩ. Các Luật sĩ giảng dạy người ta
bằng cách trích dẫn từ các nhà thông thái, các người có chức
quyền. Chúa Giêsu đã không trích dẫn bất cứ một lời của nhà thông
luật nào mà nói từ kinh nghiệm của Người với Thiên Chúa và từ cuộc
sống. Uy quyền của Người đến từ chính bản thân Người. Lời
của Chúa bắt nguồn từ trái tim và trong sự chứng tá của đời sống Người.
Mc 1:23-26: Chúa Giêsu chống trả
lại quyền năng của ma quỷ.
Trong Tin Mừng của Máccô, phép lạ đầu tiên là
trục xuất ma quỷ. Quyền năng của ma quỷ đã chế ngự người ta và làm
họ xa lánh với chính bản thân họ. Người ta đã bị chà đạp bởi sự sợ
hãi ma quỷ và bởi hoạt động của các thần ô uế. Ngày nay cũng thế,
nỗi sợ hãi ma quỷ thì to lớn và đang trên đà tăng trưởng. Mà không
chỉ có điều này. Giống như trong thời kỳ Đế Chế La Mã, nhiều người
sống xa lạ với chính mình bởi vì sức mạnh của phương tiện truyền thông, quảng
cáo và thương mại. Người ta làm nô lệ cho chủ nghĩa hưởng thụ, bị áp
lực bởi các món nợ phải thanh toán vào một ngày cố định và mối đe dọa của các
chủ nợ. Nhiều người nghĩ rằng họ không xứng đáng được tôn trọng nếu
họ không mua xài những gì mà các món quảng cáo trên truyền hình nói với
họ. Trong Tin Mừng của Máccô, phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu là việc
khống chế ma quỷ. Chúa Giêsu phục hồi người ta về với chính
họ. Người khôi phục lại lương tâm và sự tự do của họ. Có
thể nào đức tin của chúng ta trong Chúa Giêsu sẽ thành công trong việc chiến
đấu lại với sự dữ đã làm cho chúng ta xa lánh bản thân mình và lìa xa Thiên
Chúa không?
Mc 1:27-28: Phản ứng của dân
chúng: dấu ấn đầu tiên.
Hai phép lạ đầu tiên của Tin Mừng Thiên Chúa
mà người ta nhìn thấy trong Chúa Giêsu là: cách thức giảng dạy khác
lạ của Người về những gì thuộc về Thiên Chúa và quyền năng của Người trên các
thần ô uế. Đức Giêsu đã mở ra một phương cách thanh tẩy mới cho
người ta. Trong những ngày ấy, bất cứ ai bị xem là ô uế thì
không thể đến trước Thiên Chúa để cầu nguyện hoặc nhận lãnh phép lành của Thiên
Chúa như đã hứa với Abraham. Người ấy phải thanh tẩy bản thân mình
trước. Nói về việc thanh tẩy của người ta, có nhiều luật lệ và nghi
thức thanh tẩy đã tạo ra khó khăn cho đời sống dân chúng và nhiều người đã chịu
thiệt thòi vì bị xem là không tinh khiết. Ví dụ, phải rửa tay cẩn
thận từ khuỷu tay trở xuống, rảy nước vào thức ăn, rửa sạch các ly tách, chai
lọ và các đồ kim loại, v.v. (xem Mc 7:1-5). Giờ đây được thanh tẩy
bởi đức tin trong Chúa Giêsu, người bị coi là ô uế một lần nữa có thể tự phủ
phục trước Thiên Chúa và không còn cần phải tuân theo các tập tục thanh tẩy
nữa. Tin Mừng của Vương Quốc Thiên Chúa được công bố bởi Chúa Giêsu
phải được coi như là một việc làm nhẹ gánh cho người ta và là một nguyên nhân
cho nỗi vui mừng và thanh bình lớn lao.
Lời chú giải thêm: việc trừ quỷ và nỗi sợ hãi
của người ta
* Lời giải thích kỳ diệu về đời
sống của sự dữ
Trong thời Chúa Giêsu, nhiều người nói về
Satan và việc trừ quỷ. Sự sợ hãi quá độ và một số người đã lợi dụng
nỗi sợ hãi này đối với người khác. Sức mạnh của sự dữ có nhiều tên
gọi: quỷ, ma quỷ, quỷ Bê-en-zê-bun, quỷ vương, Satan, Mãng Xà, ma
vương, quỷ lực, quyền lực, thần thiêng, v.v. (xem Mc 3:22-23; Mt 4:1: Kh 12:9;
Rm 8:38; Êp 1:21).
Ngày nay, khi người ta không thể giải thích
được một hiện tượng, một vấn đề hoặc sự đau đớn, đôi khi họ cầu cạnh đến các
lời giải thích và phương cách chữa trị truyền thống hoặc tục lệ cổ xưa và họ
nói rằng: Đó là bị tà ma, bị Trời phạt, bị quỷ ám. Và có
người tìm cách khắc phục những ma quỷ này bằng phép thuật hay cầu vong ồn
ào. Người khác thì tìm một chuyên gia trừ quỷ để trục xuất thần linh
ô uế. Còn một số khác thì vẫn còn được khuyến khích bởi nền văn hóa mới và
tàn bạo ngày nay, chống trả lại sức mạnh của sự dữ qua những phương cách
khác. Họ tìm hiểu nguyên do của sự dữ. Họ tìm thầy thuốc,
và dược thảo, họ giúp đỡ lẫn nhau, kêu gọi hội họp, chống trả lại sự ghét bỏ
của người khác, tổ chức câu lạc bộ các bà mẹ, nghiệp đoàn, đảng phái và nhiều
hình thức hiệp hội khác để xua đuổi sự dữ và cải thiện đời sống của người dân.
Vào thời Chúa Giêsu, cách giải thích và giải
quyết tệ nạn trong đời sống thì tương tự như lời giải thích được đưa ra bởi
truyền thống xa xưa và văn hóa của chúng ta. Trong những ngày ấy, như
chúng ta đọc trong Kinh Thánh, chữ ma quỷ hay Satan thường để chỉ về sức mạnh
của sự dữ đã dẫn đưa người ta đi xa khỏi đường ngay nẻo chánh. Ví
dụ, trong bốn mươi đêm ngày ở hoang địa, Chúa Giêsu đã bị Satan cám dỗ, nó đã
cố gắng khiến cho Người sa ngã (Mc 1:12; Lc 4:1-13). Trong những dịp
khác, cùng một chữ đã chỉ về một người bị kẻ khác dẫn dắt đi lầm
đường. Vì thế, khi Phêrô đã tìm cách chuyển hướng đường đi của Chúa
Giêsu, ông đã làSatan đối với Chúa Giêsu: “Hỡi Satan,
hãy lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên
Chúa, mà là của loài người” (Mc 8:33). Vào những lúc khác, những lời
tương tự này đã được dùng để chỉ về quyền lực chính trị của Đế quốc La Mã đã
đàn áp và khai thác người ta. Lấy ví dụ, trong sách Khải Huyền, Đế
quốc La mã được gọi là “con đại mãng xà, con rắn thời nguyên thủy, mà người ta
gọi là ma quỷ hay Satan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ” (Kh
12:9). Trong Tin Mừng Máccô, cũng một Đế quốc La Mã này đã được gán
cho tên là Quân đoàn, một tên dành cho ma quỷ là những kẻ đối xử
tàn bạo với dân chúng (Mc 5:9). Vào những lúc khác, người ta đã dùng
những chữ ma quỷ hoặc thần linh để chỉ về những sự đau đớn nhức
nhối. Do đó, người ta đã nói đến quỷ câm (Mc 9:17), về thần điếc (Mc
9:25), thần ô uế (Mc 1:23; 3:11), v.v. Và có những người trừ quỷ đã
xua đuổi những ma quỷ này (xem Mc 9:38; Mt 12:27).
Tất cả những điều này cho thấy nỗi sợ hãi lớn
lao người ta đã có về quyền năng của sự dữ mà họ gọi là ma quỷ hay
Satan. Khi Máccô đang viết sách Tin Mừng của ông, nỗi lo sợ này đang
trên đà tăng cao. Ngoài ra, một số tôn giáo Đông Phương đang truyền
bá sự sùng bái thần linh, đấng tạo hóa hay là các á thần. Những giáo
phái này dạy rằng một số cử chỉ của chúng ta có thể làm các thần linh bực dọc,
và để trả thù cho hả giận họ có thể cản lối chúng ta đến với Thiên Chúa, và do
đó tước đoạt khỏi chúng ta các lợi ích của Thiên Chúa. Vì vậy, qua
các phù phép ma thuật, cúng tế ồn ào và các nghi lễ phức tạp, người ta đã cố
gắng cầu khẩn và xoa dịu những thần linh hay ma quỷ, để mà chúng sẽ không làm
hại đến đời sống con người. Đây là hình thức mà một số các tôn giáo
đã làm để bảo vệ họ khỏi ảnh hưởng của thần dữ. Và cách sống này
trong mối quan hệ với Thiên Chúa, thay vì giải phóng người ta, đã tạo trong họ
nỗi sợ hãi và lo âu.
* Niềm tin vào sự phục sinh và vinh
quang chiến thắng nỗi sợ hãi
Giờ đây, một trong những mục đích Tin Mừng của
Chúa Giêsu là cứu giúp người ta khỏi nỗi sợ hãi này. Việc Vương Quốc
Thiên Chúa đang đến có nghĩa là một quyền năng cao cả hơn đang
đến. Tin Mừng Máccô nói rằng: “Nhưng không ai vào nhà một
người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi
mới cướp sạch nhà nó.” (Mc 3:27). Người mạnh là hình ảnh của sức
mạnh của sự dữ đã khiến người ta bị xích xiềng vào sợ hãi. Chúa
Giêsu là Đấng mạnh mẽ hơn, Người đến để cầm giữ Satan lại, sức mạnh
của ma quỷ, và dành lấy từ nó nhân loại bị xiềng xích vì sợ hãi
này. “Nếu Ta dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều
Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông!” (Lc 11:20) Đây là những gì mà
các sách Tân Ước khẳng định, đặc biệt là Tin Mừng của Máccô, sự chế ngự của
Chúa Giêsu trên sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ, của Satan, của tội lỗi và cõi chết.
Như chúng ta đã thấy, trong bài đọc Tin Mừng
Máccô Chúa Nhật tuần này, phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu là việc xua đuổi ma
quỷ: “Hãy im đi và ra khỏi người này!” (Mc 1:25). Ấn
tượng đầu tiên Đức Giêsu tạo cho người ta là khiến cho ma quỷ bị trục xuất: “Người
dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế và chúng vâng lệnh Người.”
(Mc 1:27). Một trong những lý do chính cho các cuộc tranh luận giữa
Chúa Giêsu và các Luật sĩ là trừ quỷ. Họ đã vu cáo Người nói rằng: “Ông
ta bị quỷ vương Bê-en-zê-bun ám… Ông ấy dựa vào thế quỷ vương mà trừ
quỷ!” (Mk 3:22). Quyền năng đầu tiên được ban cho các tông đồ khi
các ông được sai đi làm sứ vụ là quyền trừ quỷ: “… ban cho các ông
quyền trừ các thần ô uế” (Mc 6:7). Phép lạ đầu tiên đi chung với việc rao
giảng sự phục sinh là việc trừ quỷ: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo
những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ” (Mc
16:17).
Việc trừ quỷ là điều mà tạo sự ngạc nhiên cho
người ta nhất (Mc 1:27). Nó đi thẳng vào tâm điểm của Tin Mừng Nước
Trời. Bằng phương cách ấy, Chúa Giêsu đã khôi phục người ta với
chính bản thân họ. Người đã trả họ lại với trí khôn tỉnh táo và
lương tâm (Mc 5:15). Từ đầu chí cuối, gần như trong cùng một câu,
Tin Mừng Máccô không ngừng lặp lại cùng một thông điệp: “Chúa Giêsu
đuổi trừ ma quỷ!” (Mc 1:26, 34, 39; 3:11-22, 22, 30; 5:1-20; 6:7,
13; 7:25-29; 9:25-27, 38; 16:17). Nó có vẻ như là một
điệp khúc bất tận. Tuy nhiên, ngày nay thay vì sử dụng những lời
giống như thế trong mọi lúc, chúng ta dùng những chữ khác để
gửi đi thông điệptương tự và chúng ta sẽ nói: “Đức Giêsu
đã chiến thắng, trói giữ, thống trị, phá hủy, đánh bại, loại trừ, tiêu diệt,
hủy diệt và loại bỏ quyền năng của ma quỷ, Satan mà đã làm sợ hãi biết bao
nhiêu người!” Những gì Máccô muốn nói với chúng ta là: “Người
Kitô hữu không được phép sợ hãi Satan!” Nhờ vào sự phục sinh của
Chúa Kitô và nhờ vào hành động giải thoát của Người hiện diện trong chúng ta,
sự quyết tâm hành động và hy vọng đang ở trong tầm mắt! Chúng ta
phải đi theo Con Đường của Chúa Giêsu với cảm
nghiệm của sự chiến thắng đánh bại lại quyền năng sự
dữ!
6. Cầu nguyện với Thánh Vịnh 46 (45)
Thiên Chúa, được mặc khải trong Chúa Giêsu, là
sức mạnh của chúng con!
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu, là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
Nên dầu cho địa cầu chuyển động,
núi đồi có sập xuống biển sâu,
dầu cho sóng biển ầm ầm sôi sục,
núi đồi có lảo đảo khi thủy triều dâng,
ta cũng chẳng sợ gì.
Một dòng sông chảy ra bao nhánh
đem niềm vui cho thành của Chúa Trời:
đây chính là đền thánh Đấng Tối Cao.
Thiên Chúa ngự giữa thành, thành không lay chuyển;
ngay từ rạng đông, Thiên Chúa thương trợ giúp.
Muôn dân náo động, muôn nước chuyển lay,
tiếng Người vang lên là trái đất rã rời.
Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta.
Đến mà xem công trình của CHÚA,
Đấng gieo kinh hãi trên mặt địa cầu.
Người chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi thế,
cung tên bẻ gẫy, gươm giáo đập tan,
còn khiên thuẫn thì quăng vào lửa.
‘Dừng tay lại: Hãy biết Ta đây là Thiên Chúa!
Ta thống trị muôn dân, thống trị địa cầu.’
Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta.
Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
Nên dầu cho địa cầu chuyển động,
núi đồi có sập xuống biển sâu,
dầu cho sóng biển ầm ầm sôi sục,
núi đồi có lảo đảo khi thủy triều dâng,
ta cũng chẳng sợ gì.
Một dòng sông chảy ra bao nhánh
đem niềm vui cho thành của Chúa Trời:
đây chính là đền thánh Đấng Tối Cao.
Thiên Chúa ngự giữa thành, thành không lay chuyển;
ngay từ rạng đông, Thiên Chúa thương trợ giúp.
Muôn dân náo động, muôn nước chuyển lay,
tiếng Người vang lên là trái đất rã rời.
Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta.
Đến mà xem công trình của CHÚA,
Đấng gieo kinh hãi trên mặt địa cầu.
Người chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi thế,
cung tên bẻ gẫy, gươm giáo đập tan,
còn khiên thuẫn thì quăng vào lửa.
‘Dừng tay lại: Hãy biết Ta đây là Thiên Chúa!
Ta thống trị muôn dân, thống trị địa cầu.’
Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về
Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện
xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức
mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin cho
chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ
lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng
với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn
đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét