13/09/2020
Chúa Nhật 24 Thường Niên
năm A.
(phần I)
BÀI ĐỌC I: Hc 27, 33 – 28, 9 (Hl 27,
30 – 28, 7)
“Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì
khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha”.
Trích sách Huấn Ca.
Thịnh
nộ và giận dữ, cả hai đều đáng ghê tởm, người có tội đều mắc cả hai. Ai muốn
báo thù, sẽ bị Chúa báo thù, và Chúa nghiêm trị tội lỗi nó. Ngươi hãy tha thứ
cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha. Người này
tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao? Nó chẳng thương
xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao? Nó là
xác thịt mà tích lòng thịnh nộ, thì dám xin Chúa tha thứ làm sao? Ai sẽ khẩn cầu
cho tội ác nó?
Ngươi
hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù: hãy nhớ đến sự hư nát và sự chết,
hãy trung thành với các giới răn. Hãy nhớ kính sợ Thiên Chúa, và đừng giận ghét
kẻ khác. Hãy nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ
khác. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 102, 1-2. 3-4. 9-10.
11-12
Đáp: Chúa là Đấng từ bi và hay
thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân (c. 8).
Xướng:
1)
Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng
thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân
huệ của Người. – Đáp.
2) Người
đã thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc
mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. –
Đáp.
3) Người
không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. Người không xử với
chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi.
– Đáp.
4)
Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân hậu Người còn siêu
việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người
đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 14, 7-9
“Dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều
thuộc về Chúa”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Rôma.
Anh em
thân mến, không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho
mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa; nếu chúng ta chết, là chết cho
Chúa. Vậy, dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa. Vì lẽ ấy, nếu Đức Kitô
đã chết và sống lại, là để cai trị kẻ sống và kẻ chết. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa,
lời của Chúa là thần trí và là sự sống, Chúa có lời ban sự sống đời đời. –
Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 18, 21-35
“Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần,
nhưng đến bảy mươi lần bảy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy,
Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con,
con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?” Chúa Giêsu đáp:
“Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
“Về vấn
đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ.
Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này
không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết
nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: ‘Xin vui lòng cho
tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả’. Người chủ động lòng thương,
trả tự do và tha nợ cho y.
“Khi
ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà
nói rằng: ‘Hãy trả nợ cho ta’. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn
rằng: ‘Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh’. Y
không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong.
“Các bạn
y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu
truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến vào bảo rằng: ‘Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết
nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn
ngươi như ta đã thương ngươi?’ Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến
khi trả hết nợ.
“Vậy
Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con
không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: Phải
Tha Thứ Không Cùng
Các bài đọc hôm nay không hoàn toàn tiếp nối tư tưởng
của ngày Chúa Nhật trước; nhưng cũng bàn về một vấn đề tương tự. Chúng ta đã thấy
trong Chúa Nhật trước Lời Chúa dạy bảo chúng ta những thái độ phải có đối với
người anh em phạm tội làm cực lòng cộng đoàn tín hữu. Hôm nay Lời Chúa muốn
giáo huấn chúng ta phải xử trí thế nào đối với người anh em lỗi phạm đến mình.
Chúng ta sẽ thấy sách Huấn Ca của Cựu Ước chuẩn bị để lời loan báo Tin Mừng của
Chúa Cứu thế được đón nhận như thế nào? Và thánh Phaolô đã có những tư tưởng
nào để giúp đỡ chúng ta thi hành huấn thị của Chúa Cứu thế?
A. Không Ðược
Giận Anh Em
Sách Huấn ca thuộc loại sách khôn ngoan của Cựu Ước.
Ðó là loại sách - có thể nói - muốn bắt chước lối văn triết học đạo đức của
trào lưu văn minh thời sau Lưu đày. Người ta bàn đến những thói ăn cách ở xứng
đáng với thiên chức làm người "linh ư vạn vật". Nhưng ở các dân tộc kế
cận, lý tưởng khôn ngoan chỉ tà tà mặt đất và không nhìn xa hơn cuộc sống trần
gian của con người. Còn nơi Dân Chúa, những lời dạy khôn ngoan thường được đưa
lên tới Chúa và được coi như phát xuất từ Người. Ðoạn sách Huấn ca hôm nay là một
thí dụ rõ ràng.
Quyển sách này có cái tên như vậy vì nó được dùng
như là thủ bản để giáo huấn Dân Chúa. Nó được viết theo kiểu thi ca cho dễ đọc
dễ nhớ. Nó đề cập tới mọi khía cạnh trong đời sống con người. Ðoạn sách đọc hôm
nay bàn về vấn đề giận hờn.
Mở đầu, sách Huấn ca nói luôn: oán hận giận hờn thảy
là quái gở, tội nhân thường nổi tiếng cả hai. Ðó là một nhận xét thông thường.
Kẻ tội lỗi vẫn có lòng hờn giận. Và kẻ khôn ngoan phải thấy đó là điều quái gở.
Nhưng lập tức tác giả sách Huấn ca đã đem ánh sáng mạc khải chiếu trên hiện tượng
ấy trong đời sống con người. Ông thấy ngay điều ấy không đẹp lòng Chúa và Người
sẽ xử cứng với kẻ giận hờn. Thế nên ông khuyên người ta phải biết tha thứ cho
anh em để được Chúa thứ tha tội lỗi. Ông không biết diễn tả hơn thế nào. Ông chỉ
thấy người giận hờn sẽ không được tha thứ. Và ông khuyên người ta hãy nghĩ đến
ngày chung thẩm, ngày đến trước mặt Chúa mà tha thứ cho anh em. Vì không thể
nào Chúa có thể rộng rãi với người không biết tha thứ. Và lúc ấy có ai cầu bầu
cho kẻ nhẫn tâm như thế? Do đó tác giả sách Huấn ca khuyên người ta hãy vâng lệnh
Chúa và giữ giao ước của Người mà biết tha thứ và bỏ qua các xúc phạm của anh
em.
Lời khuyên ấy vượt xa mọi lý lẽ thế gian và rõ ràng
đã chuẩn bị cho người ta đón nhận giáo lý của Chúa Cứu thế. Nó làm nổi bật tính
cách đạo đức của sách khôn ngoan trong Cựu Ước và còn đáng dùng để giáo huấn
Dân Mới của Chúa. Nó khiến chúng ta liên tưởng tới câu kinh Lạy Cha: "Xin
Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con", để khi gặp
cơn bực tức giận hờn, chúng ta biết suy nghĩ đạo đức hầu việc nhớ đến Chúa sẽ
làm cho chúng ta nguôi giận và tha thứ.
B. Phải Tha
Thứ Không Cùng
Tông đồ Phêrô có phải là người nóng tính nhất không?
Có lẽ ông hăm hở muốn thi hành Lời Chúa hơn hết mọi người. Cũng có thể vì địa vị
ông năng gặp người xúc phạm và ông phải tha thứ. Nên sách Tin Mừng viết ông đã
đến bên Ðức Yêsu và thưa: Thưa Thầy khi anh em xúc phạm đến con, thì con phải
tha đến mấy lần? Ðến 7 lần chăng?
Ðức Yêsu đã không ngần ngại đáp: Ta không nói đến 7
lần, nhưng đến 70 lần 7. Có thể Người đã muốn lấy lại một lời trong sách Khởi
nguyên (4,24), Lamek tuyên bố "luật rừng" thời bấy giờ: phải báo thù
đến 70 lần 7. Về sau Thập giới đã thu hẹp lại và chỉ cho phép người ta lấy mắt
trả mắt, răng đền răng. Nhưng đến Ðức Yêsu, Người tuyên bố phải tha thứ và yêu
thương cả kẻ thù địch. Và câu Người khẳng định trên kia, phải tha thứ đến 70 lần
7, chỉ có ý dạy phải tha thứ mãi mãi, tha không bao giờ cùng.
Tại sao như vậy, thì Người đã kể một dụ ngôn. Có tên
"bầy tôi" kia mắc nợ hoàng đế một vạn nén vàng. Một số tiền khổng lồ
không thể trả nổi. Hoàng đế ra lệnh không những bán của cải anh ta mà còn bán cả
anh ta cùng vợ con. Chắc chắn sẽ chẳng được bao nhiêu. Nhưng đó là biện pháp cuối
cùng, biện pháp chỉ có dân ngoại mới làm. Và như vậy để nói lên tính cách khắt
khe của hình phạt vì món nợ thật lớn lao.
Nhưng tên bầy tôi đã vội quỳ mọp xuống xin nhà vua
thư thả cho, để anh sẽ trả hết nợ. Hoàng đế làm quá điều anh xin. Ông tha trắng
cho anh. Lẽ ra anh phải sung sướng vì ân huệ lớn lao vừa được. Nhưng lòng anh
không tốt! Ơn bất ngờ kia không cảm hóa được anh tý nào. Anh đã túm cổ họng người
bạn đồng liêu chỉ nợ anh có 100 đồng bạc. Số tiền này là gì sánh với một vạn
nén vàng? Thế mà anh đã bỏ tù bạn cho đến khi lấy lại được một trăm đồng bạc.
Thái độ của anh thật ghê tởm! Và ai ai cũng thấy phải
phạt anh ta mới được. Vậy Cha trên trời cũng sẽ xử với chúng ta như thế. Bởi vì
chúng ta cũng là tội nhân ở trước mặt Người. Và tội chúng ta nhiều và nặng vô
cùng. Thế mà Người vẫn tha thứ. Trông khi đó chúng ta lại không biết bỏ qua một
vài xúc phạm nhỏ bé của anh em!
Bài dạy của Chúa Yêsu rõ ràng sáng sủa. Tuy như muốn
nối dài và kiện toàn giáo lý của sách Huấn ca, nhưng không thiếu điều khác biệt.
Nhất là rõ ràng Chúa Yêsu không nại đến ngày chung thẩm và đời sau. Việc Thiên
Chúa tha thứ cho người ta không đi sau và tùy như việc người ta tha thứ cho anh
em. Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trước. Và Người muốn chúng ta thấm ơn
Người và theo gương Người mà tha thứ cho anh em.
Thế thì tại sao Kinh Lạy Cha không làm nổi bật tư tưởng
này, mà lại như muốn kéo dài giáo lý của sách Huấn ca? Kinh ấy dạy: Xin Cha tha
nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Chúng ta tưởng ở đây
như có một so sánh hoặc như có một đòi hỏi bó buộc Thiên Chúa phải tha nợ cho
chúng ta như chúng ta đã tha thứ cho anh em. Nhưng không, đây chỉ là một điều
kiện, một thái độ chuẩn bị, chứng tỏ lòng chúng ta khi tha thứ cho anh em cũng
ao ước được Chúa tha thứ rộng rãi cho mình. Người có tha thứ mới thật lòng muốn
được tha thứ và mới đáng nhận được ơn tha thứ. Ơn này Thiên Chúa đã ban sẵn cho
mọi người nơi Ðức Yêsu Kitô. Người ta sẽ nhận được khi đến với tâm hồn biết tha
thứ. Và người ta phải nhìn vào lòng thương xót tha thứ của Chúa để biết tha thứ
cho anh em.
Ðiều này cũng được thánh Matthêô nhấn mạnh trong câu
vị hoàng đế nói với kẻ bầy tôi bất nhân bất nghĩa: "Ngươi không phải
thương xót bạn đồng liêu với ngươi như chính Ta đã thương xót ngươi sao?"
Và như vậy rõ ràng giáo lý của Chúa Yêsu là người ta phải nhìn vào lòng Chúa
thương xót đã tha thứ rộng rãi quảng đại cho người ta để người ta cũng phải
thương xót tha thứ cho anh em trong mọi xúc phạm thực ra quá nhỏ mọn sánh với
các xúc phạm của người ta đối với Chúa.
Và cũng một tư tưởng nữa trong giáo lý của Ðức Kitô:
Người ta chỉ là "đồng liêu" với nhau, hoặc như lời sách Huấn ca, người
ta hết thảy đều là xác thịt. Tha thứ có là việc đáng kể gì sánh với việc Thiên
Chúa tha thứ cho ta, vì Người là Ðấng Thánh khác hẳn với chúng ta và trổi vượt
trên chúng ta bội phần? So sánh Người với chúng ta như vị hoàng đế với kẻ bầy
tôi chỉ là một kiểu nói theo ngôn ngữ loài người. Khó tìm được lối so sánh nào
mạnh hơn. Nhất là nếu còn muốn gợi lên hình ảnh xử án nữa!
Như vậy bài sách Tin Mừng quả thật đã không bỏ mất một
yếu tố nào trong bài sách Huấn ca. Hơn nữa thay vì đưa chúng ta nghĩ về phiên
tòa xét xử sau này trong ngày chung thẩm, thánh Matthêô cho chúng ta thấy việc
phân xử đó đang thi hành trước mắt chúng ta, kể từ ngày Thiên Chúa đã tha thứ tội
lỗi cho mọi người nơi Ðức Yêsu Kitô Cứu Thế.
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cũng có một quan
niệm tương tự khi khuyên chúng ta phải biết rộng rãi tha thứ cho anh em. Và phải
biết tha thứ đến độ không còn dám đoán xét anh em nữa. Chúng ta hãy tìm hiểu ý
người.
C. Không Ðược
Ðoán Xét
Người nói: chúng ta là gì mà lại đoán xét anh em, mà
lại coi anh em là đắc tội? Chúng ta hết thảy chỉ là tôi tớ. Thật vậy, là tín hữu,
chúng ta tin Ðức Yêsu Kitô. Chúng ta tuyên xưng Người là Chúa nhờ cuộc khổ nạn-phục
sinh của Người. Người đã được đặt làm Chúa kẻ sống và kẻ chết, tức là Chúa của
các thế hệ đi trước chúng ta và của chúng ta cũng như của những kẻ đến sau
chúng ta. Ðối với Người, chúng ta chỉ là bầy tôi hay là tôi tớ theo nghĩa rất mạnh
là vận mạng của chúng ta hết thảy bây giờ ở trong tay Người. Có thể nói, chúng
ta ngày nay không còn tự do gì nữa. Từ ngày cùng chết và sống lại với Người
trong Bí tích Rửa tội để trở thành Kitô hữu, chúng ta đã tự bán mình cho Người,
trở nên nô lệ của Người để được sự tự do của con cái Thiên Chúa.
Vậy thân phận chúng ta đã là những tên nô bộc sống
hoàn toàn dưới quyền của Chúa thì chúng ta không còn quyền đoán xét và xét xử
nhau nữa. Mọi xích mích giữa chúng ta bây giờ phải được đệ lên trước mặt Chúa để
tùy Người phân xử. Chúng ta chỉ còn phận sự chu toàn trách nhiệm của mình và sẽ
phải trả lẽ về chính mình ở trước mặt Thiên Chúa.
Bài học của thánh Phaolô như vậy có vẻ dứt khoát và
quyết liệt hơn Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng. Không những không được giận hờn
mà còn không được đoán xét. Không còn khuyên bảo theo gương Chúa nữa nhưng trắng
trợn chỉ tay vào thân phận của mỗi người mà bảo im đi. Nghĩ như vậy là không hiểu
tý gì về tư tưởng của thánh Phaolô. Ðối với người, không có vinh dự và hạnh
phúc nào sánh được với ơn gọi Kitô hữu. Và người ta càng sống đúng với ơn gọi
này khi chỉ còn sống chết cho Chúa Kitô. Sống như vậy là trở nên nô lệ của Người,
nhưng đó là thứ nô lệ đem đến thống trị với Người, như chính Người đã tự hư vô
hóa mình để được đưa lên trên hết mọi danh hiệu và làm Chúa của kẻ chết và kẻ sống.
Người Kitô hữu đã thuộc về Chúa, trở nên sản nghiệp của Người, thì không còn ở
dưới quyền ai nữa, một chỉ ở dưới quyền Thiên Chúa mà thôi. Ðó là sự tự do của
họ. Thánh Phaolô bênh vực sự tự do này cho mọi tín hữu vì nó đã được mua chuộc
bằng Máu của Ðức Kitô. Thế nên thánh nhân không cho ai có quyền đoán xét anh
em. Và như vậy người bênh vực mọi Kitô hữu chứ không phản đối ai.
Bài học của người hiểu như vậy thật tích cực và đề
cao mọi người. Có thể nói người đã làm cho mọi người được quyền bất khả bị xâm
phạm nhân danh Kitô hữu, tức là nhân danh Ðức Kitô. Nói đúng hơn, người nhắc nhở
hết thảy chúng ta trở nên thân phận của mình. Là đồng phận, đồng liêu với nhau ở
trước mặt Chúa, chúng ta hãy sống hòa hợp với nhau như anh em. Và như vậy không
còn được đoán xét giận hờn nhau nữa.
Tư tưởng của Người đã có trong bài sách Huấn ca và
trong bài Tin Mừng. Ðọc lại cả ba bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta thấy rõ Lời
Chúa vẫn là một: người ta không được đoán xét oán giận nhau vì là những thái độ
không tốt; hết thảy chúng ta đều như nhau trước mặt Chúa. Người đã thương xót
tha tội vô vàn cho chúng ta thì lẽ nào chúng ta bất nhân đến nỗi còn muốn hạch
tội anh em? Người đã đổ máu ra để chuộc anh em, thì làm sao chúng ta còn có thể
kết tội anh em? Người sẽ phán xét mọi người thì chúng ta phải tỏ ra thương xót
để sẽ được thương xót.
Tất cả những điều ấy đang thật sự xảy ra ở giữa cộng
đoàn chúng ta trong giờ phụng vụ này. Ai có thể nói mình hơn ai ở trước mặt
Chúa? Người không tỏ ra xót thương chúng ta vô vàn trong hành vi lễ tế này sao?
Và Người hy sinh đến như vậy để muốn chuộc hết mọi người và nâng lên bậc làm
con Chúa. Có thể nào chúng ta còn dám đoán xét anh em?
Và cuối cùng, mầu nhiệm Thánh Thể này đảm bảo việc
Chúa Kitô sẽ trở lại phán xét, đưa tất cả về thiên quốc làm thành Thân thể sáng
láng của Người. Ai có tâm nào muốn loại trừ anh em, đi trước quyền phân xử của
Chúa và khiến Người sẽ không dung thứ cho chính mình? Không, để tham dự Thánh lễ
này cho hữu hiệu, chúng ta hãy thi hành Lời Chúa: trước khi đem lễ vậy dâng
trên bàn thờ phải làm hòa với anh em. Và khi đã dâng của lễ hòa giải này nơi
bàn thờ, chúng ta lại càng phải duy nhất yêu thương phục vụ anh em hơn nữa. Vì
có như vậy chúng ta mới thật sự là một đoàn chiên với một Chúa chiên.
(Trích dẫn
từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức
cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 24 Thường Niên, Năm A
Bài đọc: Sir
27:30-28:7; Rom 14:7-9; Mt 18:21-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải
tha thứ.
Tha thứ là chuyện khó
làm mà phải luôn tha thứ là điều quá vượt quá giới hạn của con người, thế mà
các Bài đọc hôm nay lại khuyên con người làm chuyện đó. Những lý do làm cho con
người khó tha thứ: (1) Tha thứ mãi để cho người ta lợi dụng. (2) Tha thứ mãi để
cứ phải chết lần chết mòn. (3) Chắc gì người ta đã muốn nhận tha thứ của mình.
(4) Làm sao quên được những đau khổ và xỉ nhục họ gây ra cho mình? Vì thế, nhiều
người kết luận “Chúa tha nhưng tao không tha,” hay “sống giữ chết mang theo.”
Có người căm hận người khác đến độ “Chúa có bắt xuống hỏa ngục cũng đành chịu
chứ không thể tha thứ được!” Những lý do nêu trên đều chính đáng, nhưng không đủ
để tránh tha thứ. Các Bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy những lý do tại sao phải
tha thứ luôn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tha thứ để được thứ tha.
Lý do đầu tiên và trên
hết tại sao phải tha thứ là vì để được thứ tha bởi Thiên Chúa. Đã là con người,
ai cũng có tội; nếu đã có tội, cần phải được tha thứ. Con người không những có
tội, còn luôn luôn phạm tội; vì thế con người luôn luôn cần được tha thứ. Những
lời của Sách Đức Huấn Ca lặp đi lặp lại điệp khúc này:
- Hãy bỏ qua điều sai
trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha.
- Kẻ báo thù sẽ chuốc
lấy báo thù của Đức Chúa, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly.
- Người với người cứ
nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành!
- Nó chẳng biết thương
người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình!
Điều làm cho con người
khó tha thứ là con người tưởng mình tốt lành và coi người khác là tội nhân. Nếu
họ chịu khó xét mình, họ sẽ nhìn thấy rõ hơn tội lỗi của họ. Hơn nữa, nhiều người
biết mình có tội nhưng vẫn lên án tha nhân, là vì tội tha nhân đã được phơi ra
ánh sáng, trong khi họ nghĩ tội của họ có thể che giấu được. Câu truyện Người
Phụ Nữ Ngọai Tình trong chương 8 của Gioan là một ví dụ điển hình. Chúa thách đố
mọi người đang muốn ném đá người phụ nữ: “Ai trong các ông không có tội thì hãy
quăng viên đá trước.” Không ai dám quăng đá vì họ biết họ có thể giấu mọi người,
nhưng không thể giấu chính họ, và Đấng thấu suốt mọi bí ẩn trong lòng họ.
Luôn nghĩ đến Ngày
Phán Xét là động lực giúp con người dễ tha thứ: “Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm
dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều
răn.” Trong ngày này, mọi bí ẩn giấu kín đều được phơi bày ra ánh sáng và Thiên
Chúa là Đấng rất công minh sẽ thưởng hay phạt mỗi người tùy theo việc họ đã
làm.
2/ Bài đọc II: Dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.
Tha thứ để được thứ
tha là chuyện công bằng nên làm. Tuy nhiên, thánh Phaolô còn cho chúng ta một
nguyên lý tích cực hơn để tha thứ: cho Chúa và cho chính chúng ta. Ngài nói:
“Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết
cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho
Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.”
Nguyên lý tích cực này
đến từ thần học về thân thể của ngài: Mọi người đều là những chi thể của một
thân thể là Hội-Thánh và Đức Kitô là Đầu. Theo thần học này, chúng ta được nối
kết với nhau trong một tình tương thân tương trợ vì chúng ta cùng được nối kết
vào thân thể của Chúa. Các chi thể không thể sống riêng lẻ, nhưng phải kết hợp
với thân thể. Nếu một chi thể đau là tòan thân đau; và nếu tất cả các chi thể
khỏe mạnh thì tòan thân khỏe mạnh.
Giống như trường hợp
hôn nhân giữa hai vợ chồng: họ không còn là hai nhưng trở nên một xương thịt,
vì thế cả hai không thể tách rời nhau vì bất cứ lý do gì cho đến chết; chúng ta
có thể áp dụng thần học thân thể của thánh Phaolô vào sự tha thứ. Tất cả chúng
ta là những chi thể của một thân thể là Chúa Kitô nên chúng ta không thể tách rời
nhau vì bất kỳ lý do gì, không những cho đến chết mà còn cả khi sống lại nữa vì
Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết. Vì
vậy, tha thứ là chuyện phải làm để giữ cho thân thể Chúa Kitô luôn được vẹn
tòan.
3/ Phúc Âm: Phải luôn tha thứ, không phải đến bảy lần, nhưng là đến bảy
mươi lần bảy.
Chúng ta phải thầm biết
ơn sự mau miệng và tính thành thật của Phêrô, vì nhờ thánh nhân mà chúng ta có
được sự giảng giải rõ ràng của Chúa Giêsu về một vấn đề hết sức tế nhị và rất
khó thi hành. Phải tha thứ bao nhiêu lần? Tục ngữ Việt-Nam có câu “Quá tang ba
bận,” và phong tục của người Do-Thái cũng thế “tối đa là 3 lần.” Phêrô muốn tỏ
ra chắc ăn, nên đã rộng lượng tăng lên hơn gấp đôi: “7 lần.” Nhưng câu trả lời
của Chúa Giêsu đã làm cho Phêrô và chúng ta giật mình: "Thầy không bảo là
đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." Các nhà chú giải thường tranh
luận “bảy mươi lần bảy là bao nhiêu lần?” Có người cho là 70*7= 490 lần; người
khác cho là 707 hay 777, một con số rất to lớn. Điều
quan trọng Chúa muốn nhấn mạnh nơi đây là bất cứ lúc nào anh chị em nói lời xin
lỗi là chúng ta phải tha. Nhiều người đã lắc đầu và cho rằng: Nếu thánh trên
bàn thờ còn phải nhảy xuống để can thiệp thì làm sao con người có thể tha thứ
mãi, nhất là với những người cứ tái đi tái lại? Nhưng nếu chúng ta biết trở nên
tốt là một tiến trình tập luyện lâu dài thì việc phải kiên nhẫn tha thứ là chuyện
tất nhiên phải làm.
Tại sao phải tha thứ?
Thay vì đưa ra câu trả lời, Chúa kể một ví dụ rất rõ ràng và có thể giải quyết
nhiều vấn nạn khác chung quanh vấn đề tha thứ. Người nói: “Vì thế, Nước Trời
cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ
sách. Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn
yến vàng. Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con,
tài sản mà trả nợ. Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: "Thưa
Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết." Tôn chủ của tên
đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ.”
Sự tương phản giữ hai
món nợ và cách xử cho ta thấy rõ sự ác độc của kẻ đã được tha thứ này. Số tiền
anh được tha là mười ngàn yến vàng (ta,lanton) tương xứng với khỏang 4.8 triệu
Mỹ-kim (một yến vàng giá 5000-6000 quan tiền) trong khi bạn anh chỉ nợ 100 quan
tiền (khỏang 10 Mỹ-kim). Nếu so sánh giữa hai món nợ, số tiền bạn anh nợ chưa
đáng số lẻ của món nợ anh được tha. Chúng ta hãy xem cách xử của anh với người
bạn nợ: Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: "Trả nợ cho tao!" Bấy giờ, người
đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: "Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi,
tôi sẽ lo trả anh." Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến
khi trả xong nợ.
Tại sao anh làm như thế?
Vì anh nghĩ rằng sẽ không ai biết cách cư xử của anh, nhất là vị vua đã tha nợ
cho anh. Nhưng tất cả những gì anh làm đã không giấu được các bạn của anh vì những
người này có thể cũng là bạn với con nợ của anh. Họ buồn lắm và đến thuật lại
cùng vị vua tất cả mọi điều xảy ra. Chúng ta thử tưởng tượng xem phản ứng của
nhà vua sẽ ra sao khi biết được tin này: Vua đòi đầy tớ đến mà phán rằng: “Hỡi
đầy tớ độc ác kia! Ta đã tha hết nợ cho ngươi vì ngươi cầu xin Ta; tại sao
ngươi không thương xót đồng bạn ngươi như Ta đã thương ngươi?” Chủ nội giận,
trao anh cho kẻ giữ ngục cho đến khi anh trả xong hết nợ.
Cũng vậy, trong mối
tương quan của chúng ta với Chúa: Nếu chúng ta không chịu tha thứ những khuyết
điểm nhỏ bé của anh em phạm đến chúng ta như kẻ bất lương hôm nay, làm sao
Thiên Chúa có thể tha thứ những tội lớn chúng ta đã xúc phạm đến Ngài? Vì thế,
tha thứ không còn là chuyện có thể làm hay không làm, nhưng là một bổn phận phải
làm kèm theo hình phạt nếu không làm như Chúa đã báo hôm nay: “Nếu mỗi người
trong các ngươi không hết lòng tha lỗi cho anh em mình, thì Cha Ta ở trên trời
cũng sẽ xử với các ngươi như vậy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tha thứ để được thứ
tha.
- Tha thứ cho nhau là
giữ cho thân thể của Chúa Kitô được luôn vẹn tòan.
- Phải tha thứ luôn
luôn cho tha nhân vì Chúa vẫn hằng tha thứ cho chúng ta mỗi ngày.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
13/09/2020 – CHÚA NHẬT TUẦN 24 TN – A
Mt 18,21-35
LUẬT NHÂN QUẢ CỦA CHÚA
Bấy giờ tôn chủ đòi y đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha
hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không
phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33)
Suy niệm: Nhiều người mặc nhiên coi câu
nói ‘gieo nhân nào gặt quả nấy’ như một quy luật hoàn toàn máy móc. Vì thế khi
thấy ai đó gặp phải điều không may, họ quy kết ngay rằng hẳn “anh ta hay cha mẹ
anh ta” đã làm điều chi bất nhân thất đức nên mới bị trừng phạt ‘quả báo nhãn
tiền’ như thế (x. Ga 9,1-2). Chúa Giê-su không nói luật nhân quả là sai nhưng
Ngài cho biết căn nguyên của luật ấy là chính Thiên Chúa và mỗi người đều đã nhận
được cái “nhân” tối thượng là ơn tha thứ nhờ lòng thương xót của Ngài: “Tôn chủ”
đã tha nợ cho người đầy tớ món nợ vô cùng lớn chỉ vì “anh đã van xin Ngài.” Vì
thế từ cái “nhân” tốt lành đó mỗi người sẽ phải sinh “quả ngọt” bằng cách
“thương xót người khác như chính Chúa đã thương xót mình”. Ngược lại, người ta
sẽ nhận phải cái kết là “trái đắng” nếu họ cư xử nghiệt ngã vô cảm với anh em
mình.
Bạn
thân mến! Những việc lành phúc đức của bạn, việc bạn bao dung tha thứ cho người
khác đúng là những nhân tốt lành để bạn gặt được quả phúc mai sau, nhưng, bạn
nhớ rằng đó cũng là việc bạn phải làm để đáp lại việc trước đó Chúa đã xoá cho
bạn món nợ vô cùng lớn là tội lỗi mà bạn đã xúc phạm đến Chúa và anh em. Bạn
hãy nhớ luật nhân quả của Chúa là: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được
Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7).
Sống Lời Chúa: Mỗi tối xét mình, thấy mình còn
hờn giận ai, bạn hãy tìm cách tốt nhất để làm hoà với họ.
Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha.
(5 Phút Lời Chúa)
Hết lòng tha thứ.
Suy Niệm
"Và
bạn nữa, người bạn của giây phút cuối cùng.
Bạn
không hiểu điều bạn đã làm.
Cầu
xin cho hai chúng ta là những người trộm lành
được gặp
lại nhau trên Thiên quốc,...
Chúa
là Chúa của hai chúng ta."
Đó là
lời trối của cha Christian de Chergé
viết
cho người Hồi giáo nào đó sẽ ám sát mình,
bởi
cha biết cái chết là điều không sao tránh khỏi.
Ta
không thấy có chút hờn oán nào.
Cha
coi kẻ giết mình như một người bạn,
một
người trộm lành như cha, và cha mong được sống với anh trên trời.
Tha thứ
một cách phi thường và hồn nhiên,
đó là
thái độ của người thấm nhuần Kitô giáo.
Các
tôn giáo đều dạy sự tha thứ.
Tha thứ
để làm cho oán tiêu tan,
để phá
vỡ cái vòng oan nghiệt trói buộc con người.
Kitô
giáo mời gọi tha thứ vì một lý do khác:
Tôi phải
tha thứ cho anh em tôi vì Chúa đã liên tục tha thứ cho tôi.
Đời
tôi là một chuỗi những vấp ngã,
được
đan kết với bao thứ tha.
Ơn tha
thứ như dòng suối chảy vào đời tôi,
nếu bị
ngăn lại, nó sẽ thành ao tù,
nó chỉ
trong lành khi được chảy đến tha nhân.
Tha thứ
là khả năng của Thiên Chúa.
Tự sức
riêng, ta không ra khỏi được vòng oán thù.
Chẳng
ngày nào thế giới không có tiếng súng.
Luật mắt
đền mắt là luật công bằng,
nhưng
có thể làm cả thế giới hoá mù.
Chỉ sự
tha thứ mới đem lại bình an.
Dám
tha thứ là dám chịu thiệt thòi,
dám
tin rằng cuối cùng tình thương sẽ thắng.
Qủa
tim chai đá phải tan chảy trước tình thương.
Đức
Giêsu mời gọi chúng ta tha thứ, không phải 7 lần, mà là 70 lần 7,
nghĩa
là tha thứ như Thiên Chúa, tha vô giới hạn.
Cần biết
chạnh lòng thương như Thiên Chúa,
để sẵn
sàng tha cho bạn mình một món nợ nhỏ,
vì
Chúa đã tha cho mình món nợ khổng lồ.
Chúng
ta chỉ biết chắc mình đã được Chúa tha,
khi
chúng ta không giữ ơn tha thứ cho riêng mình,
khi
chúng ta mang quả tim thương xót của Đấng hay tha thứ.
Cha
Chergé đã bị giết cũng với 6 đan sĩ khác.
Chắc
nay cha hiểu rõ hơn câu này:
"Vì
chính khi thứ tha, là khi được tha thứ."
Gợi Ý
Chia Sẻ
Tha thứ
cho người xúc phạm đến danh dự, tài sản, quyền lợi của bạn, bạn thấy điều đó có
khó không? Bạn làm gì để vượt qua được ước muốn trả thù?
Ở Angiêri
đã có 19 tu sĩ và giáo sĩ Công giáo bị nhóm Hồi giáo quá khích giết hại. Bạn có
nghĩ rằng những cái chết hiền lành này sẽ khiến ai đó phải nghĩ lại không?
Cầu
Nguyện
Xin
hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý.
Xin
hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác.
Xin
hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh đến hoà bình.
Xin
hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con, trong vũ
trụ chúng con.
(Mẹ
Têrêxa Calcutta)
(Trích
trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG CHÍN
Chạm Đến Tận Nguồn Sự Sống
Đức
Kitô là Đường bởi vì Người là Sự Thật. Chính Người là câu trả lời cuối cùng cho
câu hỏi “Thiên Chúa là ai ?” Đây là lời chứng của Tông Đồ Gioan: “Không ai từng
xem thấy Thiên Chúa. Nhưng người Con Một của Thiên Chúa, Đấng ở bên cạnh Chúa
Cha, đã mạc khải về Ngài. ” (Ga 1,18)
Qua Mầu
nhiệm Nhập thể, Đức Giêsu Kitô tỏ bày tình yêu, lòng quan tâm và thương xót của
Thiên Chúa hằng sống. Và Người bày tỏ như thế trong tư cách là Con của Đức
Maria – là Thiên Chúa làm người – bằng một cách thế mà loài người có thể hiểu
được.
Chúng
ta đạt đến Thiên Chúa qua sự thật về chính Thiên Chúa và qua sự thật liên quan
đến tất cả những gì tồn tại ngoài Thiên Chúa: qua tạo vật, là đại vũ trụ; và
qua con người, là tiểu vũ trụ. Chúng ta đạt đến Thiên Chúa qua sự thật được
công bố bởi Đức Kitô và qua sự thật là chính Đức Kitô. Chúng ta đạt đến Thiên
Chúa nơi Đức Kitô, Đấng không ngừng tuyên bố: “Ta là sự thật”.
Đạt đến
Thiên Chúa qua sự thật là Đức Kitô, đó quả thật là đạt đến nguồn mạch của mọi sự
sống. Đây là nguồn mạch sự sống vĩnh cửu vốn bắt đầu ngay trên trần gian này
trong “sự mịt mù của đức tin”. Chúng ta chịu đựng sự mịt mù này cho đến khi
chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa diện đối diện trong ánh sáng vinh hiển của chính
Ngài.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 13/9
Chúa Nhật XXIV Thường Niên
Hc 27, 33-28, 9; Rm 14, 7-9; Mt
18, 21-35.
LỜI SUY NIỆM: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy
lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu dáp: Thầy không bảo đến bảy lần, nhưng đến
bảy mươi lần bảy.”
Với Thánh Phêrô, cũng như mọi người trong chúng ta đều có chung một quan niệm về
tha thứ, nghĩa là: tha thứ trong một giới hạn nào đó, không đi quá sức chịu đựng
của chúng ta. Nhưng đối với Chúa Giêsu, thì không phải thế, là phải luôn luôn
tha thứ, và sự tha thứ không có giới hạn. Bởi vi mỗi người trong chúng ta ai
cũng là người có lỗi trước mặt Thiên Chúa, và cần sự tha thứ của Ngài; do đó
Chúa cho biết: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu
anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.”
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho tất cả chúng con luôn có tâm hồn tha thứ như lời Chúa dạy;
chính nhớ có sự tha thứ cho nhau sẽ tạo nên một thế giới chan chưa tình huynh đệ
và hòa bình.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
NGÀY 13-09 THÁNH GIOAN KIM KHẨU
– GIÁM MỤC, TIẾN SĨ HỘI THÁNH. (347 – 407)
Thánh
Gioan Kim Khẩu sinh tại Antiôchia nước Syria, năm 347, cha Ngài là một sĩ quan
quân đội, đã qua đời ít lâu sau khi Ngài sinh ra. Mẹ Ngài goá bụa vào tuổi đôi
mươi đã từ khước tái hôn để dành trọn tình mẫu tử vào việc giáo dục con cái. Vì
vậy thánh nhân liên tiếp được hướng dẫn sống đời cầu nguyện thinh lặng. Gioan
còn được mẹ ký thác cho Libaniô, nhà hùng biện thời đó, dạy cho thuật ăn nói.
Thánh nhân nhanh chóng bắt kịp rồi qua mặt thầy về khoa này. Một ngày kia, khi
đọc bài tập của Gioan, Libanio đã phải thốt lên : – “Phúc cho những hoàng đế
nào được tán tụng như vậy”.
Hai
mươi tuổi, Gioan đã biện hộ trứơc tòa án với một tài năng đặc biệt khiến nhiều
người thán phục. Gioan một thời gian đã để mình bị lôi cuốn theo nhiệt tình của
dân chúng. Nhưng rồi Ngài đã sớm nhận ra mối nguy của danh vọng và dứt khoát
giã từ pháp đình để tự hiến cho Thiên Chúa. Sau khi học thánh kinh, Ngài theo
thánh Meletô (+381). Giám mục Antiochia, là đấng đã dạy dỗ, rửa tội và phong
cho Ngài tác vụ đọc sách.
Năm
374, thánh Gioan ẩn mình trong miền núi Syria, thụ giáo với tư sĩ thánh thiện
trong 4 năm. Sau đó Ngài ẩn mình trong một hang đá hai năm để cầu nguyện và học
hỏi Kinh thánh. Ngã bệnh vì cuộc sống quá khắc khổ, Ngài trở lại Antiochia và
được thánh Melatiô phong chức phó tế năm 318. Năm 386, Ngài thụ phong linh mục
và bắt đầu giảng dạy, một phận vụ lúc ấy chỉ do các giám mục phụ trách. Suốt 38
năm, tài lợi khẩu của Ngài thật đăc biệt có sức lôi cuốn cả dân thành Antiochia.
Ngày
26 tháng 2 năm 398, thánh Gioan được tấn phong giám mục thành Constantinople.
Ngài mau mắn sửa đổi lại tòa giám mục. Bán của cải, Ngài phân phát cho người
nghèo khó và xây dựng một nhà thương, Ngài lo lắng nhổ tận gốc rễ những lạm dụng
trong giáo đoàn. Với tất cả sự hùng biện, Ngài công kích những vô kỷ luật xa
hoa, ngay tại triều đình. Bà vận động chống lại thánh nhân.
Ngài
nói : – “Hãy nói với Hoàng Hậu rằng: Gioan Kim Khẩu chỉ sợ có một điều, không
phải lưu đày tù tội, cũng không phải nghèo túng và phải chết đi nữa, mà chỉ sợ
phạm tội thôi”.
Và
Ngài đã bị lưu đày nơi Cucuusus ở Armenia. Đức giám mục tại đó tiếp đón Ngài nồng
hậu. Đức giáo hoàng Innocentê I, gởi đặc sứ tới Constantinople triệu tập một
công đồng để dàn xếp nội vụ. Nhưng các thành viên bị tống giam và thánh Gioan
Kim Khẩu còn bị lưu đầy đi xa hơn nữa. Lúc ấy Ngài đã già nua. Cuối cùng Ngài bị
bất tỉnh và được đưa vào nguyện đường thánh Basiliô gần miền Cappadocia. Nơi
đây sau khi chịu các phép bí tích cuối cùng,
Ngài
qua đời ngày 14 tháng 9 năm 407. Năm 438 xác thánh nhân được long trọng rước về
Constantinople. Vị tân hoàng đế và em gái ông đã hối hận vì tội lỗi của cha mẹ
họ.
Kim Khẩu
có nghĩa là miệng vàng. Tài lợi khẩu và việc rao giảng đã khiến cho thánh nhân
xứng đáng mang danh hiệu này. Tên Ngài cũng dính liền với phụng vụ thánh Gioan
Kim Khẩu, thịnh hành ở Đông phương.
Tuy
nhiên thánh nhân nổi tiếng vì chính con người của Ngài hơn là tài giảng thuyết.
Ngài là một khuôn mặt có ảnh hưởng lớn lao và sống động thời đó. Qua các bài giảng
của Ngài, chúng ta thấy phản ảnh một con người nhẫn nại và đầy sức sống. Qua
các tác phẩm và nhất là qua các thư từ của Ngài, ngày nay chúng ta có được cảm
giác sống động thế nào là một con người đầy nhân bản.
(daminhvn.net)
13
Tháng Chín
Bộ Lông Chồn
Tại những
khu rừng ở miền Bắc Âu, có một loại chồn rất đẹp. Vào mùa hạ, lông chồn màu nâu
nhạt. Nhưng vào mùa đông, lông chồn bỗng đổi màu và mang sắc trắng như tuyết,
trừ có đầu và đuôi chồn vẫn giữ nguyên màu đen. Có lẽ do một bản năng kỳ lạ nào
đó, những con chồn này giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình rất cẩn thận. Chúng
không bao giờ để thân thể dính bụi đất dơ bẩn.
Những
người thợ săn Âu châu biết được đặc tính kỳ lạ này. Do đó, thay vì đặt bẫy để bắt
chồn, họ đi tìm những khe đá hoặc gốc cây nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa đường
lên. Sau đó, họ thả chó ra để bắt đầu săn đuổi. Những con chồn bị đuổi vội chạy
về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị hoen ố, chúng không chịu vào ẩn núp.
Chúng đành chịu đương đầu với nguy hiểm và ngay cả sự chết, hơn là để thân thể
hóa ra hoen ố…
Ðối với
giống chồn đẹp đẽ trên đây, sự trong sạch còn quý hơn cả mạng sống: chúng sẵn
sàng chiến đấu và chết hơn là để cho thân thể phải ra hoen ố.
Cuộc sống
của người Kitô chúng ta cũng phải như thế. Ðược tái sinh trong Ðức Kitô Phục
Sinh, mỗi người Kitô chúng ta được khoác lên chiếc áo trắng tinh tuyền. Chiếc
áo trắng ấy, như lời khuyên của Giáo Hội trong ngày chúng ta chịu Phép Rửa,
chúng ta phải mang nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước mặt Chúa…
Cuộc sống
nào cũng có chiến đấu. Cạm bẫy giăng mắc đầy các lối đi của chúng ta. Người
Kitô không vì một chút lợi lộc, một chút an toàn giả hiệu để làm hoen ố chiếc
áo tâm hồn của mình.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét