Bước
theo Chúa Giêsu trong vâng phục
Đức vâng phục Kitô giáo,
nhất là trong thế giới hiện đại và hậu hiện đại này, có lội ngược dòng đời vốn
tôn vinh sự tự do cá nhân và nhân phẩm đặt trên nền tảng của tự do và trách
nhiệm cá nhân không?
1. Thượng nguồn của đức vâng phục
Đức vâng phục đầu tiên là sự vâng phục của mọi
thụ tạo được Tạo Hóa yêu thương kêu gọi đi vào hiện hữu. Đón nhậnchính
sự sống của mình với lòng tri ân vì mình đã được ban cho hồng ân sự sống, được
làm người, được sống trong thế giới
này. Bao hàm đảm nhận lấy chính mình, nguồn cội
mình, thân xác mình, những đặc thù của con người mình, điểm mạnh và điểm yếu
của mình về thể lý cũng như tâm lý.
Người tin Chúa kết hợp với Ngài, nghe Ngài mời
gọi tìm kiếm trước hết lắng nghe lời Ngài. Vâng phục Thiên Chúa trên hết
là nghe lời Thiên Chúa được viết nơi tạo thành (trong thiên
nhiên), chứa đựng trong Sách Thánh, nói trong lịch sử và trong cộng đoàn Kitô
hữu. “Hãy nghe, hỡi Israel!” (Đnl 6,4) là giới răn lớn, lời kêu gọi
hãy nghe này, tức là thực thi ý Chúa được biểu lộ trong lời Ngài, thường xuyên
trong các sách Thánh, Cựu cũng như Tân ước. Như dân Israel đáp lại Giao ước
Thiên Chúa ban: “Mọi điều Đức Chúa truyền chúng tôi sẽ thi hành và sẽ nghe
theo” (Is 24,7).
Đức Giêsu Kitô là người mẫu sống đức vâng phục. Đức Giêsu hằng nghe Chúa
Cha (x. Ga 8,28-29). Lương thực của Người là thực thi thánh ý
Cha (x. Ga 4,34). Người không thực hiện ý riêng của mình nhưng
là thánh ý Cha, đến độ nhận uống chén đắng (x. Mc 14,36 và
ss.). Thế nhưng, sự vâng phục này là vâng phục tình yêu, nhờ đó mà Người hiệp
thông với Thiên Chúa và với con người. Đó là sự thực hiện lôgic của tình yêu.
Nếu Đức Giêsu “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự” (Pl 2,8),
đó là vì Người không làm bất cứ hành động gì chống lại con người, vì Người
“hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29) đến độ phải chịu
bạo hành mà chối từ triệt để dùng bạo hành; vì Người muốn sống hiệp thông với
tất cả mọi người nạn nhân của lịch sử. Cả cuộc sống của Đức Giêsu luôn làm
chứng cho tình hiệp thông, tình liên đới gần gũi với mọi người. Người trở nên
là kẻ phục vụ đến mức tự hạ trở thành người tôi tớ cho tất cả những ai Người đã
gặp gỡ.
“Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua
nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Đức
Giêsu trong tư cách là một con người đã phải nhận ra rằng để sống yêu thương
người ta phải trả giá, để yêu thương người khác và làm điều tốt lành cho họ ta
phải chịu đau khổ, rằng vâng phục Thiên Chúa không phải chỉ là một sự vâng phục
theo nghĩa vụ của kẻ làm con đối với cha, nhưng là sống theo lôgic của ngài,
lôgic của Thiên Chúa vốn là của tình yêu (1 Ga 4,8.16). Chính đức
tin trọn hảo của Đức Giêsu, hay nói đúng hơn chính “đức tin trọn hảo” cũng là
chính Người, đã tạo hình cho Người thành một người vâng phục lý tưởng, làm cho
Người trở nên kẻ phục vụ giữa loài người, đã đưa Người đến chỗ hiến dâng mạng
sống mình; và chính tình yêu Người đã “yêu mến họ đến cùng” (Ga 13,1)
khiến Chúa Cha phục sinh Người từ cõi chết và đặt Đấng vốn là Con Chiên làm
“Mục Tử cao cả của đoàn chiên” (Dt 13,20), làm vị “Mục Tử tối cao”
(1 Pr 5,4).
Vâng phục Thánh Thần. Trong khi vâng theo phận thụ tạo của mình
và vâng nghe lời Chúa, theo gương mẫu lý tưởng của Đức Giêsu Kitô, Thánh Thần
Chúa đã luôn hiện diện rồi với quyền năng và hành động của Ngài. Thần Khí
Thánh, là ân sủng tuôn trào vào trong trái tim Kitô hữu, mời gọi họ kêu cầu lên
Thiên Chúa: “Lạy Cha”, nghĩa là Bố yêu dấu (Rm 8,15; Gl 4,6),
và như thế là bước vào tâm tình vâng phục của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha (Mc 14,36)
Đấng là nguồn mạch của tình yêu. Để trở thành con cái Thiên Chúa trong ý thức
và gắn bó với Ngài ta cần được Thánh Thần hướng dẫn (x. Rm 8,14);
để trở thành anh chị em của nhau trong một Thân thể duy nhất, những kẻ đồng
hình đồng dạng với Chúa Kitô, ta cần phải ngoan ngoãn vâng nghe theo Thần Khí
của Hiệp thông, Đấng tạo ra trong cộng đoàn nhiều đặc sủng khác nhau, nhiều
việc phục vụ và hoạt động khác nhau, nhưng hoạt động ở trong mọi người
(x. 1Cr 12,4-11), hợp thành một thân thể duy nhất gồm những
chi thể kín múc ơn thiêng từ Ngài (1Cr 12,12-13).
Vâng phục Chúa Thánh Thần sẽ làm cho cộng đoàn
nên hiệp nhất và hiệp thông, nên “một lòng một ý” (Cv 4,32), biến
cộng đoàn thành một koinonia có thể đặt mọi sự làm của chung
(cf. Cv 2,42-48) và thành một sự kiện có ý nghĩa của một “lễ
bẻ bánh”. Linh đạo Kitô giáo nào cũng đều là linh đạo hiệp thông bởi vì Thánh
Thần Đấng đặt nền cho linh đạo ấy và cho nó hiện hữu luôn luôn hành động như
một koinonia (ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thàn: x. 2Cr 13,13).
Khi thực hành phân định tìm thánh ý Chúa luôn cần phải quyết liệt khẩn cầu Chúa
Thánh Thần. Chính Ngài là Đấng cần được kêu cầu để Ngài ngự xuống tâm hồn và
trí khôn, linh hứng những gì phù hợp với ý muốn Thiên Chúa và ban cho ta sức
mạnh hầu biểu lộ ý Chúa ra, và chia sẻ với anh chị em, và nhất là thực hiện ý
đó theo lôgic của hiệp thông.
Chúng ta đừng quên Thần Khí
luôn đi kèm theo Lời: nếu chữ viết mà thiếu Thần Khí thì giết chết (x. 2Cr 3,6),
thì Thần Khí, “Đấng đồng hành không thể tách rời với Chúa Kitô” (Basiliô thành
Cêsarê), không bao giờ có thể mâu thuẫn với Tin mừng. Thế nên, Thần Khí nói với
chúng ta trong phạm vi chúng ta biết giữ cho đời sống nội tâm chúng ta được
sống động, đối thoại giữa thần trí chúng ta với Ngài (x. Rm 8,16).
Bởi thế, mỗi anh chị em phải tỉnh thức không được ủy thác cho người khác việc
phân định tìm kiếm thánh ý Chúa, bởi vì thiếu phân định về lâu dài sẽ có nguy
cơ tinh thần chúng ta bị hao mòn teo tóp, vì không còn thực hành sử dụng đến tự
do (dù là tự nhiên nhưng cũng khá vất vả) của tinh thần ta nữa. Nhìn nhận phận
sự của quyền bính trong cộng đoàn không hề có nghĩa là chối từ lắng nghe Thánh
Thần nói trong lương tâm người vâng phục.
2. Trung gian nhân loại chuyển tiếp thánh ý Chúa
Nếu “tin là thực thi thánh ý của Thiên Chúa”
(Irênê thành Lyon), thì việc ấy có thể được thực hiện trong đức vâng phục được
biểu lộ ra qua nhiều hình thức: bên cạnh việc lắng nghe từ bên trong nội tâm,
còn có nghe qua những trung gian ngoại giới là những con người. Những trung
gian nhân loại ấy luôn luôn có mặt trong mọi cuộc đời, bởi lẽ không ai và nhất
là không Kitô hữu nào là sống đơn độc, theo như câu ngạn ngữ cổ của các giáo
phụ: Unus christianus, nullus christianus.
Những trung gian chuyển tiếp ý muốn của Thiên
Chúa có thể là: người “làm lãnh đạo” (Mc 10,44); người “làm lớn hơn
cả” trong anh em (Mt 23,11; Lc 22,26); “những
người hướng dẫn” (Lc 22,26). Cộng đoàn Kitô hữu được tổ chức, được
hợp thành bởi các đặc sủng và các phận vụ khác nhau, và trong đó một số người
là “lãnh đạo nhân danh Chúa” (hay “chủ sự trong Chúa”: 1Tx 5,12),
hoặc là “những người hướng dẫn” (Dt 13,17) cần phải được những
người kia nghe lời. Chính Chúa Giêsu đã đặt người chăn dắt đoàn chiên là cộng
đoàn Kitô hữu (x. Ga 21,15-17), Thánh Thần đã thiết lập các kỳ
mục (Cv 20,17) và các giám mục (Cv 20,28) để chăn dắt
Hội thánh Chúa, đàn chiên Chúa giao phó cho họ (x.1Pr 5,2). Những
người phụ trách này được gọi theo lời của Chúa Giêsu là “những người quản gia
trung tín và khôn ngoan, được ông chủ đặt lên để coi sóc người ăn kẻ ở, để cấp
phát phần lương thực đúng giờ đúng lúc” (x. Lc 12,42) và theo
lời của thánh Phaolô là “những người đã dấn thân phục vụ dân thánh” (1Cr 16,15),
giống như những người “lãnh đạo nhân danh Chúa” mà các anh em phải phục tùng.
Tất cả họ luôn được mời gọi
sống chức vụ của mình như những tôi tớ (diákonoi: x. Mc 9,35;
10,43, vv.), có khả năng phục vụ theo cách thức khác hẳn cách thực thi quyền
lực trong thế gian: Non ita in vobis! (Mc 10,43).
3. Tuân thủ Tu luật
Đối với người Kitô hữu bước theo Chúa Kitô trong
đời tu cộng đoàn, các trung gian nhân loại bên ngoài được cụ thể hóa, ngoài
những hình thức trung gian chung với mọi Kitô hữu khác, cách đặc biệt nơi tu
luật và cộng đoàn, nơi vị đứng đầu cộng đoàn và nơi những người giúp đỡ họ sống
đời tu này.
Chắc hẳn, tu luật vẫn là một công trình của con
người, và bên trên đó là Phúc âm ở vị trí tối thượng tuyệt đối: Phúc âm xuất
phát từ Thiên Chúa, tu luật đến từ con người. Phúc âm dành cho hết mọi người,
còn tu luật dành cho những ai đã ký kết Giao ước dựa trên quy ước tu luật đó.
Phúc âm là trường tồn, hôm qua, hôm nay và mãi mãi (x. Dt 13,8),
còn tu luật thì bất tất, bởi lẽ việc bước theo Chúa do Phúc âm đề ra là duy
nhất, còn các hình thức lịch sử của việc ấy thì nhiều và dị biệt.
Bởi thế, tu luật chỉ là một hình thức của cuộc
hành trình mà một số người, nam hay nữ, đồng hành cùng với những anh em hay chị
em khác bước theo Chúa Kitô. Thế nhưng, vì tu luật diễn tả một dự phóng sống
Tin mừng được khơi dậy bởi Thần Khí và được Giáo hội chuẩn nhận, nên những ai
với tự do và xác tín đã gắn kết với đời tu được đòi hỏi phải xem đó như là
trung gian chuyển tiếp thánh ý của Thiên Chúa, nghĩa là nơi tham chiếu của đức
vâng phục. Tu luật là “một phương tiện để sống Phúc âm và nhất là một phương
thế để sống tình hiệp thông huynh đệ ... một bản mô tả đời sống mà thiếu nó
người ta không thể xây dựng một cộng đoàn và không thể có tạo thành gì cái
chung được”[1]. Người ta đo lường mức độ một thành viên thuộc về cộng đoàn, và
người ấy xây dựng mối hiệp thông với Chúa và với anh em hay chị em mình như thế
nào, dựa theo sự tuân thủ tu luật của người ấy. Thánh Biển Đức mô tả những đan
sĩ là “những người sống chung với nhau trong một đan viện và chiến đấu dưới sự
hướng dẫn của tu luật và một vị tu viện trưởng” (sub regula vel abbate: Tu
Luật thánh Biển Đức 1,1). Như vậy, ngài mô tả đời sống cộng
đoàn đan tu như là một đời sống vâng phục theo tu luật và vị tu viện trưởng và,
một cách ngầm định, vâng phục cả cộng đoàn nữa. Đây không chỉ là một thể thức
sống nhưng là một sự thực hiện cộng đoàn Kitô giáo sống Giao ước với Chúa và
giữa anh em.
Giao ước là với Chúa và
giữa anh em, và chỉ có thể sống Giao ước trong cộng đoàn được Chúa kêu gọi,
theo các khoản tu luật và các giới răn, đồng thời đón nhận sự phục vụ của vị
đứng đầu cộng đoàn. Giao ước đó là một lộ trình cùng đi với nhau, luôn nổi bật
bởi tính chất đồng hành (sinodalità): cùng đi với nhau trên
một lối đường. Thế nên, để cùng đi với nhau trên hành trình ta cần chuyển tiếp
từ ý riêng (voluntas propria) sang ý chung
(voluntas communis), muốn vậy cần có sự vâng phục lẫn nhau, tuân thủ
lề luật chung cho mọi người, và vâng phục vị lãnh đạo và có nhiệm vụ phục vụ
cho sự hiệp thông, ngài dù ở dưới luật nhưng còn là người giải thích luật.
4.
Tùng phục lẫn nhau
Vâng phục nhau trong đời
sống cộng đoàn thật ra đơn giản (nhưng không dễ dàng) là sống điều răn mới Chúa
Giêsu truyền lại cho các môn đệ Người: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em” (Ga 13,34; x. 15,12). Ai yêu thương thì hành động để tha nhân được
sống, nghĩa là vâng phục trong tình yêu khi mình hiến trao sự sống vì người
mình yêu: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hy sinh sự sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13).
Tình huynh đệ là yếu tố cốt yếu của đời sống cộng đoàn và “toàn thể sự phong
nhiêu của đời sống cộng đoàn phụ thuộc phẩm chất của đời sống huynh đệ”[2]. Quả thật, vâng phục huynh đệ là điều rất
vất vả và khó khăn bởi vì nó không chỉ là một thực hành tu đức, một kỷ luật để sống chung cùng nhau, nhưng là
một sự cùng nhau tìm kiếm thánh ý Chúa, bằng cách đón nhận tha nhân vốn có
những khác biệt với tôi, và cũng có khả năng nhận ra thánh ý Chúa và thực hiện
thánh ý đó. Cần phải khẳng định lại cách quyết liệt điều này: vâng phục không
chỉ là vâng lời bề trên, bởi lẽ trên hết và trước hết phải có một đức vâng phục
lẫn nhau giữa các anh em.
Vâng phục người khác trước
hết có nghĩa là chấp nhận họ như thực tại chính họ là anh em chị em quà tặng
của Chúa cho tôi. Ta không chọn họ trước rồi mới yêu thương họ, mà ngược lại ta
chọn yêu thương họ như món quà của Chúa ban trao trước khi hiểu biết và lựa
chọn họ! Tha nhân nếu ta không coi họ như ân huệ Chúa ban có thể trở thành ...
hỏa ngục (Jean-Paul Sartre). Như thế, vâng phục là hết sức kiên nhẫn mang chịu
lấy những bệnh tật, những yếu đuối về
thể lý và tinh thần, những khiếm khuyết của người khác. Vâng phục để sống với
tha nhân mà không vì lụy tình cảm nhưng trong sự tự do của một lòng mến yêu
thanh khiết. Vâng phục để vẫn phục vụ họ nhất là khi họ mất sức khỏe, yếu sức,
thiếu tài năng hoặc đang sống trong tội lỗi, bởi thế họ cần được phục vụ từ
những tấm lòng từ bi và bác ái huynh đệ không mệt mỏi. Tha nhân là “một người
anh em mà Chúa Kitô đã chết cho họ” (1Cr 8,12). Mang lấy tội lỗi
của họ là dấu chỉ của người đã có được tầm nhìn của Chúa Kitô, cái nhìn cảm
thương.
Để thực hành vâng phục
huynh đệ ta phải biết lắng nghe anh em (trong tiếng latinh obœdire do
từ ob-audire): muốn nghe họ, biết dành thời gian tìm hiểu những nhu
cầu của họ, cố tìm hiểu để biết thực chất sâu xa của người ấy hơn, những gì
khiến họ vui mừng hay làm họ đau khổ. Nếu thiếu một sự hiểu biết tối thiểu này
về anh em, sẽ không thể có đời sống huynh đệ và rốt cuộc có thể tình trạng sẽ
trở nên tệ hơn dù ta không muốn. Mỗi người anh em là trung gian cho Chúa hiện
diện và tỏ lộ ý muốn của Người.
“Anh em hãy tùng phục lẫn
nhau trong niềm kính sợ Đức Kitô” (Ep 5,21). Tùng phục có nghĩa là
có người trên là người anh em tôi và có người dưới là chính tôi đây. Bình
thường thì dễ vâng lời người anh em hơn trong sự thật, bởi lẽ đối với người
lãnh đạo ta có thể vâng lời vì sợ, vì lệ thuộc, vì chủ nghĩa cơ hội, còn đối
với người khác thì không! Họ không có quyền hành nào khác ngoài sự gần gũi của
người ở bên cạnh như người anh em.
Vâng phục anh em cũng có
nghĩa là không sống trong cộng đoàn chỉ theo tiêu chuẩn của quyền lợi và bổn
phận, chỉ theo những tiêu chuẩn của công bằng, bởi vì đôi khi cũng cần phải
biết chịu đựng một chút sự bất công, biết hạ mình, biết chờ đợi trong kiên nhẫn
chân lý rồi một ngày sẽ lộ hiện và đúng lúc. Thiếu khiêm tốn, tức là không chấp
nhận mình có lúc nên hèn kém, thì cũng khó có thể sống đức vâng phục Kitô giáo
được. “Đức Kitô đã tự hạ mình vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2,8).
Sau cùng, vâng phục lẫn
nhau còn là mảnh đất trên đó hạt giống đồng trách nhiệm trổ
sinh và nảy nở. Đó là cùng với các anh em khác thực thi trách nhiệm, ước muốn
thi hành trách nhiệm trong tinh thần hiệp thông và là khả năng đáp lại bằng
những quyết định và hành động trong sự liên đới với nhau. Dự phóng của một cộng
đoàn là thuộc về trách nhiệm chung của toàn thể các thành viên. Trách nhiệm
chung thì ngược lại với trách nhiệm cá nhân vốn chỉ là trách nhiệm riêng của
một người. Đáp lại ơn gọi của mình, những người thánh hiến quyết định rằng
trong cuộc sống của mình họ sẽ không lấy những quyết định quan trọng một mình,
nhưng luôn luôn làm trong tinh thần hiệp thông với những anh em khác, những
người cùng họ sống giao ước đã ký kết. Theo nghĩa đó, vâng phục, ngoài sự tuân
theo tu luật là một hình thức, còn là vâng phục cộng đoàn.
5. Vâng phục người lãnh đạo và những người phụ
tá
Bên cạnh tu luật và cộng đoàn như là trung gian
để tìm biết thánh ý Chúa còn có sự phục vụ (hay thừa tác vụ) của người lãnh đạo
và những người phụ tá cùng chia sẻ với ngài trách vụ đó. Người lãnh đạo có một
quyền bính, mộtexousía vốn luôn là một việc phục vụ cộng đoàn,
nghĩa là một việc làm hướng đến làm cho Kýrios, Đức Chúa, được
hiển trị trong cộng đoàn. Đó là hành động “thiêng liêng” của ngài, bởi vì – như
thánh Phanxicô Assisi đã nói – “chính Chúa Thánh Thần là vị tổng phụ trách đích
thực của dòng”, người phải điều hành mọi cộng đoàn. Chỉ những ai cầm quyền có
và dưỡng nuôi một đời sống thiêng liêng mới biết thăng tiến sự sống ấy nơi
những người được trao phó thuộc quyền mình. Đừng cản trở Thánh Thần, nhưng hãy
nhận ra sự hiện diện và ơn linh hứng của Ngài cả nơi người trẻ tuổi nhất và ít
kinh nghiệm, ưu ái những hành động của Ngài để chúng được đón nhận vào trong
tâm hồn của mỗi thành viên cộng đoàn, đừng bao giờ nghĩ mình là kẻ duy nhất
được Ngài linh hứng, và đây là ưu tư đầu tiên của người cầm quyền. Hơn thế nữa,
bề trên cả hay vị tổng phụ trách trong cộng đoàn là một khí cụ có đặc quyền
giải thích lề luật theo tinh thần tiên tri mời gọi người ta giải thoát mình
khỏi tinh thần vụ luật (luật dòng hay luật phúc âm) lạnh lùng, tầm thường hẹp
hòi.
Để thực thi việc phục vụ
thiêng liêng này, người lãnh đạo không được để mình bị cuốn hút hết vào các
công việc hành chánh, tổ chức, kinh tế, quản trị có thể cản trở hay thậm chí
cấm cản ta có thời giờ để hướng dẫn những người anh em được giao phó cho mình.
Quyền bính cơ chế không bao giờ đối nghịch cùng quyền bính thiêng liêng, bởi lẽ
nếu không ủng hộ hành động của Thần Khí, quyền bính sẽ không còn là quyền bính
nữa. Người cầm quyền là cơ hội, ký ức, bảng chỉ dẫn cho người ta sống đức vâng
phục, vì vâng phục luôn là vâng phục Thiên Chúa. Người cầm quyền phải học trước
hết vâng theo việc của Thiên Chúa làm nơi từng anh em chị em mình, và từ đó xác
nhận và khích lệ họ ngay cả khi làm với cung cách phê bình để họ có thể đáp lại
ý muốn của Thiên Chúa.
Nghệ thuật lắng nghe
Để thực hiện việc phục vụ của mình, người phụ
trách (người cầm quyền) trước hết phải biết lắng nghe không mệt mỏi anh em chị
em mình, ngoài việc lắng nghe tiếng Chúa. Lắng nghe là biết đón nhận anh chị em
bằng cách tự đặt mình sẵn sàng phục vụ họ theo các nhu cầu của họ. Quả thật,
trong anh em luôn có ai đó cảm thấy cô độc, ai đó cần được quan tâm, ai đó cần
được giúp đỡ để bộc bạch, để nói chuyện và cảm thấy được lắng nghe và được chăm
sóc. Người nào không biết lắng nghe anh em mình là kẻ nhìn thấy được thì cũng
không biết lắng nghe Thiên Chúa là Đấng không thấy được. Lắng nghe anh em với
một sự “đồng cảm” (không có nghĩa là đồng ý): cor ad cor.
Tiếng gốc latinh từ đó rút
ra từ “authority” (quyền bính) là augeo có nghĩa làm phát
triển, giúp tăng trưởng. Một quyền bính phải giúp cho người khác được phát
triển, trưởng thành hơn, tạo không gian cho người đó và giúp họ tiến bước trong
tự do và trong yêu thương. Tăng trưởng là nội dung và là sự thực hành của quyền
bính. Chăm sóc ân cần, quan tâm lo lắng, gần gũi chia sẻ với anh em bảo đảm cho
ta không thực thi quyền bính cách độc đoán và chuyên chế, tránh thao túng hay
điều khiển cách độc tài con người hoặc lương tri của người ta. Không cao ngạo,
kiêu căng, không khinh thường người khác.
Nghệ thuật nói chuyện
Bên cạnh nghệ thuật lắng
nghe, người phụ trách cũng cần biết nghệ thuật nói chuyện, tức là nghệ thuật
giáo hóa bằng lời uy lực và bằng hành động của chính mình, bằng cách sống của
mình. Người phụ trách giáo huấn bằng lời nói nhất là bằng gương sáng.[3] Nghệ thuật giáo hóa anh em chị em mình
là khả năng làm dấu chỉ đường cho họ đến với Chúa Kitô, với Phúc âm, với
Tu luật. Người đứng đầu cộng
đoàn, bởi chính địa vị của mình, thực ra luôn là đối tượng cho mọi người nhìn
lên, mong đợi, và họ luôn dạy dỗ, ngay cả khi không định như thế hay không ý
thức mình làm thế. Chính con người của họ là biểu tượng và được cảm nhận trong
tư cách đó. Đó là lý do tại sao bản thân người người phụ trách phải thực hành
hơn mọi người khác việc nguyện ngắm lời Chúa (lectio divina), để thấy
mình “được phó thác cho Lời ân sủng” (Cv 20,32), được củng cố mỗi
ngày một mạnh hơn cảm thức đức tin (sensus fidei) và cảm
thức về Hội
thánh (sensus ecclesiae) rất cần thiết để hướng dẫn người khác
và rốt cuộc để không làm anh em bị lạc đường và sống mâu thuẫn với Tin mừng. Bởi thế, người phụ trách phải biết
giáo huấn khởi đi từ Sách Thánh, phải biết giải thích và diễn giải truyền thống
trọng đại của đời tu, phải biết thấu đáo dự phóng của cộng đoàn mà Quy luật mô
tả và lịch sử tu hội đã vạch ra. Trong giáo huấn đó, ngoài việc thông truyền
lời Chúa trong Sách Thánh và trong truyền thống của Hộithánh, người phụ trách phải biết thuyết giải
Quy luật với niềm xác tín mạnh mẽ, đồng thời không cứng nhắc và bó buộc theo khuôn khổ khi diễn giải nhưng
luôn tự đặt mình trong dự phóng làm nền tảng cho đời sống cộng đoàn. Trước khi
có luật lệ hay tu luật, đã có những con người mà người lãnh đạo được giao phó
phải chăm sóc. Người phụ trách biết mình phải thi hành một sứ vụ cam go là
hướng dẫn các linh hồn và phục vụ bá tánh. Cho nên, có khi phải dịu dàng với
người này, nhưng biết khiển trách và thuyết phục người kia, tùy theo tính tình
và nhận thức của từng người mà thích ứng.[4]
Không
có những lời giáo huấn công khai, người phụ trách sẽ chỉ còn thực thi quyền bính cách
riêng tư, không còn là điểm quan tâm quy chiếu của cộng đoàn và như thế sẽ
thiếu đi cái lôgic của sự hiệp thông lẽ ra phải luôn được hiển lộ rõ ràng dễ
đọc thấy. Nếu không có giáo huấn công khai, ai có thể kiểm soát được giáo huấn
cá biệt?
Nghệ
thuật chỉ huy và quyết định
Người phụ trách cũng là người cầm quyền phải chỉ
huy và ra quyết định lựa chọn và yêu cầu những người dưới quyền phải vâng phục.
Hẳn nhiên, đầu tiên người phụ trách xin tư vấn đồng thời luôn lắng nghe anh em
chị em, và sau khi đã cầu nguyện, kêu cầu Chúa Thánh Thần và xem xét cẩn thận
để không có những lý do ích kỷ hoặc đam mê tăm tối nào đó chi phối, ngài mới
đưa ra quyết định. Quyết định sẽ được kiểm nghiệm trong thời gian, được kiểm
tra qua việc thi hành và kết quả phát sinh, có thể sẽ được xét lại và điều
chỉnh, nhưng chỉ khi thật xác quyết. Có khi để cho cộng đoàn ở trong tình trạng
mơ hồ thiếu nhất quyết có thể là một điều còn tồi tệ hơn là có một quyết định
sai lầm hoặc không phù hợp. Quyết định của vị lãnh đạo không phải luôn luôn là
kết quả của đa số trong Hội đồng. Có lúc người phụ trách có thể ngăn lại một
quyết định chung của cộng đoàn, lúc khác vị ấy có thể đảm lấy trách nhiệm đưa
ra một quyết định khác. Khi ấy, ngài sẽ phải giải thích lý do trước cộng đoàn khiến
ngài chọn lựa như thế, nhưng quyết định là nhiệm vụ của ngài.
Còn chỉ huy là một nghệ
thuật có ý nghĩa là muốn ủy thác, giao phó, trao phó một nhiệm vụ. Đây là một
nghệ thuật biết đặt tin tưởng vào người khác hơn là sự truyền lệnh, muốn nói
với họ rằng “anh (chị) có thể hoàn tất nhiệm vụ này, một nhiệm vụ hợp với Tin
mừng và vì nhu cầu của cộng đoàn”. Lệnh truyền phải luôn là một vang âm của Tin
mừng, và hơn nữa phải phù hợp với người đảm nhận, thích ứng với các khuyết
điểm, ưu điểm, khả năng của người ấy.[5]
Nghệ thuật khuyên răn, khiển trách, sửa lỗi
Nhiệm vụ của người phụ trách còn là đôi khi nhắc
nhở khuyên răn, khiển trách, sửa lỗi, như thánh Phaolô khuyên nhủ: “Hãy lên
tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe,
khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2Tm 4,2),
“vì họ chăm sóc linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với Thiên Chúa”
(Dt 13,17). Họ được đặt như người lính canh phòng trong cộng đoàn,
nên phải tỉnh thức, phải nhân danh Chúa cảnh báo những ai phạm tội và nói với
người ấy họ đang đi vào cõi chết. Người phụ trách phải yêu cầu và ủng hộ việc
sửa lỗi huynh đệ (“anh em hãy dạy dỗ, khuyên bảo lẫn nhau” (Cl 3,16)),
giúp anh chị em trong cộng đoàn trưởng thành sao cho họ “thừa hiểu biết, có khả
năng khuyên bảo nhau” (Rm 15,14). Nếu việc sửa lỗi huynh đệ trong
Chúa Kitô không tiến hành công khai trong cộng đoàn, thì trường hợp nào vị phụ
trách hay người đứng đầu cộng đoàn cũng đều có nhiệm vụ ấy. Sửa lỗi nhau là dấu
chỉ của tình bác ái, một tình bác ái tinh tế khôn ngoan, mang tính Phúc Âm và
nhân văn, để nhắc nhở nhau về trách nhiệm và đặt trở lại trong tình hiệp thông
với anh em. ■
––––––––––––––––––––––––––––––––––
[1] Tu Luật Bose, 5.
[2] Th. Gioan Phaolô II tại hội nghị toàn thể
của Bộ các Tu hội sống thánh hiến và các Tu đoàn tông đồ (20.11.1992). Acta
Apostolicae Sedis85 (1993), 105.
[3] Cf. Tu Luật th. Biển Đức 2,11-12: “Ai đã
nhận danh hiệu viện phụ, phải biết hướng dẫn môn đệ bằng hai hình thức giáo
hoá: nghĩa là lấy việc làm hơn là lời nói mà chỉ cho họ tất cả những gì lành
thánh.”
[4] Cf. Tu Luật th. Biển Đức 2,31-32.
[5] “Ngài chớ bao giờ quên phận mình dòn mỏng và
nhớ đừng đạp giập cây sậy đã gẫy (cf. Is, 42,3)” (Tu luật th. Biển Đức 64,13).
Luy Nguyễn Anh Tuấn

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét