20/09/2020
Chúa Nhật 25 Thường
Niên năm A
(phần II)
Phụng vụ Lời
Chúa: Chúa nhật 25 Thường niên năm A
Is 55,6-9 - Pl
1,20c-24.27a - Mt 20,1-16a
VUI VỚI NGƯỜI
VUI
“Hay vì thấy tôi tốt
bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?” (Mt
20,15)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I: Is 55,6-9
Bài đọc I được trích
trong phần cuối của sách Ngôn Sứ Isaia đệ II (các chương 40-55), được gọi là
sách An Ủi Israel đang bị lưu đày ở Babylon. Đối mặt với đoàn dân đang gặp khủng
hoảng đức tin, có tâm trạng chán chường và thất vọng trong thời gian bị lưu
đày, tác giả sách Isaia đệ II lại có thái độ ngược lại khi đưa ra lời an ủi, động
viên, khích lệ dân, và cho biết sắp đến ngày Thiên Chúa đến giải thoát họ khỏi
cảnh lưu đày.
Thiên Chúa ở thật gần
dân, thấu hiểu dân, đang sẵn lòng lắng nghe những lời họ kêu cầu. Vì thế đây là
thời gian thuận tiện nhất để tìm gặp Chúa và để bày tỏ tâm tư với Người. Cụ thể
hơn, tác giả sách Isaia II đã kêu mời dân bày tỏ thái độ hoán cải cụ thể, đó
là: ‘kẻ gian ác hãy bỏ đường lối mình, người bất lương hãy bỏ tư tưởng mình’
mà trở về với Đức Chúa, Đấng giàu lòng thương xót và tha thứ.
Thiên Chúa giàu lòng
thương xót và tha thứ gần gũi với con người bao nhiêu khi họ cần đến Chúa, thì
con người lại cảm thấy Thiên Chúa lại trở nên xa vời và bí ẩn bấy nhiêu khi con
người quay lưng lại, và nhất là khi họ không học cho biết cách hiểu đường lối của
Người. Tác giả đã ví von sự khác biệt trong lối suy nghĩ và hành động giữa con
người với Thiên Chúa: “trời cao hơn đất chừng nào” thì đường lối và tư tưởng của
Thiên Chúa cũng cao hơn đường lối và tư tưởng của con người như vậy.
2. Bài đọc II: Pl 1,20c-24.27a
Sống và chết là hai
thái cực nơi cuộc sống của con người. Thông thường ai cũng thích sống, sợ chết.
Thế nhưng, trong bài đọc II trích thư gửi tín hữu Philípphê, thánh Phaolô biểu
lộ một sự giằng co nội tâm giữa sống và chết theo chiều hướng ngược lại. Chết
là phúc cho thánh nhân và sống thì có lợi cho cộng đoàn. Lúc đó, ngài giằng co
giữa phần phúc của riêng cá nhân Phaolô là “ao ước chết để được ở với Đức Kitô
thì tốt hơn bội phần” với việc sống để đem lại lợi ích cho cộng đoàn, vì “ở lại
trong xác thịt thì cần thiết cho anh em.”
Thánh Phaolô đã chọn
nguyên tắc này để phân định và chọn lựa, đó là: lấy Đức Kitô làm trung tâm cho
mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của mình. Vì thế đối với ngài sống hay chết
không thành vấn đề nữa, miễn sao quyền năng của Đức Kitô được tỏ hiện, Tin Mừng
được loan báo đến mọi người và ước mong “anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với
Tin Mừng của Ðức Kitô”.
3. Bài Tin Mừng: Mt 20,1-16a
Dụ ngôn về “Thợ làm
vườn nho” hay còn gọi là dụ ngôn về “Ông chủ tốt bụng” mô tả cảnh
quen thuộc trong đời sống sản xuất nông nghiệp thường nhật ở Palestine thời Đức
Giêsu. Dụ ngôn diễn tả sự tự do của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ và đề
cao lòng quảng đại đầy xót thương của Người qua hình ảnh ông chủ vườn nho, cũng
như lên án thái độ không đúng mực của một số Kitô hữu qua hình ảnh các người thợ.
Trong dụ ngôn, có nhiều
nhóm người làm khác nhau đang đứng chờ tại chợ nhân công đợi chủ thuê làm để được
hưởng tiền công nhật. Có những người thợ được ông chủ gọi đi làm lúc sáng sớm,
kẻ khác lúc ban trưa, người kia lúc xế chiều, thậm chí vào gần tối (Mt 20,1-6).
Lúc tan giờ lao động,
ông chủ trả công mọi người như nhau: đều được “một quan tiền”. Điều này khiến
những người vào làm từ sớm cằn nhằn, vì trách ông chủ bất công và ghen tức với
người khác.
Ông chủ đã trách cứ những
người cằn nhằn, vì họ có thái độ sai trái. Tại sao họ lại ghen tức với anh chị
em mình ? Họ không chấp nhận để cho người khác được hưởng ân huệ hay sao ? Tại
sao họ không thể chia sẻ niềm vui của người khác, khi mình chẳng mất gì ?
Ông vẫn trả đủ cho họ
theo thỏa thuận, còn ông làm phúc cho ai thì tùy ý ông. Họ muốn sự “hợp lý” là
vào sớm thì phải được trả nhiều, vào sau thì chỉ được trả ít, nhưng sao họ lại
dám cản sự “hợp tình” của ông chủ khi ông thi ân giáng phúc trên người khác ?
Sao họ lấy tư cách của người làm thuê để trách cứ quyền tự do định đoạt của cải
của ông chủ ? Ông có quyền làm thế, không phải do những người kia xứng đáng,
nhưng vì ông tốt bụng mà thôi.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. ‘Trời cao hơn đất thế nào, thì tư tưởng của Ta
cũng vượt trên tư tưởng của các ngươi thế ấy.’ Nhiều lúc chúng ta khó
hiểu biết tư tưởng cũng như đường lối của Thiên Chúa trên cuộc đời của mình. Biết
bao nhiêu câu hỏi đã được con người đặt ra cho Thiên Chúa: Tại sao ? Thế nào
?... và dường như nhiều lần chúng ta không thể tìm được câu trả lời. Chắc chắn rằng
nếu chúng ta quay lưng ngược hướng với Chúa thì càng đi, chúng ta càng xa Chúa.
Có cách nào giúp chúng ta đi đúng đường lối và tới bến bờ hạnh phúc nếu chúng
ta không tìm kiếm thánh ý Chúa, bỏ ý riêng và đặt ý mình vào trong ý Chúa ?
2. ‘Đức Kitô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người
nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết.’ ‘Quy ngã’ hay ‘quy Kitô’
vẫn luôn là một giằng co gay gắt nơi mỗi người dẫu vẫn biết rằng chỉ “quy Kitô”
mới là cách duy nhất giúp vượt qua cơn khủng hoảng đức tin. Qua Chúa Kitô,
chúng ta sẽ gặp được Chúa Cha, gặp được người khác và gặp lại đúng bản chất của
chính mình. Chúng ta có định hướng cuộc sống ‘quy Kitô’, lấy Đức Kitô làm điểm
tựa, làm chuẩn mực cho mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của mình ? Chúng ta
có đặt lợi ích của Đức Kitô, của anh chị em lên trên lợi ích của bản thân trong
đời sống đạo ?
3. ‘Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức
?’ Ghen tức là một trong Bảy mối tội đầu. Vì ghen tức nên không muốn
ai hơn mình. Ghen tức là tỏ ra khó chịu, bực mình, thậm chí oán ghét với người
khác vì những thành công của họ. Tại sao mình lại ghen tức với người không hề
làm gì ảnh hướng đến mình, và mình cũng không mất công mất của gì cho họ ? Mặt
khác, trong cuộc sống, con người dễ dàng chia buồn khi người anh chị em mình gặp
đau khổ, khó khăn hay thử thách, nhưng lại khó chia vui khi anh chị em mình gặp
may mắn, sung sướng hay hạnh phúc hơn mình. Chúng ta có cằn nhằn ngầm trách
Thiên Chúa bất công và ghen tức với người khác khi họ được ân lộc Chúa ban ?
Chúng ta có dám sẵn sàng lan tỏa niềm vui của mình và chia vui với người khác để
“niềm vui chia sẻ, niềm vui lớn” ?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị
em thân mến! Thiên Chúa rất nhân từ muốn mời gọi và trao phó cho mỗi người
chúng ta những phận vụ khác nhau trong vườn nho của Người là Hội Thánh. Cộng
đoàn chúng ta hãy chung lời cảm tạ Chúa, và tha thiết cầu xin:
1. Hội Thánh có sứ mạng
loan báo và làm chứng cho tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu
nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh trở nên những người thợ nhiệt thành
chăm chỉ, để vườn nho Chúa ngày càng thêm tươi tốt và sinh nhiều hoa trái.
2. Việc làm và tiền
lương chi phối cuộc sống của rất nhiều người trong xã hội hôm nay. Chúng ta
cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo trên thế giới biết quan tâm hơn đến người
nghèo và nỗ lực tạo ra nhiều việc làm cùng với tiền lương hợp lý cho người lao
động.
3. Thiên tai dịch bệnh
đã gây thương vong và thiệt hại lớn ở nhiều nơi trên thế giới và ngay tại Việt
Nam. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những ai bị ảnh hưởng nhận được sự đồng cảm
và trợ giúp kịp thời của nhiều người, để sớm khắc phục thiệt hại và mau ổn định
cuộc sống.
4. Tính ích kỷ và hay
ganh tị là nguyên nhân gây ra bao xung đột chia rẽ. Chúng ta cùng cầu nguyện
cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết ý thức dẹp bỏ những tư tưởng cá
nhân, để hết lòng vì lợi ích chung, tích cực xây dựng một cộng đoàn yêu thương
hiệp nhất.
Chủ tế: Lạy
Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Chúa đã mời gọi chúng con cộng tác trong vườn nho
của Chúa; xin đón nhận tâm tình tạ ơn của chúng con và giúp chúng con luôn dấn
thân với hết khả năng Chúa ban, để phục vụ anh chị em và làm sáng danh Chúa.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/phung-vu-loi-chua-chua-nhat-25-thuong-nien-nam-a-47855
Sợi Chỉ Đỏ Chúa Nhật 25 TN Năm
A
LÒNG TỐT CỦA THIÊN CHÚA
“Những người vào làm trước nhất
tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn…”
(Mt 20,10)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I :
Thiên Chúa khuyến khích tội nhân trở về với Ngài, đừng sợ Ngài trừng phạt. Chắc
chắn Ngài sẽ tha thứ, bởi vì “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các
ngươi”
– Đáp ca : “Chúa
tốt lành với tất cả mọi người”
– Tin Mừng : Ông
chủ vườn nho trả lương cho người thợ làm giờ cuối cùng cũng một đồng bằng với
những người thợ làm từ sáng sớm.
Anh chị em thân mến
Nếu chúng ta tìm hiểu
kỹ về Thiên Chúa, chúng ta sẽ gặp nhiều bất ngờ. Thiên Chúa mà ta tưởng rằng đã
hiểu rất rõ lại không như ta tưởng ; suy nghĩ của Ngài nhiều khi không giống
suy nghĩ của chúng ta ; cách đối xử của Ngài cũng lắm bất ngờ.
Trong Thánh lễ này,
chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu Ngài hơn, và nhất là biết suy nghĩ và
cư xử như Ngài.
– Chúng ta ít lo tìm
hiểu Chúa nên đã không sống như Ngài.
– Cách chúng ta đối xử
với người khác dựa trên quyền lợi bản thân hơn là dựa trên lòng tốt.
– Nhiều khi thấy một
người khác được điều gì tốt, thay vì vui mừng, chúng ta lại khó chịu.
Kẻ có tội thường sợ
Thiên Chúa trừng phạt nên trốn lánh Ngài. Mà càng trốn lánh Thiên Chúa thì càng
lún sâu trong tội.
Qua lời ngôn sứ Isaia,
Thiên Chúa khuyến khích họ cứ an tâm trở về. “Tư tưởng của Ta không phải là tư
tưởng của các ngươi” : Ngài không nghĩ đến trừng phạt mà chỉ nghĩ đến cứu
vớt, Người không bắt tội mà chỉ thứ tha.
Tv này ca tụng sự vĩ đại
của Thiên Chúa, sự vĩ đại này chính là tấm lòng của Ngài : nhân hậu, từ
bi, kiên nhẫn, xót thương và tốt lành với tất cả mọi người…
Dụ ngôn này phản ảnh
hai cách suy nghĩ :
– Cách suy nghĩ của
đám thợ làm vườn nho là suy nghĩ theo công bằng : kẻ làm ít giờ lẽ ra phải
được lãnh ít hơn người làm nhiều giờ. Đây cũng là suy nghĩ của loài người chúng
ta.
– Cách suy nghĩ của
ông chủ vườn nho : vẫn trả đủ lương cho những người làm nhiều giờ,
nhưng vì lòng tốt nên cũng trả cho người thợ làm giờ cuối cùng
đủ một đồng. Đây là cách suy nghĩ của Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (Pl 1,20c.24-27) (Chủ đề phụ) :
* Trong các Chúa nhựt
XXV-XXVIII, bài đọc II được trích từ thư Phaolô gởi tín hữu Philipphê. (Xin xem
bài giới thiệu tổng quát về Thư Philipphê, ngay sau bài này)
Đây là bức thư Phaolô
viết trong khi bị cầm tù. Trong thời gian Phaolô ở từ, tín hữu Philipphê đã thường
xuyên thăm viếng, trợ giúp và còn phái người tới chăm sóc cho Phaolô.
Trong đoạn thư này,
Phaolô nghĩ đến hai tình huống :
– Một là ông sẽ được
tha tự do : khi đó ông sẽ tiếp tục rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, và
Ngài sẽ được vẻ vang.
– Hai là ông bị xử tử :
cái chết của ông vì Tin Mừng cũng sẽ làm vẻ vang Đức Kitô.
Vì thế Phaolô kết luận :
“Dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô cũng sẽ được vẻ vang nơi tôi”
1. Tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng loài người
Loài người chúng ta
suy nghĩ giống như một người buôn bán : món hàng trị giá thế nào, vậy phải
mua thế nào, bán thế nào ? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai ?
Chúng ta áp dụng suy
nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa :
tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và
ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.
Nhưng Thiên Chúa không
muốn làm người bán cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha,
yêu thương chúng ta là con. Ngài chỉ có thương yêu và chỉ dùng lòng tốt để đối
xử. Đối với từng đứa con, Ngài không xét xem nó đã làm được gì, nó đáng được
bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là
tốt nhất…
Khi lẩm bẩm trách, những
người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông
chủ, họ muốn ông đừng làm người cha yêu thương mà hãy làm một người buôn bán vô
tình.
Nhiều người đọc xong dụ
ngôn này đã nghĩ rằng Thiên Chúa đối xử không công bình vì Ngài đã trả cùng một
đồng cho những người làm việc suốt ngày và người chỉ làm có một giờ.
Thực ra chẳng có gì là
không công bình cả : Vì ông chủ đã thỏa thuận với thợ về tiền công mỗi
ngày là một đồng, nên nếu ông trả không đủ một đồng thì mới bất công. Nói cho
đúng hơn : đối với những người làm suốt ngày thì ông chủ công bình ;
còn đối với người làm chỉ có một giờ thì ông chủ đã đối xử hơn mức công
bình : ông đối xử theo lòng thương xót.
Xem ra, đòi hỏi công
bình là điều hợp lý. Nhưng xét theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ
theo công bình à đối xử với chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội
thì ai nào đứng vững được”. Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng
thương xót của Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài.
Vả lại, đối xử công
bình là đối xử bằng lý, còn đối xử với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa
mai thay, bất chính như con người thì hay đòi đối xử bằng lý, còn công chính
như Thiên Chúa lại thích đối xử bằng tình.
Flor McCarthy đã chứng
kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách
suy nghĩ ra sao sau khi chứng kiến nó : có lần ông đến Cape Town nước Nam
Phi. Đó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không
làm gì cả. Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người
khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Đến trưa ông vẫn
còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đẫm lưng áo. Hỏi kỹ
thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có
ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó. Và khi hết
ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp. Hôm đó McCarthy rất hối hận vì
đã vội kết án những con người tội nghiệp ấy. Và ông đã soạn một lời cầu nguyện
như sau :
“Tư tưởng của Ta không
giống tư tưởng các ngươi
và đường lối Ta không
giống đường lối các ngươi”
“Như trời xanh cao hơn
đất bao nhiêu
thì đường lối Ta cũng
cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”
Lạy Chúa
Tư tưởng chúng con rất
nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi
Bởi vì trí óc chúng
con nghèo nàn và con tim chúng con chật chội.
Xin Chúa mở rộng trí
óc và con tim chúng con
để chúng con suy nghĩ
giống Chúa hơn, và hành động giống Chúa hơn.
Xin giúp chúng con đừng
bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác
Xin giúp chúng con ý đừng
cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công
Xin giúp chúng con ý
thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa.
Amen.
Cuối đoạn Tin Mừng này
có một câu bất ngờ : “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên
sau hết”.
Trong Tin Mừng có nhiều
thí dụ minh họa : Một chàng thanh niên giàu có và đạo đức hỏi Đức
Giêsu : tôi đã giữ các giới răn từ thuở nhỏ, vậy tôi phải làm gì thêm để
được sự sống đời đời làm gia nghiệp ? Lần kia Phêrô áy náy trình với
Chúa : Thưa Thầy, này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy thì
sao ? Bồn chồn hơn nữa, hai người con Ông Dêbêđê nghĩ rằng mình thuộc số
môn đệ đi theo Thầy trước hết cho nên xin Thầy dành cho mình hai chỗ tả hữu
trong Nước của Ngài… Nhưng, đối với những “kẻ trước hết” ấy, Đức Giêsu đã không
dành hai chỗ tả hữu ưu tiên, Ngài lại ban chúng cho hai tên trộm cướp. Đúng vậy,
hai “kẻ sau hết” này đã ở hai bên tả hữu của Thập giá.
Nói “trước hết” và
“sau hết” là tính theo thời gian. Nhưng liên hệ với Chúa không tính bằng thời
gian mà bằng sự gắn bó tình yêu.
Điểm sâu sắc nhất của
dụ ngôn những người thợ vườn nho là đặt đối lập nhau hai não trạng :
a/ Não trạng của những
thợ làm nhiều giờ là óc tính toán : làm gì cũng là để tính
công, công càng nhiều thì phải được hưởng càng nhiều.
Đây là não trạng của
đa số tín hữu chúng ta. Chúng ta tính toán mình đã giữ đạo bao nhiêu năm, đọc
kinh dự lễ bao nhiều lần, làm việc lành phúc đức bao nhiêu việc v.v.
Với não trạng ấy,
chúng ta chăm chăm nhìn đến những việc mình đã làm và cứ bo bo nhìn vào sổ thu
của mình. Chúng ta nghĩ rằng khi đến cuối đời (hết ngày làm việc), trình quyển
sổ thu đó cho Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ mở kho tàng ơn cứu độ và thanh toán
sòng phẳng cho chúng ta.
Nhưng trong não trạng ấy,
ta là ai, Thiên Chúa là ai, liên hệ giữa Thiên Chúa và ta là gì ? Ta chỉ
là người làm công, Thiên Chúa là người thuê mướn, liên hệ hai bên là hợp đồng
làm ăn.
Sống đạo theo não trạng
này thật là nặng nhọc và vô tình vô nghĩa.
b/ Thực ra, Thiên Chúa
đâu có tự coi là người thuê mướn và cũng đâu có coi chúng ta là người làm công.
Thiên Chúa yêu thương
chúng ta theo hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Người thì hoàn cảnh này (đứng
trước vườn nho từ sáng sớm), người thì hoàn cảnh khác (đứng trước vườn nho khi
đã gần hết ngày), nhưng người nào cũng được Thiên Chúa thương và ban cho ơn cứu
độ (được vào vườn nho, được lãnh một đồng).
Não trạng thoải mái và
hạnh phúc nhất là cảm nhận tình thương ấy và đáp lại tình thương bằng cách tận
tâm tận lực canh tác vườn nho, không tính toán làm lâu hay làm mau, làm được
nhiều hay làm được ít, chịu cực khổ nhiều hay ít.
Cần phải thay đổi não
trạng : sống đạo không bằng tính toán mà bằng cả tấm lòng.
Đây là diễn tiến một
cuộc chạy đua 3000 mét.
Lúc bắt đầu, những tay
đua chạy san sát nhau thành một nhóm rất đông. Một lúc sau, một nhóm nhỏ đã
tách rời đám đông và chạy phía trước. Còn vài chục mét nữa thì một người vọt
lên rất nhanh và tới đích.
Khán giả vỗ tay hoan
hô nồng nhiệt. Một số người ôm những bó hoa tới tặng nhà vô địch. Các phóng
viên xách Camera và máy chụp hình tới, vừa bấm máy, vừa thu hình, vừa phỏng vấn.
Những người hâm mộ tới xin chữ ký. Một số hãng thương mại đến đề nghị ký hợp đồng
với nhà vô địch.
Cuối cùng, ông chủ tịch
Ban Tổ chức xuất hiện. Người ta mời nhà vô địch lên đứng trên một chiếc bục
cao, người hạng nhì đứng trên bục bên phải thấp hơn một chút, và người hạnh ba
bục bên trái thấp hơn chút nữa. Người ta mang đến 3 chiếc huy chương để ông chủ
tịch đeo vào cổ họ.
Nhưng ông chủ tịch ngỏ
ý muốn gặp 3 người tới đích cuối cùng. Ban tổ chức không hiểu, nhưng vẫn làm
theo lời ông. Khi họ tới, ông tươi cười trao chiếc huy chương vàng cho người hạng
chót, chiếc huy chương bạc thuộc về người áp chót, và chiếc huy chương đồng cho
người kế tiếp.
Nhà vô địch bực bội phản
đối :
– Như thế là không
công bình !
– Tại sao ? Ông
chủ tịch hỏi lại.
– Tôi hạng nhất, tôi
phải được thưởng.
– Thì anh đã được thưởng
rồi. Này nhé khán giả đã vỗ tay hoan hô anh, báo chí đã chụp hình anh, những
người hâm mộ đã tặng hoa cho anh, những hãng thương mại đã ký hợp đồng với anh…
Anh đã được thưởng quá nhiều rồi. Bây giờ anh hãy nghĩ tới những người chạy sau
chót : họ cũng cố gắng như anh, vất vả không kém gì anh, và cũng chạy hết
đoạn đường 3000 mét như anh. Anh thử nghĩ xem có công bình không khi anh thì được
tất cả còn họ thì chẳng được gì ?
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là tình
yêu. Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ
Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Chúa Giêsu đã giao
cho hàng Linh mục sứ mạng rao giảng Tin Mừng / và cử hành các bí tích mà phục vụ
dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các ngài luôn trung thành / khôn ngoan
và nhân hậu.
2- Trên thế giới ngày
nay / hình như lòng khoan dung không còn ngự trị trong các sinh hoạt trần thế /
do đó con người vẫn còn điên cuồng tàn sát lẫn nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin
cho lòng khoan dung ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt trong đời sống con người.
3- Hiện tại có biết
bao người đang âm thầm hy sinh cả cuộc đời trên cánh đồng truyền giáo / để giới
thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin
Chúa giữ gìn / và nâng đỡ những anh chị em ấy / giữa muôn vàn thử thách trong đời
sống chứng nhân của mình.
4- Tính ganh tị làm
cho con người trở nên mù quáng / hẹp hòi / ích kỷ / thậm chí vu khống để bôi
nhoi danh dự / để hạ người khác xuống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn
giáo xứ chúng ta / biết can đảm sửa chữa tận gốc tật xấu kinh niên này.
CT : Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết sống như
Chúa : luôn cư xử quảng đại và khoan dung với hết thảy mọi người, nhờ đó
chúng con sẽ nên hoàn thiện như Chúa Cha trên trời. Chúa hằng sống và hiển trị…
– Trước kinh Lạy
Cha : Chúng ta đây, kẻ thì biết Chúa vào giờ thứ nhất, người thì chỉ mới
biết Ngài vào giờ thứ 11. Nhưng Chúa đã thương tất cả chúng ta, cho tất cả
chúng ta làm con trong nhà Ngài. Vậy tất cả chúng ta hãy trìu mến dâng lên Ngài
lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy.
Thiên Chúa đối xử với
mọi người bằng lòng tốt. Xin Chúa giúp anh chị em ra về cũng đối xử bằng lòng tốt
với mọi người.
https://gpcantho.com/soi-chi-do-chua-nhat-25-tn-nam-a/
Lectio Divina: Chúa Nhật XXV Thường Niên (A)
Chủ Nhật 20 Tháng
Chín, 2020
Lectio Divina | Lectio Divina Năm
A
Dụ ngôn những người
làm công được sai đi đến vườn nho
Tình yêu nhưng không tuyệt đối của Thiên Chúa
Mt 20:1-16
1. Lời
nguyện mở đầu
Thân lạy Cha, Con Một
của Cha là Đức Giêsu, Đấng mà Cha đã ban cho chúng con, là vương quốc của chúng
con, là sự phong phú, là Thiên Đàng của chúng con; Người là Chủ nhà và chủ trái
đất nơi chúng con sống và Người liên tục đi tìm kiếm chúng con, bởi vì Người muốn
gọi chúng con, kêu tên chúng con, để ban cho chúng con tình yêu vô biên của Người. Chúng
con sẽ không bao giờ có thể đền đáp lại cho Người, không bao giờ đền trả được
lòng lân ái và thương xót dư thừa của Người ban cho chúng con; chúng con chỉ có
thể nói với Người lời Xin Vâng của chúng con: “Này con đây, con xin
đến”, hay lặp lại lời của ngôn sứ Isaia: “Lạy Chúa, này con đây, xin
hãy sai con!” Lạy Chúa, xin hãy để cho những lời này thấm vào tâm hồn
con, vào mắt, vào tai con và lời ấy thay đổi con, biến đổi con, theo tình yêu
đáng ngạc nhiên không thể hiểu được mà Chúa Giêsu cũng đang ban cho con ngày
hôm nay, ngay cả trong giây phút này. Xin hãy dẫn con đến nơi cuối
cùng, nơi của con, mà Người đã dọn sẵn cho con, ở đó là nơi con có thể thực sự
và hoàn toàn là chính mình. Amen.
2. Bài
Đọc
a) Phụ
chú về bối cảnh đoạn Tin Mừng:
Đoạn Tin Mừng này đặt
chúng ta trong phần của sách Tin Mừng Mátthêu, dẫn trước đoạn Cuộc Thương Khó,
sự tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Đoạn này bắt đầu từ câu 19:1,
nơi được viết là Chúa Giêsu quyết định rời vùng Galilê để đi về xứ Giuđêa, bắt
đầu lối này để tiến gần về thành Giêrusalem và được kết ở câu 25:46 với lời về
ngày tái quang lâm và phán xét của Con Thiên Chúa. Đặc biệt, chương
20 cũng đưa chúng ta đi dọc theo con đường của Chúa Giêsu hướng về thành thánh
và đền thờ, trong một bối cảnh giảng dạy và tranh luận với các nhà thông thái
và có quyền thế thời bấy giờ, mà Người dàn trải thực hiện qua các dụ ngôn và
các cuộc gặp gỡ.
b) Phân
đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt 20:1a: Với những lời đầu tiên của bài dụ ngôn, một
phương thức dẫn nhập, Chúa Giêsu muốn đồng hành với chúng ta vào trong chủ đề
sâu sắc nhất về những gì Người định nói, Người muốn mở ra trước chúng ta cánh cửa
của Nước Trời, đó là chính bản thân Người và Người tự giới thiệu là Chủ của vườn
nho đang cần người canh tác.
Mt 20:1b-7: Những câu này tạo thành phần đầu của bài dụ
ngôn; trong đó Chúa Giêsu nói về dự tính của người Chủ vườn nho đi thuê người
làm công, kể lại bốn lần ông đi ra ngoài để tìm người làm, trong đó ông thiết lập
một hợp đồng và lần cuối ông đi ra tìm người là vào lúc cuối ngày.
Mt 20:8-15: Phần thứ hai này thay vì bao gồm lời kể việc
thanh toán tiền công với người làm, đã kể lại việc phản đối của những người đến
trước và câu trả lời của ông Chủ vườn nho.
Mt 20:16: Cuối cùng là câu kết luận, bao gồm cả câu
19:30 và mặc khải chìa khóa của đoạn Tin Mừng và ứng dụng của nó: Những
ai trong cộng đoàn được coi là những kẻ đến sau cùng, theo quan điểm của Nước
Trời và sự phán xét của Thiên Chúa, sẽ là những người trước hết.
c) Phúc
Âm:
20:1a: 1 Khi ấy, Chúa Giêsu phán
cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Nước Trời giống như chủ nhà
kia…
20:1b-7: …sáng sớm ra thuê người làm vườn nho
mình. 2 Khi đã thỏa thuận với những người làm thuê về
tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. 3 Khoảng
giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, 4 ông
bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho cho Ta, Ta sẽ trả
công cho các ngươi xứng đáng.” 5 Họ liền
đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy. 6 Đến
khoảng giờ thứ mười một, ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: “Sao
các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế? 7 Họ
thưa rằng: “Vì không có ai thuê chúng tôi.” Ông bảo họ rằng: “Các
ngươi cũng hãy đi làm vườn nho cho ta.”
20:8-15: 8 Đến chiều, chủ vườn nho bảo
người quản lý rằng: “Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho
họ từ người đến sau hết tới người đến trước hết.” 9 Vậy
những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. 10 Tới
phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng
chỉ lãnh mỗi người một đồng. 11 Đang khi lãnh tiền,
họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: 12 “Những người đến
sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể
họ bằng chúng tôi sao?” 13 Chủ nhà trả lời với một kẻ
trong bọn họ rằng: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ
thì bạn đã không thỏa thuận với tôi một đồng sao? 14 Bạn
hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn. 15 Nào
tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì
tôi nhân lành chăng?”
20:16: 16 Như thế kẻ sau hết sẽ nên
trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết.”
3. Giây
phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa được thấm
nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một
vài câu hỏi gợi ý:
Để giúp chúng ta trong
việc suy gẫm cá nhân.
a) Đoạn Tin Mừng được mở đầu với một liên từ, “trên
thực tế”, rất là quan trọng, bởi vì nó gửi đến chúng ta câu trước đó (Mt
19:30), nơi Chúa Giêsu khẳng định “kẻ trước hết sẽ nên sau hết và kẻ sau hết sẽ
nên trước hết”, với cùng những lời mà Người sẽ lặp lại ở cuối bài dụ ngôn
này. Vì thế, những lời vô cùng quan trọng, căn bản, chỉ cho tôi đường
hướng mà tôi nên chọn. Đức Giêsu là Vương Quốc của Thiên Chúa, là Nước
Trời; Người là thế giới mới, mà tôi được mời vào. Nhưng thế giới của
Người là một thế giới đảo ngược, nơi mà các lý luận của chúng ta về quyền lực,
lợi danh, khen tặng, khả năng, nỗ lực bị đánh bật và được thay thế bằng một lý
luận khác, đó là sự cho không tuyệt đối, lòng thương xót và tình yêu vô
biên. Nếu tôi nghĩ rằng tôi là kẻ đến trước tiên, tôi là người dũng
mãnh và đầy khả năng; nếu tôi đã chọn cho mình một chỗ ngồi tốt nhất nơi bàn tiệc
Chúa, thì có lẽ tôi nên đứng lên và ngồi vào chỗ kém nhất. Ở đó Chúa
sẽ đến tìm tôi và gọi tôi, Người sẽ dắt tôi lên và đưa tôi về phía Người.
b) Ở đây, Chúa Giêsu ví Người như là người chủ
vườn, Chủ Nhà, dùng hình ảnh cụ thể, Người lặp lại nhiều lần trong Kinh
Thánh. Tôi cố gắng theo dõi hình ảnh ấy, chú ý đến những đặc tính biểu
thị và cố gắng minh xác mối quan hệ của tôi với Người. Ông Chủ nhà
là chủ nhân của vườn nho, là người chăm sóc nó, rào giậu chung quanh vườn,
trong vườn đào một bồn đạp nho, vun xới nó bằng tình yêu và nỗi nhọc nhằn (Mt
21:33), để nó có thể sinh hoa kết trái nhiều hơn. Đó là người Chủ
nhà đã dọn ra bữa tiệc tối thịnh soạn, và mời nhiều người, mời đến bàn tiệc của
Người những người nghèo khó, bỏ rơi, tàn tật và què quặt, đui mù (Lc
14:21). Và đó là người chủ trở về nhà sau khi đi dự tiệc cưới và
chúng ta phải canh thức vì không biết giờ nào (Lc 12:36); là người Chủ nhà trẩy
phương xa, ra lệnh cho chúng ta phải canh thức, sẵn sàng để mở cửa cho Người,
ngay khi Người trở về và gõ cửa, vào buổi chiều tối, vào nửa đêm, hay vào lúc
gà gáy, hay vào lúc bình minh (Mc 13:35). Lúc ấy tôi hiểu rằng Chúa
đang mong đợi nơi tôi kết quả tốt lành; rằng Người đã chọn tôi như người khách
tại bàn tiệc của Người; rằng Người sẽ trở lại và tìm tôi và sẽ gõ cửa nhà
tôi… Tôi đã sẵn sàng để đáp lời Người chưa? Sẵn sàng để mở
cửa cho Người không? Sẵn sàng để dâng tặng Người hoa trái tình yêu
mà Người mong đợi từ nơi tôi chưa? Hay là tôi đang ngủ mê, bị đè nặng
bởi hàng ngàn thứ tư lợi khác, làm nô lệ cho các chủ nhà khác, phức tạp và rời
x a Người?
c) Chúa Giêsu, người Chủ nhà và là chủ vườn nho,
nhiều lần đi ra ngoài để thuê người làm: vào lúc sáng sớm, vào lúc chín giờ
sáng, vào lúc giữa trưa, vào lúc ba giờ chiều, vào lúc năm giờ, khi ngày sắp
tàn. Người không hề biết mệt mỏi: Người đến tìm tôi, để
ban cho tôi tình yêu của Người, sự hiện diện của Người, để ký kết một thỏa hiệp
với tôi. Người mong mỏi ban cho tôi vườn nho của Người, vẻ đẹp của
nó. Khi nào chúng ta sẽ gặp, khi Người, đưa mắt nhìn tôi cách chăm
chú, sẽ yêu tôi (Mc 10:21), tôi sẽ trả lời ra sao? Tôi có sẽ buồn rầu
bởi vì tôi còn có rất nhiều của cải (Lc 18:23)? Liệu tôi có sẽ trốn
chạy, trần truồng, trút lại cả mảnh vải nhỏ của hạnh phúc còn lại để che cho
thân tôi (Mc 14:52)? Hay là, tôi sẽ nói “Xin vâng”, và rồi thì tôi sẽ
không đi (Mt 21:29)? Tôi cảm thấy rằng lời này đã khiến cho tôi lâm
vào cơn khủng hoảng, nó nhòm ngó vào chiều sâu thẳm của chính tôi, nó tiết lộ
cho tôi biết tôi là ai … tôi vẫn thất vọng, lo sợ cho sự tự do của tôi, nhưng
tôi quyết định, trước Chúa là Đấng đang nói với tôi, hành động như Đức Maria đã
làm và cũng nói: “Lạy Chúa, xin hãy làm theo như lời Chúa”, với một
sự khiêm nhường và quy phục.
d) Bây giờ Tin Mừng đang đặt để trước tôi mối
quan hệ của tôi với những người khác, anh chị em cùng chia sẻ với tôi cuộc hành
trình đi theo Đức Giêsu. Tất cả chúng ta được gọi đến với Người, vào
buổi tối, sau một ngày làm việc: Người mở kho báu tình yêu của Người
và bắt đầu phân phát, ban cho ân sủng, lòng thương xót, lòng từ bi, tình bằng hữu,
tất cả những gì của Người. Người không dừng lại, Chúa chỉ tiếp tục đổ
tràn, trút ra, ban chính thân Người cho chúng ta, mỗi một người. Mátthêu
đã chỉ ra, vào lúc này, rằng có người lẩm bẩm trách Chủ vườn nho, trách Chúa, sự
phẫn nộ nảy sinh vì Người đối xử với mọi người cách công bằng, với cùng cường độ
của tình yêu, với cùng sự dư thừa. Có lẽ những gì được viết trong những
dòng này cũng áp dụng đối với tôi: Tin Mừng biết cách mang đến và
làm sáng tỏ trái tim tôi, phần ẩn dấu nhất của con người tôi. Một
cách chính xác, có lẽ Chúa đang nói những lời này với đầy sự buồn rầu: “Chẳng
lẽ con đang ganh tị chăng?” Tôi nên để cho chính bản thân mình bị
thẩm vấn, tôi phải để cho Người nhập vào trong tôi và nhìn tôi với đôi mắt soi
thấu tâm can, bởi vì chỉ có cái nhìn của Người, tôi sẽ có thể được chữa
lành. Bây giờ tôi cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, con cầu
xin Chúa, hãy đến với con, gieo lời Chúa trong tâm hồn con và để cho cuộc sống
mới nảy mầm, để tình yêu nảy mầm.”
5. Chìa
khóa của bài đọc
Vườn nho
Trong hình ảnh của vườn
nho, có vẻ như rất đơn giản và bình thường, Thánh Kinh cô đọng lại một thực tế
rất phong phú và sâu sắc, luôn luôn khó hiểu trong ý nghĩa, dần dần khi các văn
bản nhận được sự mặc khải hoàn toàn của Chúa Giêsu. Trong sách các
Vua quyển thứ nhất, chương 21, thuật lại cuộc tấn công bạo lực chống lại ông
Nabốt, chỉ vì sự lạm quyền của vua A-kháp, là người sở hữu một vườn nho, được
trồng cấy, không may lại ở cạnh bên cung điện nhà vua. Điều này làm
cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng của vườn nho là một tài sản bất khả xâm
phạm: không có vật gì trên thế gian mà ông Nabốt có thể chịu đánh đổi
như lời ông nói: “Đức Chúa cấm chỉ tôi nhượng gia sản của tổ tiên
tôi cho ngài!” (1V 21:3). Vì tình yêu dành cho vườn nho, ông đã mất
mạng. Vì vậy, vườn nho tượng trưng cho của cải quý giá nhất, di sản
của gia đình, trong một phần nhất định, bản sắc riêng của một người; người ấy
không thể bán nó, sang nhượng nó cho người khác, đổi chác nó cho một thứ hàng
hóa khác, mà sẽ không bao giờ thay thế được vật có giá trị tương đương
nó. Nó ẩn chứa một sức mạnh tinh thần quan trọng.
Sách tiên tri Isaia
chương 5 cho chúng ta biết rõ rằng dân Do Thái được biểu hiện qua hình ảnh vườn
nho, như đã được viết: “Vườn nho của Đức Chúa các đạo binh, chính là
nhà Israel đó; cây nho Chúa yêu mến quý chuộng, ấy chính là người xứ Giuđa” (Is
5:7). Chúa đã yêu thương dân này với một tình yêu vô hạn và muôn đời,
ký kết bởi một giao ước bất khả xâm phạm; Người chăm sóc họ giống như chủ vườn
nho chăm sóc vườn nho của mình, làm tất cả mọi việc có thể để nó có thể sinh
nhiều hoa trái hơn. Mỗi người chúng ta là dân Israel, toàn thể Giáo
Hội: Chúa Cha đã thấy chúng ta như mảnh đất khô cằn, hoang tàn, đầy
sỏi đá, và Người đã vun xới, gieo trồng, luôn chăm bón và tưới nước; Người đã
trồng chúng ta như một vườn nho hảo hạng, tất cả với cây nho thuần chủng (Gr
2:21). Còn điều gì Người có thể làm hơn cho chúng ta mà Người đã chẳng
làm không? (Is 5:4). Trong việc hạ mình một cách vô cùng, chính Chúa
đã trở thành vườn nho; Người đã trở thành cây nho thật (Ga 15:1), mà chúng ta
là ngành; Người đã hợp nhất chính thân mình với chúng ta, giống như cây nho được
gắn liền với các ngành nho của nó. Chúa Cha, người trồng nho, tiếp tục
công việc tình yêu của Người trong chúng ta, để chúng ta có thể kết trái và Người
chờ đợi một cách kiên nhẫn. Người cắt tỉa, vun xới, rồi sau đó Người
sai chúng ta đi để làm việc, thu hoạch những hoa trái để đem về cho Người. Chúng
ta được sai đi đến dân của Người, đến các con cái Người, những con cái như
chúng ta, như các môn đệ của Người; chúng ta không thể tháo lui, từ chối, bởi
vì chúng ta đã được tạo dựng ra vì lý do này: Chúng ta được cắt cử
ra đi và sinh hoa trái và hoa trái của chúng ta được tồn tại (Ga
15:16). Lạy Chúa, xin nhìn lại chúng con, từ Cõi Trời, xin ngó xuống,
xin Ngài hãy thăm nom vườn nho Ngài (Tv 79:15).
Lời hứa: một
đồng tiền
Người chủ vườn nho thiết
lập tiền công làm việc một ngày là một đồng bạc; một số tiền khá, để người ta
có thể sống với phẩm giá. Số tiền này có thể xấp xỉ với một quan tiền
mà ông Tôbít đã thỏa thuận trả cho người cùng đi với con trai ông là Tôbia đến
xứ Mêđia (Tb 5:15).
Nhưng trong ý nghĩa của
Tin Mừng, đồng bạc này lập tức được gọi bằng tên khác; bởi người Chủ; trong thực
tế, ông ta nói: “Ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng (câu
4). Gia nghiệp của chúng ta, tiền công của chúng ta là những gì xứng
đáng, là những gì tốt lành: Chúa Giêsu. Trong thực tế, Người không
ban cho, Người không hứa hẹn điều gì khác hơn là chính bản thân Người. Phần
thưởng dành cho chúng ta ở trên Thiên Đàng (Mt 5:12), với Chúa Cha (Mt
6:1). Nó không phải là tiền bạc, đồng bạc được dùng để nộp thuế bình
quân mỗi đầu người cho người La-mã, mà trên đó có hình và danh hiệu của vua
Xê-da (Mt 22:20), nhưng là khuôn mặt của Chúa Giêsu, tên của Người, sự hiện diện
của Người. Người nói với chúng ta: “Thầy ở với các con
không chỉ hôm nay, nhưng tất cả mọi ngày, cho đến ngày tận thế. Chính
Thầy sẽ là phần thưởng của các con”.
Sai đi
Lời Tin Mừng ban cho
cuộc sống của chúng ta một năng lượng rất mạnh mẽ, bắt nguồn từ các động từ “sai”,
“cắt đặt”, “ra đi”, được lặp lại hai lần; cả hai đều liên quan đến
chúng ta, chúng động chạm đến chúng ta một cách sâu xa, chúng gọi chúng ta và
đưa chúng ta vào sự hoạt động. Chính Chúa Giêsu đã sai chúng ta, khiến
chúng ta thành các môn đệ của Người: “Này, Thầy sai các con đi” (Mt
10:16). Người gọi chúng ta mỗi ngày cho sứ vụ của Người và lặp lại với
chúng ta: “Hãy đi! Và niềm hạnh phúc của chúng ta được ẩn
dấu chính nơi này, trong việc thực hiện Lời này của Người. Nơi Người
sai chúng ta đến, theo cách mà Người chỉ, hướng tới thực tế và những kẻ mà Người
đặt để trước chúng ta.
Lời lẩm bẩm, sự càu
nhàu
Lời của sự quan trọng
tột cùng, của sự thật và hiện diện rất thực trong kinh nghiệm cuộc sống hằng
ngày của chúng ta; chúng ta không thể chối cãi được điều này: chúng
nằm trong tâm khảm chúng ta, trong ý nghĩ của chúng ta, thỉnh thoảng chúng hành
hạ chúng ta, biến dạng chúng ta, làm cho chúng ta vô cùng mệt mỏi, đẩy chúng ta
ra xa khỏi chính mình, khỏi những người khác, xa khỏi Chúa. Vâng,
chúng ta cũng ở trong số những người làm công phàn nàn và càu nhàu, lẩm bẩm
trách cứ Chủ Nhà. Tiếng rầm rì của lời lầm bầm phát xuất từ rất xa,
nhưng nó cũng đã thành công để hợp với chúng ta và len lỏi vào tâm khảm chúng
ta. Dân Israel ở sa mạc đã lẩm bẩm rất nhiều đối với Chúa của họ và
chúng ta đã nhận lãnh thừa kế những ý nghĩ ấy, những lời ấy: “Chính
vì Đức Chúa ghét bỏ chúng ta mà Người đã đưa chúng ta ra khỏi đất Ai Cập, để
trao chúng ta vào tay người Amôri và tiêu diệt chúng ta” (Đnl 1:27) và chúng ta
nghi ngờ về năng lực của Người có thể nuôi dưỡng chúng ta, dẫn đường chúng ta,
bảo vệ chúng ta: “Trong sa mạc này, liệu Chúa Trời có thể dọn gì cho
ta ăn?” (Tv 78:19). Lẩm bẩm có nghĩa là không lắng nghe tiếng nói của
Chúa, không còn tin tưởng vào tình yêu của Người dành cho chúng
ta: Vì vậy, chúng ta trở nên phẫn nộ, bất an, mạnh mẽ chống lại lòng
thương xót của Chúa và chúng ta tức giận với cách hành xử của Người và chúng ta
muốn thay đổi để làm cho nó hợp hơn với chương trình hành động riêng của chúng
ta: “Người lại ăn uống với những bọn thu thuế và quân tội lỗi!” (Lc
5:30; 15:2; 19:7). Nếu chúng ta chú ý lắng nghe kỹ thì có lời thầm
thì bí mật của con tim chúng ta. Làm thế nào để chữa lành
nó? Thánh Phêrô đề nghị cách này: “Hãy tiếp đón nhau mà
không lẩm bẩm kêu ca” (1Pr 4:9); chỉ có sự tiếp đón, đó là sự tiếp nhận có thể,
từng chút một, sẽ thay đổi trái tim chúng ta và mở nó ra để được tiếp nhận, có
khả năng mang trong nó trong mọi người, mọi tình huống, thực tế mà chúng ta gặp
trong đời sống. “Chấp nhận lẫn nhau” như lời Kinh Thánh
nói. Và điều đó chính là như vậy: chúng ta phải học chấp
nhận, hơn hết cả, như chính Chúa Giêsu, với đường lối yêu thương của Người và của
sự không thay đổi, về việc nói với chúng ta và thay đổi chúng ta, của chờ đợi
và thu hút chúng ta. Chấp nhận Người là chấp nhận những người ở bên
cạnh chúng ta, những ai đến gặp gỡ chúng ta; chỉ có hành động này mới có thể vượt
qua được lời lầm bầm khó chịu.
Lời lầm bầm phát sinh
từ sự nhỏ nhen, ganh tị, từ con mắt tội lỗi của chúng ta, như người Chủ vườn
nho đã nói, chính Chúa Giêsu. Người biết cách để giữ chúng ta bên
trong, Người biết cách thâm nhập cái nhìn của chúng ta và chạm đến trái tim của
chúng ta, trong tinh thần. Người biết chúng ta nghĩ gì, Người biết
chúng ta và yêu chúng ta; và vì tình yêu, Người đem chúng ta ra khỏi sự dữ, cất
cái màn che khỏi con mắt ganh tị của chúng ta, Người giúp chúng ta trở nên ý thức
về việc chúng ta nghĩ như thế nào, về điều suy nghĩ trong lòng chúng
ta. Vào lúc Người nói: “Có lẽ mắt các bạn ganh tị?” như
Người nói trong bài Tin Mừng hôm nay, Người chữa lành chúng ta, Người lấy dầu
thơm và bôi, lấy bùn trộn với nước bọt của mình mà bôi lên mắt chúng ta, vào rất
sâu tâm hồn.
6. Giây
Phút Cầu Nguyện: Thánh Vịnh 135
Đáp
ca: Tình yêu Chúa dành cho chúng con thật là vô tận!
Allêluia! Hãy
tạ ơn Gia-vê vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Hãy tạ ơn Thần các thần,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Hãy tạ ơn Chúa các chúa,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Chỉ có Người làm nên những kỳ công vĩ đại,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
Người sát hại các con
đầu lòng Ai-cập,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
dang cánh tay uy quyền mạnh mẽ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
dẫn Israel ra khỏi xứ này,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Nước Biển Đỏ, Chúa phân làm hai khối,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
đưa Israel lối giữa băng qua,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
xô xuống biển Pha-ra-ô cùng binh tướng,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Chúa dẫn đưa dân Người qua sa mạc,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
Chúa đã nhớ đến ta giữa
cảnh nhục nhằn,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
gỡ ta thoát khỏi tay thù địch,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
Người ban lương thực cho tất cả chúng sinh,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Hãy tạ ơn Thiên Chúa cửu trùng,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
7. Lời
Nguyện Kết
Thân lạy Cha, con cảm
ơn Cha đã mặc khải cho con về Con Một Cha và đã cho con gia nhập vào gia nghiệp
của Người, trong vườn nho của Người. Chúa đã khiến con thành một
ngành nho, khiến con thành trái nho: giờ đây con chỉ cần ở lại trong Người,
trong Chúa và để cho bản thân con được trở nên trổ sinh hoa trái tươi tốt, chín
cây, được bỏ vào trong máy ép. Vâng, lạy Chúa, con biết rằng: Đây
là phương cách, con không sợ hãi, bởi vì Chúa đang ở với con. Con biết
rằng cách duy nhất đưa đến sự hạnh phúc là món quà tự hiến cho Chúa, món quà
cho các anh em. Nguyện xin cho con là một ngành nho, xin cho con là
những trái nho tốt tươi, để được vắt ép theo ý Chúa! Amen.
https://dongcatminh.org/event/lectio-divina-chua-nhat-xxv-thuong-nien-a/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét