Trang

Thứ Tư, 1 tháng 11, 2017

02-11-2017 : THỨ NĂM - TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN -CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI

02/11/2017
Thứ Năm đầu tháng, tuần 30 thường niên
CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI.


* Theo Tông Hiến ngày 10/08/1915, hôm nay mọi linh mục được phép cử hành hoặc đồng tế ba thánh lễ, miễn là cử hành vào những giờ khác nhau; có thể chỉ một ý lễ cho bất cứ ai và nhận bổng lễ, còn ngoài ra phải dành một lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời và một lễ cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng (không có bổng lễ đối với hai lễ này).
Cầu nguyện cho những người đã qua đời là một trong những truyền thống cổ kính nhất của Hội Thánh. Vì thế, sau ngày mừng các anh chị em đã được sống thân mật với Thiên Chúa trên thiên đàng, ta lại hướng về các anh chị em chúng ta đã qua đời trong niềm hy vọng phục sinh, và cùng hướng về “tất cả mọi người quá cố mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ”.

Lễ Nhất
Bài Ðọc I: Rm 6, 3-9
"Chúng ta phải sống đời sống mới".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại giống như vậy.
Nên biết điều này: con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi nữa, vì con người đã chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi. Mà nếu chúng ta đã chết với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Ðức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 5).
Hoặc đọc: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 4a).
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

Alleluia: Ga 11, 25-26
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ". - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 6, 51-59
"Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".
Ðó là lời Chúa.

Lễ Nhì
Bài Ðọc I: Kn 3, 1-9
"Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu".
Trích sách Khôn Ngoan.
Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Ðối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài đã chịu khổ hình, lòng cậy trông của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao: vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.
Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 24, 6-7bc. 17-18. 20-21
Ðáp: Lạy Chúa, con vươn linh hồn con lên tới Chúa (c. 1b).
Hoặc đọc: Lạy Chúa, phàm ai trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi (c. 3b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.
2) Xin cho lòng con được nhẹ bớt lo âu, và giải thoát con khỏi cảnh ưu tư phiền muộn. Xin Chúa coi cảnh lầm than khốn khổ của con, và tha thứ hết mọi điều tội lỗi. - Ðáp.
3) Xin gìn giữ mạng sống con và giải thoát con, đừng để con bẽ bàng vì đã tìm nương tựa Chúa. Nguyện cho lòng con vô tội và trung thứ bảo vệ con, vì con trông cậy vào Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

Alleluia: 2 Tm 2, 11-12a
Alleluia, alleluia! - Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Kitô, thì chúng ta cùng sống với Người; nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 23, 33. 39-43
"Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".
Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Ðó là lời Chúa.

Lễ Ba
Bài Ðọc I: Rm 5, 5-11
"Chúng ta đã nên công chính trong Máu của Người, và nhờ Người chúng ta được cứu khỏi cơn thịnh nộ".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần đã ban cho chúng ta. Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, họa chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.
Vậy phương chi bây giờ, chúng ta đã nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng nếu khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô. Và không những thế, chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hoà.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 7 và 8b và 9a. 13-14
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).
Hoặc đọc: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.
2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin nghe con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa con. - Ðáp.
4) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy trông đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và trông đợi Chúa. - Ðáp.

Alleluia: Ga 6, 39
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ý của Cha là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết Ta sẽ cho nó sống lại". - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 17, 24-26
"Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, (Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng:) "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".
Ðó là lời Chúa.

 Suy Niệm: Hiệp thông với cộng đồng các tín hữu Chúa
Là việc rất hợp lý, khi chúng ta mừng lễ các thánh ở trên trời ngày hôm qua, thì ngày hôm nay chúng ta lại kính nhớ các linh hồn ở trong luyện ngục. Ðó có thể nói chỉ là hai mặt của một mầu nhiệm, mầu nhiệm các thánh cùng thông công. Chúng ta tin rằng tất cả những ai đã an nghỉ trong Chúa vẫn còn hiệp thông với cộng đồng các tín hữu Chúa đang sống ở đời này. Hết thảy mọi người còn liên kết với Ðức Yêsu, thì cho dù họ chết hay họ sống, họ vẫn ở trong Thân Thể mầu nhiệm của Người. Và vì thế họ vẫn liên hệ với nhau như các tế bào và bộ phận trong cùng một thân thể.
Mầu nhiệm hiệp thông này, cộng đồng Dân Chúa không bao giờ muốn quên. Ðặc biệt mỗi khi họp nhau cử hành phụng vụ, những người sống vẫn nhớ đến những anh em đã ra đi trước về đời sau. Trong số những người này, theo quan niệm thông thường, một phần giờ đây đang ở trên Thiên quốc, tức là đã xứng đáng ở trước mặt Chúa, diện đối diện; phần còn lại đang chờ được tinh luyện thêm để đáng được chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa mà không phải hổ ngươi.
Người ta phân chia ra như vậy căn cứ vào lòng tin đánh giá rất cao sự thánh thiện của Thiên Chúa và sự yếu đuối của con người trong cuộc sống ở trần gian này. Nhưng chẳng ai có thể biết tỷ lệ giữa hai thành phần như thế nào. Chỉ biết đang khi Lời Chúa mạc khải về số các thánh trên trời thì nhiều không thể đếm được, chẳng có mạc khải nào về số các tín hữu ở trong luyện ngục. Ðó có thể là một điều phấn khởi cho chúng ta mỗi khi nghĩ đến số phận anh em đã ra đi trước chúng ta về đời sau. Hơn nữa, chúng ta còn có những bài sách Thánh như Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay cho phép chúng ta nghĩ về thế giới các linh hồn với lòng đầy tin tưởng.

A. Chúa Sẽ Tế Ðộ
Thật vậy, ngay Isaia cũng đã rao giảng cho Dân Chúa một niềm tin vô cùng phấn khởi. Có lẽ bấy giờ ông chỉ thấy Yêrusalem tiêu điều tang tóc vì bị quân thù tàn phá. Ông đã nói lên những lời tiên tri của Chúa để Dân đang khóc lóc tin tưởng vào Ðấng có thể tế độ. Ông nhìn thấy Chúa sẽ thết muôn dân một tiệc linh đình trên núi Sion. Các nước sẽ đổ về. Tiệc đầy cao lương. Rượu hãm từ lâu. Không còn thấy ưu sầu tang tóc nữa. Mọi người được lau sạch nước mắt. Dân Người hết mọi tủi nhục. Và đặc biệt nhất chính tử thần cũng bị vùi đi.
Như đã nói, có lẽ lúc đầu Isaia chỉ muốn đem lại cho con cái Yêrusalem một niềm tin vào sự thay đổi vận mạng trong một tương lai gần. Nhưng Thánh Thần đã đưa tâm trí ông đi thật xa và đã hướng dẫn tư tưởng ông về thời cánh chung, ông không nói riêng về vận mạng Yêrusalem nữa; nhưng đã nhìn thấy tương lai cuối cùng của moị dân tộc. Chúa sẽ ngự xuống trên Núi Thánh của Người để tế độ mọi dân nước. Người làm như một hoàng đế lớn mở tiệc đãi muôn dân thiên hạ, vì chính Người đã giơ tay gỡ đi cái khăn liệm phủ khắp muôn dân và cái màn sô đan khắp các nước, đã từng che mắt con người khi còn sống và phủ lên thân thể họ khi đã chết. Người sẽ vùi dập tử thần, là kẻ thù cuối cùng của con người. Người sẽ ban lại cho nhân loại nhục nhã và khóc lóc vì tội lỗi, vẻ mặt hân hoan sáng sủa của dân được cứu độ.
Viễn tượng ấy thật là táo bạo. Người ta không thể nghĩ ra được. Ðó thật là mạc khải của Chúa. Người cho chúng ta thấy lòng thương bao la của Người. Và cả quyền năng cao cả của Người nữa, vì không oai hùng và kỳ diệu sau khi vùi dập được tử thần, nhấc được khăn tang che khắp mặt đất, làm cho nhân loại khóc than, tủi hổ được hân hoan tươi sáng? Chắc chắn Isaia có thể tin như vậy là vì ông biết Chúa là Ðấng tín thành sẽ giữ mọi lời giao ước. Ngay từ ngày gọi Abraham, Người đã chẳng hứa sẽ chúc phúc cho dòng dõi của ông và muôn dân thiên hạ sao? Quang cảnh thời cánh chung mà Isaia mô tả trong bài sách hôm nay đã tựa vào Lời Chúa và vào chính Người. Thế nên ông đã kết thúc bằng những câu:
"Trong ngày ấy, người ta sẽ nói: này đây Thiên Chúa của ta; chính nơi Người, ta trông cậy... Ta hãy hân hoan sung sướng trong ơn tế độ của Người".
Tuy nhiên, đối với chúng ta hiện nay, niềm tin vào hạnh phúc mai ngày còn có những cơ sở rõ ràng và chắc chắn hơn nữa, mà bài Tin Mừng hôm nay là một. Chúng ta hãy nghe Lời Chúa theo tác giả Yoan.

B. Người Ta Sẽ Ðược Sống Ðời Ðời
Theo mạch văn, hôm ấy Ðức Yêsu đang nói với người Do Thái về Bánh hằng sống... Họ đã đến tìm Người vì hôm trước thấy phép lạ Người nuôi mấy ngàn dân với 5 cái bánh và 2 con cá. Người bảo họ hãy tìm kiếm Bánh hằng sống chứ đừng chỉ lo có bánh ăn vào rồi lại đói. Họ xin Người giới thiệu thứ Bánh ban sự sống muôn đời đó. Và Người đã làm cho họ hiểu: Bánh đó là chính Người đã được Chúa Cha sai đến trần gian. Người đã nói lời hằng sống cho họ. Họ hãy tin và giữ Lời Người để được sống muôn đời.
Nhưng Bánh hằng sống cũng còn là chính Người nơi mầu nhiệm Thịt và Máu Người... Ðó là điều Người muốn tuyên bố trong đoạn Tin Mừng Yoan hôm nay.
Ðối với chúng ta đã có đức tin, những lời này thật là sáng sủa. Nhưng đối với người Do Thái thời bấy giờ và người chưa có đức tin ngày nay, đó là những lời rất sống sượng. Ai mà chấp nhận được? Trước hết, ai có thể lấy thịt máu mình cho người khác ăn? Họa chăng chỉ có nơi những bộ lạc man rợ ăn thịt người. Và cho dù có như vậy đi nữa, thì kết quả cũng chẳng thể nào có sự sống đời đời.
Thế nên, ở đây Ðức Yêsu đã không nói theo nghĩa đen. Chẳng bao giờ Người nghĩ đến chuyện có thể đem máu thịt trong thân thể hữu hình của Người cho người ta làm của ăn và của uống. Tuy nhiên khi nói như vậy, Người đã chắc chắn sẽ ban Thịt Máu của Người cho người ta. Và Người đã làm điều đó trong cuộc tử nạn. Người đã nộp mình và đổ máu ra vì phần rỗi của mọi người.
Cụ thể, việc ấy đã xảy ra một lần trong lịch sử, bởi vì Ðức Yêsu chỉ có một thân thể hữu hình thôi. Thân thể thịt máu ấy, Người đã ban cho nhân loại khi chấp nhận chịu nộp trong tay lý hình để chúng làm cho Người phải đổ máu ra cho đến giọt cuối cùng. Nhưng vì là Thiên Chúa, Người còn làm được việc mà chẳng con người nào có khả năng làm. Người có thể làm cho việc ban Thịt và Máu cho loài người vượt ra khỏi khuôn khổ thời gian và không gian.
Quả vậy, chiều tối trước ngày chịu nạn, Người đã ngồi bàn ăn với môn đệ. Và trong bữa ăn này Người đã cầm lấy bánh rượu đưa cho môn đệ và bảo họ hãy cầm lấy mà ăn mà uống vì đó là Mình và Máu Người sẽ bị nộp và sẽ đổ ra vì phần rỗi của loài người. Lúc ấy, Lời Người nói trong đoạn Tin Mừng hôm nay mới rõ ràng. Người ta mới thấy làm sao Người có thể ban Thịt và Máu Người làm của ăn của uống. Và bí tích Thánh Thể này ban sự sống, vì Mình Máu Chúa ban nơi đây là để chịu nộp và đổ ra trong mầu nhiệm Thánh giá vì phần rỗi của loài người.
Chúng ta tin như vậy và không cần giải thích thêm. Chúng ta chỉ cần lưu ý một điểm: Chúa đã ban Thịt Máu Người không những cho người ta được sống, sống sự sống Thiên Chúa, mà còn cho được sống đời đời, là sống mãi mãi; không phải sống sự sống trần gian nhưng là sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Chính tư cách trường sinh này làm cho "Bánh hằng sống" của Chúa ban khác với mọi lương thực khác, kể cả manna mà người Do Thái đã được ăn nơi sa mạc, vì những kẻ ăn manna cũng đã chết; nhưng những người ăn Bánh của Chúa sẽ được sống muôn đời. Và để khẳng định rõ hơn, Người đã nói: Người sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết; nghĩa là Mình-Máu Chúa không giữ người ta trong sự sống ở đời này, mà chỉ đảm bảo sự sống đời đời của họ. Hiện nay sự sống ấy còn bị che giấu trong thân xác của họ, nhưng khi xác đất vật hèn này đã bỏ sự hư nát đi, sự sống ấy sẽ tỏ hiện và tồn tại muôn đời.
Ðó là niềm tin của chúng ta. Nó củng cố và giải thích niềm tin của Isaia cũng như của mọi người công chính. Ai ai cũng muốn sự sống đời đời và hạnh phúc trường sinh. Nhưng phải đợi Chúa Yêsu đến đem lại bảo chứng cho lòng trông đợi của người ta. Người thí mạng sống mình để tiêu diệt tội lỗi và sự chết. Việc phục sinh của Người làm chứng Thiên Chúa đã vùi dập tử thần và cất nhắc chiếc khăn tang trùm trên các nước. Người ban Thịt Máu Người cho chúng ta nơi Bí Tích Thánh Thể để chúng ta được sự sống đời đời ngay từ bây giờ. Chúng ta hãy đón nhận, giữ lấy và phát triển cho đến ngày đi vào cõi trường sinh. Bao giờ và thế nào?
Chúng ta hãy nghe lời thư Phaolô.

C. Anh Em Hãy Ở Kiên Vững
Các người Corinthô nói riêng và mọi tín hữu thời thánh Tông đồ nói chung đã có niềm tin như chúng ta. Họ tin rằng Lời Chúa hứa ban sự sống đời đời cho mọi kẻ ăn Thịt và uống Máu Người. Nhưng nhiều tín hữu của Chúa đã qua đời. Những người đang sống cũng sẽ chết nếu Chúa không mau trở lại vùi dập tử thần đang đe dọa đời sống con người. Phải hiểu Lời Chúa hứa làm sao?
Thú thật, thánh Phaolô bấy giờ cũng có lúc tưởng Ngày Chúa đến không còn xa. Về sau ngài không nghĩ như vậy nữa. Nhưng ngay từ đầu, ngài đã khẳng định không ai có thể đi vào sự sống đời đời với cái thân xác hư nát hiện nay. Nó phải biến đổi. Thân xác những anh em tín hữu đã qua đời đang biến đổi rồi. Thân xác những người đang sống mà gặp Ngày Chúa đến cũng sẽ biến đổi. Nó phải bỏ sự hư hoại để mặc lấy sự bất tử. Chúng ta không hiểu được sự biến đổi này thế nào. Nhưng chắc chắn sẽ có sự trường sinh, vì "nọc của sự chết là tội, mãnh lực của tội là Lề luật"; thế mà tạ ơn Thiên Chúa, Người đã ban cho chúng ta toàn thắng tất cả nhờ Ðức Yêsu Kitô. Chính Người đã giải thoát chúng ta khỏi Luật pháp, cứu chuộc ta khỏi tội lỗi, và toàn thắng sự chết cho chúng ta trong mầu nhiệm tử nạn - phục sinh. Thế nên ở nơi Người, chúng ta có sự sống đời đời - Người thông ban cho chúng ta nơi Bí tích Mình Máu Người. Chúng ta hãy kiên vững!
Lời khuyên này an ủi chúng ta ngày hôm nay khi nhớ đến các tín hữu đã qua đời. Chúng ta không chắc chắn về số phận cụ thể của họ bây giờ như thế nào. Nhiều người lại là thân bằng quyến thuộc của chúng ta. Nhưng chúng ta có niềm tin. Chúng ta tin vào Lời Chúa hứa ngay từ thời các tổ phụ Dothái, mà bài sách Isaia hôm nay còn nhắc lại. Ðặc biệt chúng ta tin vào Lời Chúa Yêsu Kitô. Các anh em tín hữu của chúng ta đã tin theo Chúa và lãnh nhận Bí tích Thánh Thể là Bánh ban sự sống đời đời, thì chúng ta tin họ đang chờ ngày sống lại, trong ngày sau hết. Và khi tin như vậy, chúng ta thấy rõ nghĩa vụ hiện nay của mình; vừa phải năng chịu lấy Mình Máu Thánh Chúa cho mình, vừa phải cậy trông Bí tích tử nạn - phục sinh có sức tế độ các linh hồn đã qua đời. Nhất là chúng ta phải chứng tỏ sức mạnh của Lời Chúa và của Mình Máu Thánh Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận bằng nếp sống phù hợp hơn với mầu nhiệm thánh giá cứu độ của Chúa Yêsu Kitô. Chính khi có nếp sống như vậy mà nghĩ đến các tín hữu đã qua đời để dâng lễ và cầu nguyện cho họ, thì chúng ta chắc chắn Chúa sẽ cất khăn tang đang phủ trên họ và lau sạch nước mắt cho họ để họ được mừng rỡ trong ánh sáng của sự sống trường sinh.
Với những tâm tình như vậy, chúng ta hôm nay hãy dâng lễ và cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, đặc biệt cho bà con quyến thuộc và bằng hữu của chúng ta.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Lễ Nhớ Các Linh Hồn
Bài đọcWis 3:1-9; Rom 5:5-11; Jn 6:35-40

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đối diện với cái chết để học biết cái sống
Không phải tình cờ mà Gíao Hội nhắc nhở các tín hữu: tháng 11 là tháng các linh hồn, và mời gọi mọi người suy niệm về sự chóng qua của cuộc đời và về sự chết.
- Nhìn qua cửa sổ chúng ta nhận ra ngay sự thay đổi của thời tiết: lá xanh hôm nào đã chuyển màu thành lá vàng, rồi lá rụng, và lá bị nghiền tan đi dưới bánh xe hoặc bị gió cuốn bay đi.
- Vào trong xe, chiếc xe mới mua năm nào, giờ đã trở nên cũ rích, sửa lên sửa xuống, rồi sẽ có một ngày chúng cũng bị quăng vào nghĩa địa... xe.
- Nhìn vào con người mình cũng thấy sự thay đổi: mới hôm nào còn là một thanh niên, thiếu nữ tươi trẻ đầy nghị lực, muốn đi đâu chỉ cần quyết định là đi, thế mà hôm nay tóc đã ngả màu muối tiêu, da đã điểm đồi mồi, mỗi sáng thức giấc phải cựa quậy mãi mà vẫn không đứng lên được, rồi sức khỏe và hơi thở cạn dần cho đến ngày người khác cũng đưa mình ra nghĩa địa.
- Có phải đời chúng ta cũng vô nghĩa như thế, để rồi chúng ta cũng vội vàng sống như một văn sĩ đã thốt lên: “Chơi xuân kẻo phí xuân đi?” Đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc đời? Phải sống làm sao để đạt đích đó?
- Các Bài đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta nhiều chất liệu để suy gẫm. Trong Phúc Âm, chính Con Thiên Chúa trình bày rõ ràng cho chúng ta về mục đích của cuộc đời và phải làm sao để đạt mục đích đó. Bài đọc I cho chúng ta thấy số phận về 2 cuộc đời: của những người công chính và của phường vô đạo. Bài đọc II trình bày nền thần học then chốt của Thánh Phaolô: Tất cả mọi người đều phạm tội và xứng đáng phải chết; nhưng vì tình thương Thiên Chúa đã cho con người Đức Kitô, Người Con duy nhất của Ngài để chết thay cho chúng ta. Chính vì Máu Con Chúa đã đổ ra nên chúng ta không phải chết, nhưng được sống muôn đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sách Khôn Ngoan trình bày hai niềm tin và hai lối sống.
Tin như nào sẽ sống như vậy, hậu quả là sẽ gặt hái những gì mình tin. Con người muốn biết sống để làm gì đã (mục đích) trước khi quyết định sống thế nào (phương tiện) để đạt đích.
1.1/ Niềm tin và lối sống của những người công chính. Họ tin:
(1) Chết không hết: nhưng bắt đầu cuộc sống trường sinh bất tử với Thiên Chúa. Ngài đã hứa sẽ xé chiếc khăn tang bao trùm muôn dân, và chiếc màn đen bao trùm muôn nước; và Ngài sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần (Isa 25:7).
(2) Chết là hạnh phúc và không còn đau khổ: Thiên Chúa hứa sẽ lau khô giòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên tòan cõi đất, Ngài sẽ xóa sạch nỗi ô nhục của dân Ngài. Một khi đã được đòan tụ với Thiên Chúa, chẳng cực hình nào có thể động tới họ được nữa, họ sẽ hưởng an bình (Isa 25:8).
(3) Mục đích của những đau khổ trong cuộc đời là để chứng tỏ đức tin và tình yêu của con người dành cho Thiên Chúa. Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao. Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Người. Người đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu.
(4) Phần thưởng của những người công chính: “Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy. Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là Vua của họ đến muôn đời.”
(5) Cách sống ở đời này: Nếu họ chung phần đau khổ với Thiên Chúa ở đời này, họ sẽ chung hưởng vinh quang với Ngài ở đời sau. “Những ai trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn.”
1.2/ Niềm tin và lối sống của những phường vô đạo. Họ tin:
(1) Chết là hết: Chẳng có sự sống lại và cũng chẳng có sự sống đời đời. Chẳng cần cầu nguyện cho người chết.
(2) Chết là đau khổ: là điều vô phúc. Khi xuôi hai tay nằm xuống còn hưởng thụ gì được nữa?
(3) Đau khổ của cuộc đời là vô nghĩa, cần phải tránh.
(4) Chết là một sự trừng phạt đau đớn nhất vì thần chết cướp đi tất cả sung sướng của cuộc đời.
(5) Cách sống ở đời này: Bao lâu còn sống, họ phải tìm đủ mọi cách để sống sung sướng và hưởng thụ ở đời này.
2/ Bài đọc II: Tại sao con người không phải chết đời đời?
2.1/ Mọi người đều phạm tội và vì vậy phải chết: Lề Luật mà Thiên Chúa ban cho con người có thể ví như con dao hai lưỡi như ông Môsê đã từng nói với dân:
Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ. Hôm nay tôi truyền cho anh em phải yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đi theo đường lối của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh em được sống, được thêm đông đúc, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, chúc phúc cho anh em trong miền đất anh em sắp vào chiếm hữu. Nhưng nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và sụp xuống lạy các thần khác và phụng thờ chúng, thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên đất mà anh em sắp sang qua sông Gio-đan để vào chiếm hữu. Hôm nay, tôi lấy trời đất làm chứng cáo tội anh em: tôi đã đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa. Anh em hãy chọn sống để anh em và dòng dõi anh em được sống (Dt 30:15-19).
Nhưng có ai trong cuộc đời này dám vỗ ngực tự nhận mình không bao giờ phạm một tội nào, và như thế, mọi người đều phải chết vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa.
2.2/ Tại sao con người không phải chết đời đời?
(1) Thiên Chúa bỏ qua hay xí xóa: Những người Do-Thái và Hồi-Giáo tin điều này vì họ không tin vào Đức Kitô. Một niềm tin như vậy mặc dù đề cao tình thương của Thiên Chúa, nhưng khinh thường trầm trọng đức công bằng của Ngài. Phải chăng Thiên Chúa xí xóa mọi tội lỗi của nhân lọai mà không cần đền trả? Tại sao Thiên Chúa không xí xóa luôn tội của quỉ thần?
(2) Kế họach Cứu Độ của Thiên Chúa: Để bảo vệ lòng thương xót và đức công bằng của Thiên Chúa, con người cần phải tin vào Kế Họach Cứu Độ của Ngài: Theo Kế Họach này:
- Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã chết thay cho con người: Khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
- Con người được giao hòa với Thiên Chúa: Vì chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra, chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết, để cho chúng ta được hoà giải với Người.
- Con người được hưởng sự sống đời đời: Vì chúng ta đã được hoà giải rồi, nên chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy.
- Nhưng không phải chỉ có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Cách duy nhất để đạt được cuộc sống muôn đời. Mặc khải quan trọng nhất của Thiên Chúa được trình bày rõ ràng trong 5 câu ngắn ngủi của Gioan (Jn 6:35-40):
3.1/ Đức Kitô là Bánh Trường Sinh: Đức Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” Bí Tích Thánh Thể là lương thực thần linh nuôi sống con người ngay từ khi còn ở đời này. Một khi đã được nếm thử lương thực thần linh, cuộc sống muôn đời thuộc về con người.
3.2/ Điều kiện cần có để đạt được cuộc sống muôn đời: Đứng trước Đức Kitô, con người có thể có 2 thái độ: tin hay không tin; và tùy vào hai thái độ, họ sẽ đạt được cuộc sống muôn đời hay bị hủy diệt muôn đời.
(1) Tin vào Đức Kitô:
- “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài. Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
- “Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
(2) Không tin vào Đức Kitô: Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin. Ai không tin, sẽ không được cuộc sống muôn đời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Phải biết chắc chắn sống để làm gì trước khi quyết định sống thế nào.
- Mục đích của cuộc đời là để về hưởng hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa.
- Để đạt mục đích này, con người cần phải tin vào Đức Kitô và thực hành những gì Ngài dạy.
- Tin làm sao sống làm vậy. Đừng tin một đàng, sống một nẻo. Nguy hiểm của những người muốn bắt cá hai tay: vừa muốn hưởng thụ đời này vừa muốn Nước Trời mai sau.
- Chúng ta phải làm gì cho những người thân đã chết? Họ là một phần của cuộc sống chúng ta. Làm sao chúng ta có thể có những gì chúng ta đang có nếu không nhờ sự đóng góp của họ: thân thể, đức tin, kiến thức, và tài sản vật chất… Cần cầu nguyện, xin lễ, và làm những việc lành để xin Thiên Chúa tha những hình phạt còn đang phải chịu. Hội Thánh cùng thông công: HT vinh quang (các thánh) – HT đau khổ (các linh hồn) – HT chiến đấu (chúng ta). Chỉ có 2 thành phần có thể lập công được là các thánh và chúng ta, các linh hồn không thể lập công được nên hòan tòan trông cậy vào lời bầu cử của các thánh và lời cầu nguyện của chúng ta.
- Yêu thương các linh hồn là yêu thương chính chúng ta, vì khi đã hòan tất giai đọan thanh tẩy, họ sẽ nhập đòan các thánh trên trời và bầu cử cho chúng ta khi tới phiên chúng ta phải chịu thanh luyện. Chúng ta hy vọng sẽ gặp được tất cả và sẽ sống với nhau muôn đời trên Thiên Đàng.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

02/11/17 THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 30 TN
Cầu Cho Các Đẳng Linh Hồn
Lc 23,33.39-43

BÀI HỌC TỪ TÊN TRỘM

“Tôi bảo  thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.” (Lc 23,43)
Suy niệm: Trên thập giá, Chúa Giê-su còn tiếp tục chịu một trong hai tên trộm sỉ nhục: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình và cả chúng tôi với!” Chúa không đáp lại lời nào. Có lẽ với tên trộm này, tất cả vấn đề chỉ là mau xuống khỏi cây thập giá, nhưng với Chúa Giê-su, Ngài muốn dẫn ta đi xa hơn nhiều. Khi hứa ban thưởng Nước Trời cho người trộm lành, Chúa cho anh thấy Ngài là Đấng Cứu Thế có thể đưa con người không phải xuống khỏi thập giá, nhưng đi vào đời sống vĩnh cửu với Ngài. Người trộm lành nhìn nhận mình đáng chịu phạt vì tội lỗi, và bày tỏ lòng tin vào Chúa, một người “không làm gì xấu” mà lại gánh chịu khổ hình như vậy. Anh đã nhận lãnh phần thưởng trọng hậu dành cho người có niềm tin và lòng sám hối hoán cải.
Mời Bạn: Cũng từ cây thập giá và cùng kề bên Chúa Giê-su, nhưng hai số phận khác nhau. Người trộm lành đã dạy cho ta một bí quyết quan trọng: sám hối là con đường nhanh nhất để ơn cứu độ của Chúa đến với mình. Nhờ lòng sám hối, thập giá trở thành điểm gặp gỡ giữa ta với Đấng Cứu Độ, để Ngài dẫn ta vào Vương Quốc của Ngài.
Chia sẻ: Khi gặp đau khổ thử thách, đức tin của tôi có bị giao động không? Tôi đã oán trách Thiên Chúa hay thêm tin tưởng, phó thác, yêu mến Ngài?
Sống Lời Chúa: Tôi đón nhận Thánh Giá mỗi ngày với tâm tình khiêm tốn, và hiến dâng những đau khổ trong đời sống để đền tội mình và nhân loại.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã ban thưởng Nước Trời cho kẻ trộm có lòng thống hối. Xin ban cho chúng con lòng thống hối chân thành, để đáng hưởng nhờ lòng Chúa xót thương. Amen.
(5 phút Lời Chúa)


Sao Ngài b rơi con? (2.11.2017 Th năm: Cu cho các tín hu đã qua đi)
Cái chết ch là nhp cu đưa ta vào cõi sng. Con người sng là đ chết, và chết là đ sng mãi, sng mt cuc sng hnh phúc tuyt vi hơn nhiu


Suy nim:

Ðoạn Tin Mừng trên đây kể lại cho ta
cuộc đời Ðức Giêsu vào những giây phút cuối.
Ngài đã đón nhận cái chết một cách không dễ dàng
sau nhiều giờ hấp hối trên thập giá.
Ðau đớn đến tột cùng, nhục nhã và cô đơn kinh khủng.
Có vẻ lúc đó Cha lại vắng mặt và làm thinh.
“Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Ðức Giêsu có cảm tưởng như Cha bỏ rơi mình
vào chính lúc Ngài vâng phục Cha, chấp nhận cái chết.
Chúng ta cần nghe được tiếng kêu xé ruột của Ðức Giêsu.
Ngài kêu bằng tất cả sức lực còn lại của mình.
Ngài kêu một tiếng lớn, rồi tắt lịm.
Chúng ta thích thấy Ðức Giêsu chết bình an hơn,
chết anh hùng hơn và chết lành hơn.
Nhưng Ðấng vô tội, chết thay cho cả nhân loại,
đã chẳng được hưởng chút êm đềm nào từ Thiên Chúa.
Lời cuối của Ngài là một tiếng gọi: Lạy Thiên Chúa của con,
một câu hỏi tại sao mà Ngài không rõ câu trả lời.
Ðức Giêsu đã nhắm mắt trong niềm tin trần trụi.

Tháng 11 được dành để nhớ đến những người đã khuất.
Ðã có thời người ta cho rằng theo đạo là bất hiếu,
vì không lo giỗ chạp, cúng vái, nhang đèn...
Nhưng trong niềm tin của Kitô giáo,
điều người chết cần không phải là đồ ăn hay vàng mã,
mà là cầu nguyện, hy sinh, việc lành và thánh lễ.
Ngọn lửa luyện ngục tuy gây nhiều đau đớn không nguôi,
nhưng có sức tẩy luyện, biến đổi và thánh hóa.
Có thể nói các linh hồn ở luyện ngục có phúc hơn ta,
vì họ biết chắc chắn sớm muộn gì cũng vào thiên đàng.
Chính vì thế họ vui lòng để cho tình yêu Chúa thanh lọc,
và càng lúc càng trở nên hoàn hảo hơn để đến gần bên Chúa.
Chúng ta cần sống mầu nhiệm các thánh thông công.
Các thánh trên trời chuyển cầu cho Hội Thánh dưới thế.
Hội Thánh dưới thế chuyển cầu cho các linh hồn đau khổ.
Tất cả liên đới với nhau như các chi thể của một thân thể.

Trong tháng này Hội Thánh mời chúng ta đi viếng nghĩa trang
để cầu nguyện cho các người thân yêu đã lìa đời.
Những hàng mộ nói với ta về cái chết không sao tránh được.
Dù già hay trẻ, dù khỏe hay đau, dù giàu hay nghèo,
nhưng cuối cùng cái chết vẫn là điểm hẹn.
Cái chết được chia đều cho mọi người.
Nghĩa trang có phải là nơi an nghỉ cuối cùng không?
Con người còn gì khi thân xác nát tan trong lòng đất?
Nhờ Ðức Giêsu phục sinh mà mầu nhiệm cái chết được vén mở.
Cái chết chỉ là nhịp cầu đưa ta vào cõi sống.
Con người sống là để chết, và chết là để sống mãi,
sống một cuộc sống hạnh phúc tuyệt vời hơn nhiều.
Cùng với thánh Phanxicô, xin gọi cái chết là chị - Chị Chết.
Ước gì người Kitô hữu học được nghệ thuật sống
nhờ biết đón lấy cái chết trong niềm hy vọng tin yêu.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn
vì phải chia tay với những người thân yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý
nhưng như một hành trình
trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống viên mãn.
Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống. Amen.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2 THÁNG MƯỜI MỘT
Từ Bụi Đất Trở Về Bụi Đất
“Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài” (Tv 24,1). Mọi sự đều thuộc về vị Chúa Tể của vũ hoàn. Ngài đã tạo dựng nên tất cả. Trong vũ trụ này, trái đất là trung tâm. Và trên trái đất này, con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài, con người được dựng nên có nam có nữ.
Đấng Tạo Hóa đã nói với con người: “Hãy sinh sôi nảy nở đầy mặt đất và hãy cai quản nó” (St 1, 28). Xuyên qua dòng lịch sử, con người đã sinh sôi nảy nở đầy mặt đất và thống trị mặt đất. Tuy nhiên, đồng thời con người cũng bị mặt đất này chế ngự. Con người bị mặt đất chế ngự nơi cái chết. Tất cả các nghĩa trang trên thế giới này làm chứng điều đó. Con người trở về bụi đất – nơi mà từ đó con người được dựng nên (St 3, 19). Hôm nay, Giáo Hội suy tư về mầu nhiệm sự chết – là định mệnh chung của mọi con người trên cõi đời này. Tuy nhiên, trái đất này thuộc về Chúa! “Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài” (Tv 24, 1).
Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, có thể nào con người thuộc về trái đất mãi mãi được không? Có thể nào con người chỉ thuộc về trái đất này mà thôi? Có thể nào trái đất này là định mệnh độc nhất của con người? Có thể nào khi con người trở về bụi đất thì mọi sự cũng … chấm hết và không còn gì nữa?
Tất cả các nghĩa trang trên thế giới này đều mang trong lòng chúng những dấu hỏi sừng sững và bất tuyệt ấy. Nếu trái đất là của Chúa thì lẽ nào con người lại không là của Chúa – con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài?
Sự thật này được trao ban cho Giáo Hội trong Chúa Kitô và qua các Tông đồ là những vị đã được sai đi để làm Phép Rửa và giảng dạy nhân danh Ngài: “Như Cha đã sai con vào thế gian, thì con cũng sai họ vào thế gian” (Ga 17,18). Sự hiệp nhất của chúng ta không chỉ nhằm cho chúng ta, nhưng đúng hơn cho toàn thế giới, để thế giới có thể tin rằng Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến để cứu độ nhân loại. (Ga 17, 21.23)
Hiệp nhất là nguồn mạch hoan lạc và bình an. Trái lại, chia rẽ và bất hoà, nhất là thù hận, thì hoàn toàn đối nghịch với hiệp nhất. Đó là những sự dữ – và đầu mối của chúng là Satan.


Hạnh Các Thánh
2 Tháng Mười Một
Lễ Cầu Cho Các Linh Hồn


Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, "Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ." Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.

Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.

Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công Ðồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.

Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.

Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.

Lời Bàn

Có nên cầu nguyện cho người chết hay không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyêän tội. Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách nối liền với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.

Lời Trích

"Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục--hoặc ngay cả 'một thời gian ngắn của hỏa ngục.' Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác... Thánh Catherine ở Genoa, vị huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng 'lửa' luyện tội là tình yêu Thiên Chúa 'nung nấu' trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. Ðó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng với Ðấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, họ đau khổ vì nỗi mơ ước được kết hợp đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn"(Leonard Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).


Trích từ NguoiTinHuu.com


2 Tháng Mười Một
Bên Kia Sự Chết


Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: "Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh".

Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời... Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy.

Cần được thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Ðức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của mình.

Ðể giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp "các thánh thông công", Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như sau: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh...".

Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Ðồng viết như sau: "Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha...". Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.

Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết... Cái chết không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.

Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống... Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.

Yêu thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Ðó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Ðức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.

Trích sách Lẽ Sống


Lectio Divina: Lễ Các Linh Hồn – Gioan 6:37-40

Thứ Năm, 2 Tháng 11, 2017

Lễ Các Linh Hồn
Bánh hằng sống
Ga 6:37-40


1.  Bài Đọc

a)  Lời nguyện mở đầu: 


Lạy Thần Khí Thiên Chúa, xin hãy đến từ bốn phương trời và thổi hơi vào những người đã chết này cho họ được hồi sinh (Êd 37:9).  Lạy Chúa Thánh Thần, xin Người hãy đến, xin hãy thổi vào lòng trí và linh hồn chúng con, để chúng con có thể trở thành một tạo vật mới trong Đức Kitô, trưởng tử của sự sống đời đời.  Amen.



b)  Bài Phúc Âm 

Chúa Giêsu phán cùng dân Do Thái rằng:  “Tất cả những người Chúa Cha ban cho Ta đều sẽ đến với Ta, và ai đến với Ta, Ta sẽ không loại ra ngoài, vì Ta tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý Ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ta.  Mà ý của Đấng đã sai Ta là tất cả những kẻ Người đã ban cho Ta, Ta sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.  Thật vậy, ý của Cha Ta là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”



c)  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Để Lời Chúa có thể thấm nhập vào lòng và soi sáng đời sống chúng ta.



2.  Suy Gẫm

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Trong Tin Mừng Gioan, quan điểm căn bản liên quan đến Đức Giêsu và sứ vụ của Người là Ngôi Lời Nhập Thể được Chúa Cha sai xuống thế gian để ban cho chúng ta sự sống và ơn cứu rỗi cho những kẻ lạc lối.  Tuy nhiên, thế gian chối từ Ngôi Lời Nhập Thể.  Lời mở đầu của sách Tin Mừng cho chúng ta thấy ý nghĩ này (Ga 1:1-18), Thánh Sử sẽ dần dần giải thích trong câu chuyện Tin Mừng.  Các sách Tin Mừng Nhất Lãm cũng thế, theo cách riêng của họ, công bố cùng một Tin Mừng.  Người ta chỉ cần nghĩ về dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền bị mất (Lc 15:1-10); hoặc lời công bố:  Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mc 2:17).
Ý tưởng này cũng được tìm thấy trong đoạn Tin Mừng này:  Ta từ trời mà xuống, không phải để làm theo ý Ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ta (Ga 6:38).  Đây là ý của Cha Ta, là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời (Ga 6:40).  Những từ ngữ chính trong sách Tin Mừng Gioan là:  Thấy và tin.  Động từ thấy, ngụ ý và mặc nhiên có nghĩa là tin vào Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến.  Thái độ này của đức tin mang đến cho người tín hữu có sự sống đời đời.  Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, ơn cứu rỗi thế gian đã được thực hiện bởi việc Chúa Kitô xuống thế lần thứ nhất qua việc nhập thể và sự sống lại của Đấng đã để cho mình bị treo trên thập giá.  Lần quang lâm thứ hai của Đức Kitô vào ngày sau hết sẽ hoàn tất mầu nhiệm ơn cứu độ.

Bài Tin Mừng ngày hôm nay được trích từ phần nói về mầu nhiệm Chúa Giêsu (Ga 6:1-12).  Văn bản đưa chúng ta, lần thứ hai trong sách Tin Mừng Gioan, đến miền Galilê, vào thời điểm Lễ Vượt Qua:  Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia biên hồ Galilê…  Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái (Ga 6:1,4).  Có đông đảo dân chúng đi theo Người, (Ga 6:2) và Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng đi theo Người, hóa bánh ra nhiều.  Đám đông muốn tôn Người lên làm vua, nhưng Chúa Giêsu lại lánh mặt, đi lên núi một mình (Ga 6:15).  Sau một lúc tạm dừng để cho chúng ta chiêm ngắm Chúa đi trên mặt nước (Ga 6:16-21), câu chuyện tiếp tục vào ngày hôm sau (Ga 6:22), đám đông dân chúng đang tiếp tục chờ đợi và tìm kiếm Chúa Giêsu.  Sau đó đến bài giảng về bánh hằng sống và lời cảnh báo của Chúa Giêsu để có được lương thực trường tồn (Ga 6:27).  Chúa Giêsu xác định chính Người là bánh hằng sống và cũng như việc bánh manna đã được ban cho dân Chúa qua ông Môisen, Người chính là bánh đích thực bởi trời và đem lại sự sống cho thế gian (Ga 6:30-36).  Đây là bối cảnh mà trong đó những lời của Chúa Giêsu được nói ra và chúng ta đang dùng trong bài Suy Gẫm Lời Chúa của chúng ta (Ga 6:37-40).  Trong bối cảnh này, chúng ta cũng gặp phải một loại chống đối mới và từ chối mới về sự mặc khải của Chúa Kitô là bánh ban sự sống (Ga 6:41-66).

Lời của Chúa Giêsu liên quan đến tất cả những ai đến với Người, lặp lại lời mời gọi của Thiên Chúa dự phần vào những ơn ích của bàn tiệc giao ước (Is 55:1-3).  Chúa Giêsu không hề từ chối những ai đến với Người, thay vào đó Người lại ban cho họ sự sống đời đời.  Thật ra, sứ vụ của Người là đi tìm kiếm và cứu rỗi những kẻ lạc lối (Lc 19:27).  Chúng ta được nhắc nhở về điều này trong câu chuyện cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người phụ nữ Samaria tại giếng Giacóp (Ga 4:1-42).  Chúa Giêsu đã không từ chối người phụ nữ Samaria, mà lại bắt đầu một cuộc đối thoại “mục vụ” với người phụ nữ là người đến giếng nước để múc lấy nước vật chất và ở đó gặp một người đàn ông, một tiên tri và Đấng Mêssia hứa ban cho bà ta nước hằng sống (Ga 4:13-15).  Trong đoạn Tin Mừng của chúng ta, chúng ta cũng thấy có một cấu trúc tương tự:  một đàng dân chúng đi tìm thức ăn vật chất và mặt khác Chúa Giêsu ban cho họ một bài giảng tâm linh dài về bánh trường sinh.  Người chứng cho Chúa Giêsu là người ăn bánh của ý muốn Thiên Chúa (Ga 4:34) nhắc lại lời giáo huấn của Chúa trong đoạn Tin Mừng này (Ga 6:38).

Tại bữa tiệc ly, Chúa Giêsu giảng bài giảng này lần nữa trong chương 17.  Chính Đức Giêsu là bánh hằng sống (Ga 17:2), che chở và gìn giữ tất cả những người mà Chúa Cha đã ban cho Người.  Không một ai trong họ bị hư mất, trừ đứa con hư hỏng diệt vong (Ga 17:12-13).

b)  Một vài câu hỏi

để hướng dẫn cho phần suy gẫm và ứng dụng của chúng ta:

·    Ngôi Lời Nhập Thể được sai đến thế gian bởi Chúa Cha để ban cho chúng ta sự sống, nhưng thế gian chối từ Ngôi Lời Nhập Thể.  Tôi đã có đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng ban sự sống đời đời vào trong đời sống của tôi chưa?  Bằng cách nào?
·    Ta tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý Ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ta (Ga 6:38).  Trong Đức Giêsu, chúng ta trông thấy sự vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha.  Tôi có đã nhập tâm đức tính này trong đời sống của tôi và sống với đức tính ấy hằng ngày chưa?
·    Tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì sẽ được sống muôn đời (Ga 6:40).  Đức Giêsu là ai đối với tôi?  Tôi có cố gắng nhìn thấy Người với con mắt đức tin, lắng nghe lời Người, chiêm niệm cách sống của Người không?  Sự sống muôn đời có ý nghĩa gì đối với tôi?

3.  Cầu Nguyện

a)  Thánh Vịnh 23

CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.

b)  Lời nguyện kết

Thân lạy Chúa, Đấng đang ngự tại bàn tiệc của Lời Chúa và của bánh hằng sống, xin hãy nuôi dưỡng chúng con để chúng con có thể tăng trưởng trong tình yêu, xin ban cho chúng con biết đón nhận sứ điệp của Chúa vào trong lòng để chúng con có thể trở thành men và khí cụ cho ơn cứu độ trên thế gian.  Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.  Amen.

4.  Chiêm Niệm

Chiêm niệm là biết làm thế nào để giữ vững tâm trí của mình với Chúa, Đấng bởi Lời Chúa biến đổi chúng ta trở thành con người mới luôn làm theo ý muốn của Chúa.  “Biết được những điều này, nếu các con thực hành, thì thật phúc cho các con.” (Ga 13:17) 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét