31/01/2015
Thứ Bảy
sau Chúa Nhật 3 Quanh Năm
Thánh Gioan Boscô, linh mục. Lễ nhớ.
* Chào đời năm 1815 tại Cáttennôvô, giáo phận
Tôrinô, Gioan đã trải qua thời thơ ấu trong hoàn cảnh khó khăn, vì thế, khi làm
linh mục, người dấn thân lo việc giáo dục thanh thiếu niên. Người lập dòng các
tu sĩ Salêdiêng và dòng Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu để huấn luyện thanh thiếu
niên về nghề nghiệp và đời sống đạo. Người qua đời năm 1888.
Bài Ðọc I: (năm I) Dt 11, 1-2. 8-19
"Ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến
trúc sư và là Ðấng Sáng Lập".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong
đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng
chứng tốt. Nhờ đức tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ
được lãnh làm gia nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin,
ông đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều
trại, cũng như Isaac, và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì
chưng, ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng
sáng lập. Nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà
đã già, bởi vì bà tin rằng Ðấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một
người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao
trên trời và như cát bãi biển.
Chính trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận
lãnh điều đã hứa, nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận
rằng mình là lữ khách trên mặt đất. Những ai nói những lời như thế, chứng tỏ rằng
mình đang đi tìm quê hương. Giá như họ còn nhớ đến quê hương dưới đất mà họ đã
lìa bỏ, chắc họ có đủ thời giờ trở về. Nhưng hiện giờ họ ước mong một quê hương
hoàn hảo hơn, tức là quê trời. Vì thế, Thiên Chúa không ngại để họ gọi mình là
Thiên Chúa của họ, vì Người đã dọn sẵn cho họ một thành trì. Nhờ đức tin, khi bị
thử lòng, Abraham đã dâng Isaac. Ông hiến dâng con một mình, ông là người nhận
lãnh lời hứa, là người đã được phán bảo lời này: "Chính nơi Isaac mà có một
dòng dõi mang tên ngươi". Vì ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền làm cho kẻ
chết sống lại, do đó, ông đã đón nhận con ông như một hình ảnh.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Lc 1, 69-70. 71-72. 73-75
Ðáp: Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng
thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68a).
Xướng: 1) Chúa đã gầy dựng cho chúng tôi một uy quyền cứu độ,
trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Ngài đã phán qua miệng các thánh nhân từ
ngàn xưa, là tiên tri của Chúa. - Ðáp.
2) Ðể giải phóng chúng tôi khỏi quân thù, và khỏi tay những người
ghen ghét chúng tôi. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng tôi, và nhớ lại lời
thánh ước của Ngài. - Ðáp.
3) Lời minh ước mà Ngài tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng tôi,
rằng Ngài cho chúng tôi được khỏi sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù. Phục
vụ Ngài trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Ngài, trọn đời sống
chúng tôi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn
lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4, 35-41
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì
Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác
theo Người. Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp
đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và
nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?"
Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng
đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông:
"Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông
kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều
vâng lệnh Người?"
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Sóng gió cuộc đời
Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được
trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển
từ nơi này sang nơi nọ, cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí
tượng thuần tuý; nhưng các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu
và các môn đệ rời bỏ miền đất Israel để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý
nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma
quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ.
Tuy nhiên, như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu
đang ở đàng lái, gối đầu mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của
Chúa Giêsu trên Thập giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại,
trong khi đó các quyền lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu
được người mà họ coi như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh
của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ
và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.
Ðời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một
cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như
Ngài vắng mặt trong những thử thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là
chúng ta biết chạy đến cầu nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn
đưa con thuyền cuộc đời chúng ta về tới bến bờ bình an.
Ước gì chúng ta luôn có được xác tín của thánh Phaolô Tông đồ:
Thiên Chúa không để chúng ta bị thử thách quá sức chịu đựng, Ngài sẽ ra tay cứu
giúp mỗi khi chúng ta kêu cầu đến Ngài.
Veritas Asia
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy
Tuần 3 TN, Năm lẻ
Bài đọc: Heb
11:1-2, 8-19; Mk 4:35-41.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúng
ta phải tin những gì Thiên Chúa nói.
Tại sao chúng ta tin một điều là thật? Thông thường có 3 lý do:
(1) vì đã thấy; (2) vì cảm thấy hậu quả dù không thấy; và (3), vì thế giá của
người khác nói.
Các Bài Đọc hôm nay đều nhằm mục đích thuyết phục con người tin
vào những gì Thiên Chúa nói. Trong Bài Đọc I, tác-giả Thư Do Thái đưa ra một lý
do đơn giản tại sao các tiền nhân tin: vì đó là lời của Thiên Chúa hứa. Ngài
không bao giờ quên thực hiện những gì Ngài đã hứa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu
trách các Tông-đồ yếu lòng tin khi các ông đã có chính Ngài, Người có quyền
trên sóng gió, cùng đồng hành.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Con người phải sống niềm tin của mình.
1.1/ Định nghĩa của đức tin: Theo tác giả: “Đức tin
là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.”
Định nghĩa này nhìn từ góc cạnh của những người đã có đức tin. Thực vậy, để đạt
được điều con người hy vọng là cuộc sống đời đời, con người phải tin nơi Đức
Kitô (Jn 6:39-40) và những gì Ngài mặc khải về Thiên Chúa. Tuy con người chưa
thấy Thiên Chúa và chưa đạt tới cuộc sống đời đời, nhưng niềm tin của con người
nơi Đức Kitô là một bằng chứng cho những thực tại này. Ví dụ, khi nhìn thấy đức
tin của các nhân chứng tử đạo, con người biết lý do của những cái chết anh hùng
này.
1.2/ Gương đức tin của các tiền nhân: Họ là
những người tuyệt đối tin tưởng vào lời Thiên Chúa hứa dù chưa nhìn thấy hiệu
quả, hay điều Thiên Chúa hứa không thể xảy ra theo cách thức của lòai người.
Tác-giả dẫn chứng 2 ví dụ:
(1) Tổ-phụ Abraham, cha của những người tin: “Nhờ đức tin, ông
Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận
làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu.” Để có thể rời bỏ
quê cha đất tổ đến sống nơi đất lạ quê người, con người phải được thúc đẩy bởi
một lý do chính đáng; vì cuộc sống bấp bênh và nạn kỳ thị chủng tộc mà họ sẽ phải
đương đầu với. Lý do Abraham rời bỏ Urs đơn giản là vì lời Thiên Chúa hứa, và
ông đặt trọn niềm tin nơi Ngài.
Thiên Chúa không gọi Abraham từ Urs tới một nơi định cư cố định,
nhưng lang thang khắp nơi cho tới khi Thiên Chúa cho ông một chỗ định cư vĩnh
viễn không thuộc về thế giới này: “Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa
như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông Isaac và ông Jacob
là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, vì ông trông đợi một thành có nền
móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng.”
(2) Sarah, vợ của Abraham: cũng chứng tỏ đức tin của Bà nơi
Thiên Chúa. Cả hai ông bà đều đã cao niên (90 tuổi) mà vẫn chưa có con nối dõi
tông đường. Cái tuổi này không thể có con theo cách thức con người, nhưng Bà vẫn
tin nơi Thiên Chúa, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Ngài có thể
làm cho “một người kể như chết rồi mà một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển,
không tài nào đếm được, được sinh ra.”
1.3/ Đức tin được tinh luyện trong thử thách đau thương:
(1) Vững tin dù đến chết vẫn chưa thấy kết quả: Lời Thiên Chúa hứa
sẽ ban đất làm gia sản và giòng dõi vô số đã chưa được thực hiện khi Abraham
còn sống ở đời này; nhưng ông vẫn một dạ vững tin nơi Thiên Chúa. Lý do, ông
coi mình “là khách ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất, và mong ước một quê
hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ
thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị
một thành cho các ngài.”
(2) Vững mạnh trong thử thách: Ngay cả khi đã được một người con
nối dõi tông đường là Isaac, ông Abraham vẫn sẵn sàng sát tế Isaac theo những
gì Thiên Chúa dạy bảo, để chứng tỏ niềm tin của ông nơi Ngài. Sở dĩ ông làm như
thế vì ông tin Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Sau cùng,
Thiên Chúa đã nhìn thấy niềm tin tưởng tuyệt đối của ông, và Ngài đã ban cho
ông người con ấy như là một biểu tượng của những gì sẽ xảy ra nơi Đức Kitô.
2/ Phúc Âm: "Sao nhát thế? Tại sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?"
Trình thuật của Marcô kể: “Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giêsu nói
với các môn đệ: "Chúng ta sang bờ bên kia đi!" Bỏ đám đông ở lại, các
ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng
theo Người. Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền
đầy nước.” Đứng trước sóng gió, chúng ta thấy có hai thái độ khác nhau:
2.1/ Thái độ của các Tông-đồ: Phản ứng của con người là sợ chết;
vì thế các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: "Thầy ơi, chúng ta chết đến
nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?" Chúng ta không biết Chúa Giêsu đã làm bao
nhiêu phép lạ trước mặt các ông, nhưng một điều chắc chắn là chưa đủ để các ông
đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Ngài. Sau này, trong chương 6, sau khi đã làm phép lạ
nuôi 5000 người, Chúa Giêsu lại đi trên mặt nước đến với các ông khi bị sóng
gió, các ông vẫn sợ và tưởng Người là ma. Khi Chúa Giêsu đã truyền cho gió biển
phải im lặng, các ông vẫn hoảng sợ và nói với nhau: "Vậy người này là ai,
mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?"
2.2/ Thái độ của Chúa Giêsu: hòan tòan đối nghịch hẳn với
thái độ của các môn đệ. Trong khi các môn đệ đang vất vả chống chọi với sóng
gió, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ không
hiểu nổi làm sao một người có thể ngủ khi sóng biển gào thét như thế! Khi các
ông nói lớn đánh thức, Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển:
"Im đi! Câm đi!" Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.” Rồi Người bảo
các ông: "Sao nhát thế? Tại sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?"
Qua trình thuật hôm nay, các môn đệ và chúng ta phải học được
bài học trong cuộc đời: một khi đã có đức tin, không một sóng gió nào trong cuộc
đời có thể làm lay chuyển đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Khi phải đương đầu
với chúng, đó là lúc chúng ta sống niềm tin đó.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng
cho những điều ta không thấy.
- Đức tin phải biểu tỏ bằng hành động: Chúng ta phải tin và làm
những gì Chúa dạy.
- Đức tin phải được tinh luyện trong thử thách và đau khổ. Người
có đức tin sẽ không hỏang hốt và đau khổ khi phải đương đầu với thử thách.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
31/01/15 THỨ BẢY TUẦN 3
TN
Th. Gio-an Bốt-cô, linh mục
Mc 4,35-41
Th. Gio-an Bốt-cô, linh mục
Mc 4,35-41
Suy niệm: Đài
CNS Mỹ đã thực hiện cuộc phỏng vấn ca sĩ Bono của ban nhạc lừng danh U2 với tựa
đề “Đức Giê-su là ai?” Trong bài phỏng vấn của đài này cũng như nhiều
đài khác, Bono bày tỏ niềm tin vào Đức Giê-su là Thiên Chúa, là Đấng phục sinh
từ cõi chết, những lời hứa của Ngài sẽ thành sự thật. Người ca sĩ nổi tiếng về
việc từ thiện ấy cũng cho biết vợ chồng anh và con cái thường cầu nguyện, đọc
Kinh Thánh để học biết ý Thiên Chúa. Trước Bono, bao con người cũng đã phải đối
diện với câu hỏi sinh tử này, các môn đệ trên thuyền trong bài Tin Mừng hôm nay
chẳng hạn. Là những ngư dân dày dạn kinh nghiệm, vậy mà các ông cũng kinh sợ
sóng gió khủng khiếp của hồ Galilê. Thế nhưng, chỉ cần một tiếng ra lệnh của
ông thầy Giê-su kia, là sóng gió thinh lặng. Ngài là ai mà quyền phép như vậy?
Mời Bạn: Ca
sĩ nhạc rock Bono tin rằng Ngài là Đấng Mê-si-a, nghĩa là Đấng Cứu Thế, một
Đấng Cứu Thế chịu đau khổ để bày tỏ lòng yêu thương nhân loại. Là Thiên Chúa
quyền năng, Ngài không cần phải chịu đau khổ, chịu chết cũng cứu được nhân
loại. Thế nhưng, Ngài đã làm người, và muốn liên đới với con người trong mọi
sự, trừ tội lỗi.
Sống Lời Chúa: Tôi dâng một lời cầu nguyện ngắn cảm tạ Thiên
Chúa, rồi cố gắng đáp trả bằng cách sống đạo siêng năng, nhiệt thành, tích cực
hơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, cảm tạ Chúa đã hạ mình xuống làm người như chúng
con. Xin cho chúng con luôn ghi khắc lòng yêu thương bao la ấy, rồi thể hiện
lòng biết ơn qua một niềm tin tuyệt đối vào Chúa, một niềm cậy trông vững vàng,
và một lòng mến sắt son.
Tại sao anh em sợ?
Vâng lời Chúa để qua bờ bên kia, và có Chúa trong
con thuyền đời mình, điều đó không làm chúng ta tránh được giông bão, có khi lại
gặp bão tố nhiều hơn...
Suy niệm:
Chẳng hiểu tại sao lúc chiều
xuống,
Đức Giêsu lại bảo các môn đệ
đưa mình qua bờ phía đông của Biển hồ,
trên con thuyền mà Ngài ngồi
giảng các dụ ngôn (Mc 4,1).
Do địa thế đặc biệt, hồ
Galilê hay có những trận cuồng phong ập đến bất chợt,
tạo ra những cơn bão lớn
trên sóng nước.
Tối hôm ấy, thầy trò đã gặp
một cơn bão như vậy.
Thầy Giêsu phó thác mọi sự
cho các môn đệ vốn là ngư phủ lành nghề.
Thầy mệt nên ngủ say ở đuôi
thuyền, ngủ trên một cái gối.
Trong khi đó các môn đệ phải
vật lộn với sóng gió, nước tràn đầy thuyền.
Họ có vẻ mất bình tĩnh khi
thấy cơn giông bão không đánh thức Thầy được.
Chính họ đánh thức Thầy bằng
một lời trách móc :
“Thầy ơi, chúng ta chết đến
nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?” (c.38).
Thầy Giêsu đã thức dậy, và
đã làm cho biển lặng, gió yên.
Đời con người ai tránh được
sóng gió bất chợt.
Nếu biết trước sẽ gặp sóng
gió, ai dám vượt biến ban đêm.
Sóng gió xảy ra trong đời
riêng của mỗi người, trong gia đình,
trong đất nước, trong Giáo
Hội, trên thế giới.
Sóng gió làm ta thấy mình
con thuyền đời mình chòng chành, mong manh,
và khiến ta sợ hãi, hoảng
loạn.
Giữa cơn sóng gió có khi
người tín hữu lại thấy Chúa lạnh lùng, vô cảm.
Như các môn đệ, chúng ta
không hiểu tại sao Chúa có thể ngủ được
khi đời ta bị đe dọa bởi
cuồng phong,
tại sao Chúa vắng mặt, thinh
lặng và khoanh tay
vào lúc chúng ta cần đến
Ngài hơn cả.
“Tại sao anh em sợ? Anh em không
có lòng tin sao?” (c.40).
Anh em không tin là Thầy
đang ở trong cùng một con thuyền với anh em sao?
Lẽ ra chúng ta phải cảm thấy
yên tâm
khi nhìn Chúa ngủ giấc ngủ
tín thác của trẻ thơ ngay giữa cơn giông bão.
Nhìn Chúa ngủ bình an, chúng
ta hiểu rằng chẳng có gì đáng sợ.
Vâng lời Chúa để qua bờ bên
kia, và có Chúa trong con thuyền đời mình,
điều đó không làm chúng ta
tránh được giông bão,
có khi lại gặp bão tố nhiều
hơn.
Nhưng điều chắc chắn là
chúng ta sẽ qua được bờ bên kia
với lòng tin được tôi luyện
của người tín hữu dày dạn.
Chúng ta dám tin Chúa có
quyền trên sóng gió của đời ta không?
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu
chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay
cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng
hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu
thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn
năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua
con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi
dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự
thiện,
được vùi sâu dưới những lớp
tro.
Chỉ một ngọn gió của tình
yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng
lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy
sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm
ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với
Cha,
qua trung gian tuyệt vời của
Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt
của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất
đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua
sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh
phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống
niềm tin ấy. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng
Tâm Hồn Lên
31 THÁNG GIÊNG
Hợp Tác Và Liên Đới
Nếu như trong quá khứ có một khuynh hướng xem lao động như chuẩn
mực duy nhất đo lường giá trị con người, thì trong thời đại chúng ta lại thấy
xuất hiện một nhãn quan mới: đánh giá con người theo chức năng. Theo cách nhìn
này, lao động chỉ có ý nghĩa thông qua thu nhập trong một nghề nghiệp nào đó.
Trước một trào lưu như vậy, chúng ta càng phải khẩn cấp hơn bao giờ hết để nắm
bắt lại niềm xác tín rằng “lao động là một chiều kích căn bản của hiện sinh con
người trên trái đất” (Laborem exercens 4). Nhưng đồng thời cũng phải nhận thức
rằng lao động không phải là cứu cánh cuối cùng. Vâng, lao động phải luôn luôn
phụ thuộc vào con người – và chính con người mới là mục tiêu và là cứu cánh cuối
cùng của lao động (Laborem exercens 6).
Xuất phát từ sự thật đó, một yêu cầu quan trọng đặt ra cho tất cả
mọi người: yêu cầu phải cộng tác và liên đới với nhau. Người ta vốn phải luôn
luôn cần sự giúp đỡ và cộng tác của nhau để có thể cùng nhau thăng tiến. Liên đới
có luật của nó: không ai có thể áp đặt nó lên một người khác. Trái lại, mỗi bên
đều sẵn lòng đón nhận sự cộng tác của bên kia trong một đường lối xây dựng. Điều
này áp dụng cả cho những doanh nghiệp cá thể lẫn cho toàn bộ tiến trình sản xuất.
Nó cũng áp dụng – theo một nghĩa rộng – cho tất cả đời sống xã hội.
Khi nhìn lao động và sản xuất trong tinh thần hợp tác và liên đới,
chúng ta có thể nhận ra những vai trò thiết yếu của mỗi bên liên hệ. Các chủ xí
nghiệp và các vị lãnh đạo đảm nhận vai trò đưa ra các quyết định để bảo vệ mối
thống nhất, sự hợp tác và điều hành hoạt động của xí nghiệp.
Những người lao động độc lập thì tự nhận lấy các trách nhiệm, những
mối ràng buộc và những rủi ro trong công việc. Họ đem lại sự uyển chuyển cho
toàn tiến trình sản xuất và họ được đền bù thích đáng bởi nguyên tắc phụ trợ.
Theo nguyên tắc này, cả nhà nước lẫn xã hội đều không thể hạn chế sáng kiến và
sự lựa chọn tự do của của cá nhân (Huấn thị của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tự Do
và Giải Phóng theo Kitô giáo, số 73).
Về phần mình, những công nhân trực thuộc các xí nghiệp không chỉ
có quyền nhận được món tiền lương công bằng – tức bảo đảm mức sống cho bản thân
họ và gia đình họ; nhưng một cách liên đới trách nhiệm, họ cũng tham gia vào
các sáng kiến và các quyết định có ảnh hưởng đến đời sống của xí nghiệp, nghĩa
là các quyết định có ảnh hưởng đến chính tương lai của họ. Hơn nữa, họ sẽ làm
việc bằng một cung cách sao cho luôn luôn bảo đảm tôn trọng phẩm giá và khả
năng sáng tạo của mình. Như vậy, họ có thể thực sự cảm nhận được vai trò làm chủ
của mình trong môi trường lao động (Laborem exercens 14 – 15).
Chúng ta biết rằng mọi quyền đều gắn liền với bổn phận. Nguyên tắc
công bằng và bình đẳng không chỉ chi phối đến các mối quan hệ giữa chúng ta với
nhau, nhưng cũng chi phối cả đến sự đóng góp của mọi người vào thiện ích chung.
Nếu chúng ta muốn một xã hội công bằng hơn và một cuộc sống có chất lượng hơn,
mọi người chúng ta đều phải biết nhìn xa hơn những ích lợi nhất thời của riêng
mình. Chúng ta phải sẵn lòng dự phần vào trách nhiệm chung, vì thiện ích của mọi
người.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa
Trong Gia Đình
NGÀY 31-01
Gioan Boscô, Linh mục
Dt 11,1-2.8-19; Mc 4,35-41.
LỜI SUY NIỆM: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa
có lòng tin?”
Mác-cô đang dẫn đưa chúng ta đi vào cuộc đời ngày hôm nay, như
xưa các Tông đồ của Chúa Giêsu đang đi với Người trong cùng một chiếc thuyền.
Trên hành trình đó có những lúc chúng ta cứ tưởng Chúa không quan tâm, Người ngủ.
Nhưng thật ra Người đang thấy, đang nghe, Người đang xem chúng ta có đức tin là
đang được Người đồng hành hay không. Đức Tin cần được thử thách. Sau thử thách
Chúa không để chúng ta trong sự sợ hãi và cô đơn, Người sẽ tỏ uy quyền, dẹp tan
mọi cuồng phong để đem lại bình an cho tâm hồn những ai kêu cầu đến Người.
Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống của chúng con, luôn có những trận
cuồng phong đôi khi làm cho đức tin của chúng con bị chao đảo. Xin Chúa thương
ban cho mỗi người trong gia đình chúng con, những lúc như thế biết kêu cầu đến
Chúa và tin chắc rằng, Chúa hằng hiện diện trong đời sống của chúng con và ân sủng
của Chúa đủ mạnh, giúp cho chúng con vượt thắng mọi sự, hầu đến được bến
bình an.
Mạnh Phương
Gương
Thánh Nhân
Ngày 31-01: Thánh GIOAN BOSCÔ
Linh mục (1815-1888)
Ngày 16 tháng 8 năm 1815, Gioan chào đời trong một túp lều tranh
thuộc tỉnh Turinô. Cha Ngài qua đời lúc Ngài được hai tuổi. Mẹ Ngài là bà
Magarita một mình nuôi nấng ba người con trai. Bà tập cho con quen với công việc
nặng nhọc, với đời cầu nguyện. Bà thường lập lại với các con bà: - Chúa thấy hết,
Chúa thấy hết.
Và con cái bà biết rằng chính nhờ tình yêu mà Người ta làm đẹp
lòng Chúa, Gioan sau này sẽ nói: - Nếu tôi trở thành linh mục đó là nhờ mẹ tôi.
Cậu bé đã tỏ ra có ơn gọi làm tông đồ. Ngoài đồng cỏ, Ngài đã đổi
phần bánh ngon miệng của mình lấy mẩu bánh đen của một mục đồng nghèo. Mẹ Ngài
trách cứ Ngài vì đã làm bạn với những người xấu. Gioan đáp lại: - Khi con chơi
với chúng nó, chúng nó bớt khùng hơn.
Lúc chín tuổi, Gioan đã có một giấc mơ lạ lùng: một đám đông trẻ
con tinh nghịch vây quanh Ngài, chúng nó nói phạm thượng. Bất chợt chúng hiện
hình thành bọn lang sói. Nhưng đức Trinh Nữ đã nói với Gioan: - Đừng dùng bạo lực,
nhưng hãy ngọt ngào nếu con muốn chiếm được tình nghĩa với chúng.
Ngài còn nói: - Đó là môi trường làm việc cùng con. Sau này con
sẽ làm cho con cái mẹ, điều Mẹ sắp làm cho những con thú này.
Và rồi những con vật dữ tợn trên biến thành chiên ngoan Gioan đã
kẻ lại giấc mơ trên. Một người anh đã nói với Ngài: - Mầy sẽ là thằng chăn
chiên. Và người anh khác nói tiếp: - Hay là tướng cướp.
Vì tình yêu Chúa, cậu bé tưởng tượng ra mình là một thằng múa rối.
Ngày Chúa nhật bọn trẻ xếp vòng tán thưởng nhà nhào lộn và leo giây đại tài,
cha mẹ chúng, cũng tới nữa, những lúc đổi trò, mọi người phải lần chuỗi. Nhà
nhào lộn trở thành nhà giảng thuyết, lập lại bài giảng của cha sở.
Một linh mục già cho Gioan cuốn sách văn phạm latinh và dạy
Gioan học. Một trong các anh ghen tỵ. Gioan ôm sách đi tìm việc làm trong một
nông rại. Hai năm sau trở về nhà, Gioan phải chân không cuốc bộ hai mươi cây số
ngàn để tới trường học mỗi ngày. Sau này ở trường Chieri, Ngài làm gia nhân khi
có giờ rảnh để khỏi tốn tiền mẹ. Ngài thành lập một hội vui để lôi kéo bạn bè
vào đường thiện hảo, lành mạnh.
Gioan được thụ phong linh mục. Theo phong tục Italia, người ta gọi
Ngài là Don Boscô. Mẹ Ngài đã nhắn nhủ: - Đùng lo nghĩ tới mẹ nữa mà chỉ cầu
nguyện cho mẹ thôi. Lo lắng duy nhất của con là phần rỗi các linh hồn.
Ngài theo học ở Turinô, viếng thăm các tù nhân và đã kinh ngạc
khi thấy bao nhiêu là thanh thiếu niên ở đó, thấy trong các đường phố những đứa
trẻ này bị bỏ mặc cho sự cùng khổ và tật xấu của chúng. Phương pháp cứu vớt tuổi
trẻ này. Trong thánh đường, một ông quản xua đuổi đứa trẻ lêu lổng. Gioan nhắc
nhở ông ta rằng: nó lại không muốn nhận biết Thiên Chúa tốt lành sao ?
Chính Don Boscô sẽ dạy nó đọc chữ và giải thích giáo lý cho nó.
Hôm sau đứa trẻ trở lại với bạn bè của mình. Hội bảo trợ đầu tiên được thành lập.
Trong hai tháng số trẻ lên tới cả trăm. Nhưng tụ họp chúng ở đâu ? Khắp nơi người
ta đều xua đuổi chúng, và người ta lại không cho rằng Don Boscô điên rồi sao ?
Ngài thuê một căn nhà trong khu phố nghèo đói nhất và phải trả tiển nửa tháng một
lần, Mẹ Ngài lo lắng: - Con không có lấy một xu.
Thánh nhân trả lời: - Nếu mẹ có tiền lại chẳng cho con sao ? Mẹ
có tin là Chúa quan phòng giầu có vô cùng lại không tốt bằng mẹ sao ?
Ngài tập họp những trẻ xấu nết lại và dọn cho chúng ruớc lễ vỡ
lòng, khu vực đốn mạt sắp trở thành nơi có tinh thần Kitô giáo nhất thành phố.
Ngài không hề mất tin tưởng. Không có gì làm Ngài nản chí được. Ngài dẫn về cho
mẹ mình những đứa vô lại chiêu tập trong một hàng quán. Đêm về những đứa vô lại
này biến mất, mang theo cả chăn nệm, Ngài đưa về một thàng nhãi bị trui đến tận
xương tủy. Chẳng mấy chốc căn phòng đã có tới bảy đứa như vậy.
Don Boscô mua một căn nhà. Trẻ nội trú đông nhung nhúc. Một ngày
sống bắt đầu với thánh lễ, sau đó là đi học hay tập nghề. Chính lúc này mà
thánh nhân muốn giúp đỡ từ những người nghèo tới các công tử. Các nhà sắp được
xây dựng khắp nơi, cả đến Mỹ Châu.
Đối với các trẻ em nam, Gioan đã thiết lập một dòng gồm các linh
mục mang danh là Salésien, để kính thánh Phanxicô Salê mà Ngài đã lấy châm ngôn
của thánh nhân làm của mình.
- Lạy Chúa xin cho các linh hồn vì phần còn lại có đang giá gì
cho con đâu ?
Và thánh nhân khuyên nhủ hãy làm điều đó: - Trong vui tươi hoan hỉ không ngừng.
Và thánh nhân khuyên nhủ hãy làm điều đó: - Trong vui tươi hoan hỉ không ngừng.
Cùng với chị thánh Maria Mazzarello, Ngài cũng thiết lập một
dòng tu mang danh hiệu các nữ tu Đức Mẹ phù hộ. Công cuộc các chị cũng sẽ lan rộng
trên khắp thế giới. Mệnh lệnh của Ngài là: - Hãy tin tưởng cầu nguyện và can đảm
tiến tới không ngừng.
Don Boscô đi thực hiện các công trình tại Pháp. Các sự lạ xảy ra
vô số trên đường Ngài đi qua. Ơ Marseille Ngài gặp một đứa trẻ bệnh hoạn, Ngài
bảo nó đọc một kinh kính Mừng và chữa lành cho nó. Cả đứa trẻ lẫn mẹ nó khóc nức
nở vì biết ơn. Dọc đường xe Ngài bị vây chặt đến độ người đánh xe đã phải kêu
lên: - Kéo theo một con quỉ, còn hơn chở một vị thánh.
Ở Paris Ngài được tiếp đón tưng bừng. Đức Hồng y xin Ngài chúc
lành. Thi sĩ Victor Hugô hai lần muốn gặp Ngài. Người ta ngạc nhiên khi thấy
Ngài rất đơn sơ vui vẻ và hiền hậu. Ngài giảng dạy nhiều. Các viện mồ côi, trường
huấn nghệ, hội bảo trợ mọc lên khắp nước Pháp. Người ta nói Ngài dừng lại một
chút, Người trả lời rằng: lên thiên đàng ta sẽ ngừng, hoặc, ma quỉ không có ngừng.
Don Boscô muốn đưa cả thế giới về với Chúa Kitô. Các giấc mơ cho Ngài biết rằng:
ước muốn của Ngài sẽ được thực hiện. Trong một giấc mơ Ngài thấy những người
hoang dại quỳ gối trước mặt các tu sĩ Salésiens. Suốt đời Ngài không dứt các giấc
mơ, các lời tiê đoán và các thị kiến.
Gioan phải trả cho định mệnh siêu nhiên của Ngài bằng những dằn
vặt mà chỉ mình Ngài biết được. Một vị Hồng y đã phải lo lắng thấy mặt Ngài
xanh mét kiệt sức. Thánh nhân cho Ngài biết là ma quỉ quấy phá mình cả đêm.
Nhưng những người thân cận không hề biết gì những đau khổ của Ngài. Ngài nói: -
Vì hồn tôi đã uống những chén đắng, tôi có quyền thêm vào những lo âu của con
cái tôi bằng một gợn sóng đau khổ không ?
Bọn ác nhân giận dữ vì việc lành Ngài đã làm, đã tìm cách sát hại
Ngài. Nhưng sức mạnh của sự dữ không nghĩa lý gì. Vượt qua mọi trở ngại tưởng
như không thể lướt thắng nổi, Don Boscô còn hoạt động nhiều hơn nữa. Y sĩ tuyên
bố rằng: phép lạ lớn lao nhất là Don Boscô còn sống được.
Cuối cùng Gioan cảm thấy rằng: thân xác Ngài không còn chiến đấu
nổi nữa. Ngài sắp qua đời. Ngài nói với các linh mục của mình khi họ tới thăm:
- Hãy nói với các con cái của tôi rằng: tôi đợi chúng tất cả trên thiên đàng.
Ngài còn nói như lời dặn dò thân thiết nhất: - Hãy cổ võ việc
siêng năng rước lễ và lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ:
Người ta còn nghe thấy Ngài nói trong cơn mê sảng: - Mẹ, mẹ ơi,
ngày mai... Mẹ hãy mở cửa thiên đàng cho con.
Thánh Don Boscô qua đời, đoàn con cái xếp hàng hôn bàn tay đã tận
tình cứu giúp họ. Ngày 30 tháng giêng năm 1888.
(daminhvn.net)
31 Tháng Giêng
Kỳ Quan
Của Thế Kỷ 19
Ngày 31 tháng 1, cách đây đúng một thế kỷ, thế giới mất đi một
người mà ông Rattazzi, thủ tướng nước Italia, thời bấy giờ nổi tiếng là người
chống báng Giáo Hội, đã phải thốt lên: "Ngài là kỳ quan vĩ đại nhất của thế
kỷ thứ 19. Cả nước Pháp đã suy tôn Ngài như một vị Thánh Vinh sơn đệ Phaolô của
thế kỷ". Con người đó chính là Thánh Don Bosco.
Thánh nhân chào đời năm 1815 tại miền Piemonte, thuộc mạn bắc nước
Italia. Mẹ Ngài là bà Magarita mong ước cho Ngài được làm linh mục. Nhưng bà đã
dặn dò con mình: "Mẹ đã sinh ra trong nghèo khó, mẹ đã sống trong nghèo
khó, mẹ cũng muốn chết trong nghèo khó. Nếu con muốn làm linh mục để giàu có, mẹ
sẽ không bao giờ bén mảng đến với con".
Don Bosco đã thực hiện lời khuyên của mẹ. Không những Ngài đã sống
nghèo, nhưng chỉ sống với người nghèo, nhất là trẻ em nghèo. Ngài đã đi khắp
hang cùng ngõ hẻm, thu nhặt những trẻ em lang thang đầu đường xó chợ.
Nếu mãi đến năm 1848, Karl Marx mới đưa ra tuyên ngôn kêu gọi giới
công nhân đứng lên, đoàn kết đấu tranh cho quyền lợi của họ, thì trước đó, Don
Bosco cũng đã tranh đấu cho giới công nhân rồi.
Thời của Thánh nhân, kỹ nghệ mới phát triển, nhiều vấn đề xã hội
được đặt ra. Thánh nhân chủ trương không chỉ mang lại cho giới trẻ một nền giáo
dục về mặt tinh thần hay tu đức, mà còn giúp cho giới trẻ một nghề nghiệp trong
tay. Thánh Don Bosco đã được xem như là cha đẻ của những trường huấn nghệ ngsày
nay.
Phương pháp sư phạm được Thánh nhân đề ra nhắm đến sự đề phòng
hơn là trừng phạt. Thay vì chữa trị những sai trái, tốt hơn là đề phòng để những
sai trái không xảy ra. Trong tất cả mọi sự, tình thương và sự dịu dàng là cơ sở
cho tất cả mọi cư xử của Thánh Don Bosco.
Hiền lành và vui vẻ là hai nhân đức trội vượt trong sự thánh thiện
của Thánh Don Bosco. Với sự hiền lành đầy cảm thông, Thánh nhân nhìn mọi người
bằng chính cái nhìn của Chúa Giêsu. Cái nhìn đó muốn nói với tội nhân hay bất cứ
một tâm hồn xấu xa nào rằng: "Bạn có một giá trị cao cả. Thiên Chúa vẫn tiếp
tục yêu thương bạn. Bạn đừng ngã lòng".
Ði đôi với sự hiền lành chính là vui vẻ. Châm ngôn của Thánh Don
Bosco chính là: Phụng sự Chúa trong vui tươi. Sự vui vẻ của Thánh Don Bosco là
liều thuốc hữu hiệu nhất cho thời đại đầy ohiền muộn và chán nản của chúng ta.
Niềm vui của Thánh nhân xuất phát từ một xác tín cơ bản trong Kitô giáo của
chúng ta: Thiên Chúa là Tình Yêu. Do đó những người được Thiên Chúa yêu thương
không thể nào buồn thảm được.
Sứ điệp của Thánh Don Bosco vẫn luôn hợp thời, nhất là trong
hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Giữa một xã hội mà tương quan con người được
xây dựng trên thù hận, nghi kỵ, bon chen, giành giật, lừa đảo. Thánh Don Bosco
nói với chúng ta rằng: Con người vẫn còn đáng thương yêu, vẫn còn đáng tôn trọng
và tin tưởng.
Giữa một xã hội mà sự buồn thảm đang ngự trị, Thánh nhân muốn
đem lại cho chúng ta nụ cười của lạc quan. Nụ cười lạc quan đó chỉ có thể nở rộ
khi con người còn tin tưởng ở Tình Yêu của Thiên Chúa. Giữa những mất mát từng
ngày, Thánh Don Bosco mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm lại mọi sự trong Tình
thương của Chúa.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét