17/09/2020
Thứ Năm tuần 24
thường niên
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 15, 1-11
"Chúa hiện ra với
Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em
Tin Mừng mà tôi đã rao giảng cho anh em, và anh em đã lãnh nhận và đang tin
theo, nhờ đó anh em được cứu độ, nếu anh em tuân giữ lời lẽ tôi đã rao giảng
cho anh em, bằng không, anh em đã tin cách vô ích. Tôi đã rao truyền cho anh em
trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi
chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người
đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với
mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc;
nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết.
Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người
cũng hiện ra với chính tôi như đứa con sinh non.
Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ,
và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội thánh của Thiên
Chúa. Nhưng nay tôi là người thế nào là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn của Người
không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các đấng:
song không phải tôi, mà là ơn của Thiên Chúa ở với tôi. Dù tôi, dù là các đấng,
chúng tôi đều rao giảng như thế cả, và anh em cũng đã tin như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 28
Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì
Chúa hảo tâm (c. 1a).
Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì
đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của
Người muôn thuở". - Ðáp.
2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu
Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống và tôi sẽ loan truyền
công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3) Chúa là Thiên Chúa của con và con cảm tạ
Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 135
Alleluia, alleluia! - Xin tỏ cho tôi tớ Chúa
thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 7, 36-50
"Tội bà rất nhiều mà đã
được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa
Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt
có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong
nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ
bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc
lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự
nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến
mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!" Nhưng
Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với
ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
"Một người chủ nợ có hai con nợ, một người
nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ
tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều
hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa
Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng".
Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo
Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ
nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà
lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi.
Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi.
Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều.
Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít".
Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã
được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông
này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Ðức tin
con đã cứu con, con hãy về bình an".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Lòng Sám Hối
Tin Mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa; phiên
tòa này không có luật sư biện hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được
ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.
Có được bình an trong tâm hồn là điều quí giá
nhất Chúa Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện
tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu
trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Lời đầu tiên của Ngài khi bắt đầu sứ vụ công khai
là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Ngài đến là để khơi dậy lòng
sám hối của con người; Ngài đến là để hòa giải tội nhân với Thiên Chúa. Cái chết
của Ngài trên Thập giá không phải là cái chết của nhà cách mạng hay chính trị
gia, mà thiết yếu là để đền bù tội lỗi con người.
Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đã nhận ra
sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của
người xung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của
mình. Chúa Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau:
"Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều". Càng cảm nhận được ơn
tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.
Lịch sử Giáo Hội được tô điểm bằng lòng sám hối
thể hiện qua tình mến. Cuộc đời của bất cứ vị thánh nào cũng đều bắt đầu bằng
lòng sám hối, nghĩa là ý thức sâu xa về tội lỗi của mình. Nhưng sám hối không
chỉ là ý thức về tội lỗi của mình. Có lẽ không ai ý thức được hành động phản bội
của mình cho bằng Yuđa, nhưng ý thức ấy chưa hẳn là sám hối. Phêrô cũng đã chối
Thầy, nhưng nơi ngài lòng sám hối không chỉ dừng lại ở ý thức tội lỗi, nhưng đã
biến thành tình yêu thương; Phêrô đã nói lên lòng sám hối bằng ba lần thưa với
Chúa: "Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa".
Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức
tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối.
Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được
thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha
thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất phát từ ý
thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái
chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha
thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương.
Nguyện xin Chúa nung nấu tâm tình sám hối đích
thực nơi chúng ta và ban cho chúng ta niềm an bình nội tâm, để chúng ta cũng biết
chia sẻ niềm an bình ấy với mọi người bằng cảm thông, tha thứ, và những thể hiện
của bác ái.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Năm Tuần 24 TN2
Bài đọc: I Cor 15:1-11; Lk 7:36-50.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết điều chính yếu và điều phụ thuộc.
Con người dễ lẫn lộn giữa những cái chính yếu
và cái phụ thuộc. Bổn phận của người rao giảng là phải nhận ra đâu là điều
chính và đâu là điều phụ trước khi loan truyền cho người nghe. Trong Bài đọc I,
thánh Phaolô chỉ cho các tín hữu của ngài về sự quan trọng và những điều chính
yếu của Tin Mừng. Bài Phúc Âm tường thuật hai cách đón tiếp Chúa Giêsu của
Simon, người Pharisee, và của người đàn bà tội lỗi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thánh
Phaolô muốn tổng kết tất cả những gì ngài muốn viết cho các tín hữu Côrintô sau
khi đã giảng dạy chi tiết từng vấn đề. Trọng tâm của những gì ngài rao giảng là
Tin Mừng đã được truyền lại cho ngài từ chính Chúa và ngài truyền lại cho họ.
1.1/ Sự quan trọng và cần thiết của Tin Mừng:
(1) Tin Mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh
nhận: Không ai tự phát minh ra Tin Mừng, nhưng tất cả đều lãnh nhận Tin Mừng.
Và cũng không ai được tự động loan báo nếu không được ủy thác để rao giảng Tin
Mừng.
(2) Trong Tin Mừng đó anh em đang đứng vững: Điều
lợi ích đầu tiên của Tin Mừng là giúp người nghe được đứng vững trên hai chân.
Sống trong thế gian với bao nhiêu những học thuyết khác nhau làm con người
hoang mang không biết đâu là đạo lý thật, Tin Mừng giúp các tín hữu nhận ra đâu
là Sự Thật phải theo.
(3) Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát: Đức
tin phải đi đôi với hành động. Thánh Phaolô nhấn mạnh tới việc thực hành đức
tin để được ơn cứu độ: “Nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì
anh em có tin cũng vô ích.”
1.2/ Trọng tâm của Tin Mừng: Thánh Phaolô liệt
kê 3 điều chính yếu của Tin Mừng đòi hỏi các tín hữu phải tin:
(1) Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng
như lời Kinh Thánh.
(2) Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã
trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh.
(3) Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với
Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong
số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện
ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra
với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non.
1.3/ Vai trò của người rao giảng: Dẫu mỗi người
giữ một vai trò khác nhau nhưng tất cả đều rao giảng cùng một Tin Mừng.
- Vai trò của Phaolô: Ngài thú nhận rõ ràng
trên đây ngài không phải là một trong Nhóm Mười Hai, nhưng cũng là Tông Đồ Dân
Ngọai vì được sai đi bởi chính Chúa. Ngài cũng thú nhận luôn quá khứ không tốt
đẹp của Ngài và làm nổi bật ơn Chúa tác động trên ngài: “Thật vậy, tôi là người
hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã
ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên
Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều
hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với
tôi.”
- Vai trò của các vị khác: Phaolô tôn trọng
vai trò của Phêrô trong việc điều khiển Giáo Hội và cùng với các Tông Đồ khác
rao giảng Tin Mừng cho người Do-Thái. Mỗi người một công việc khác nhau nhưng
cùng góp phần trong việc rao giảng một Tin Mừng. Ngài kết luận: “Tóm lại, dù
tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em
đã tin như vậy.”
2/ Phúc Âm: Ai được
tha nhiều thì yêu mến nhiều, ai được tha ít thì yêu mến ít.
Chúng ta thử nhìn sơ qua thái độ của 3 nhân vật
chính trong Phúc Âm hôm nay. Trước tiên là của ông Simon. Việc ông mời Chúa đến
nhà dùng bữa là hiếm có vì ông là người Pharisee, những người mà thường hay chỉ
trích Chúa về cách cư xử của Ngài. Phúc Âm không cho biết lý do tại sao ông mời
Chúa đến nhà; nhưng chắc ông ngạc nhiên về sự hiện diện của người phụ nữ nơi
bàn tiệc. Thứ đến, là người phụ nữ can đảm. Bà biết cuộc đời tội lỗi của Bà, Bà
cũng biết những người trong thành biết Bà là ai, Bà phải biết Chúa Giêsu là ai
để có thể can đảm bày tỏ lòng ăn năn thống hối của mình mà không sợ bị từ chối
đuổi đi. Sau cùng là của Chúa Giêsu. Ngài để cho người phụ nữ làm tất cả những
điều đó dưới cái nhìn soi mói của tất cả khách dự tiệc và thẳng thắn bênh vực
người phụ nữ.
Dưới cái nhìn của chủ nhà, Chúa Giêsu đã trở
nên ô uế vì đã để cho người phụ nữ tội lỗi chạm vào. Ông cũng tự hỏi về uy quyền
của Chúa: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà
đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!" Chúa thấu
suốt tâm hồn ông và Ngài hết sức tế nhị đưa ra một ví dụ về hai con nợ: một người
nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Người đọc dễ dàng nhận ra Chúa đang
nhắc khéo cả ông Simon và người phụ nữ đều là những tội nhân trước mặt Chúa, và
cả hai đều cần đến tình thương tha thứ của Chúa. Tội của người phụ nữ đã rõ
ràng, tội của ông Simon là tội kiêu ngạo, tự cho mình là công chính và có quyền
xét đóan người khác. Câu hỏi của Chúa cho ông Simon cho thấy Ngài muốn nhấn mạnh
đến tình yêu chứ không đến tội lỗi của người được tha: Ai được tha nhiều thì sẽ
yêu mến nhiều hơn.
Chúa Giêsu so sánh cách đón tiếp của ông Simon
và của người phụ nữ: Chúa là thượng khách của ông Simon, thế mà cách đón tiếp của
ông đã chứng minh ông đã không đón tiếp Chúa như một thượng khách. Trong khi
người phụ nữ chỉ là người qua đường mà đã dành cho Chúa một cách đón tiếp chưa từng
thấy trong lịch sử con người: "Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà
ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt
chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ
lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu
tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông
hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít thì yêu mến ít." Và để thưởng công cho hành động can đảm
đầy yêu thương của người phụ nữ, Đức Giêsu trấn an chị: "Tội của chị đã được
tha rồi. Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nếu chúng ta không nắm vững những điều chính
yếu, chúng ta sẽ dễ dàng bị hoang mang trước bao nhiêu học thuyết của người đời.
Để có thể thắng vượt những hoang mang, hiểu biết Tin Mừng là điều không thể thiếu
để chúng ta có thể đứng vững trên hai chân. Người rao giảng có thể có những
cách giảng khác nhau, nhưng phải rao giảng cùng một Tin Mừng.
- Khi mời Chúa vào nhà, chúng ta phải chuẩn bị
để đón tiếp Chúa cách xứng đáng. Một trong những chuẩn bị đầu tiên là thái độ
khiêm nhường nhận ra mình hèn hạ trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Cách bất
xứng để đón Chúa là thái độ kiêu hãnh và xét đóan người khác như ông Simon hôm
nay.
Lm. Anthony ĐINH MINH
TIÊN, OP.
17/09/20 THỨ NĂM TUẦN 25 TN
Th. Rô-be-tô Ben-la-mi-nô, giám mục, tiến sĩ
HT
Lc 7,36-50
NHỮNG ĐIỀU NHÌN MÀ KHÔNG THẤY
Rồi quay lại phía người phụ nữ, Chúa Giê-su nói với ông
Si-mon: “Ông thấy người phụ nữ này chứ?… (Lc 7,44)
Suy niệm: Có lắm khi
giữa một đám đông, bạn có ý tìm một người, người đó đứng ngay trước mắt bạn, thế
mà lạ thay bạn lại không nhìn thấy. Phần ông Si-mon, ông thấy rõ người phụ nữ đứng
đàng sau Chúa Giê-su lắm chứ. Và chắc chắn ông cũng thấy rõ bà ấy lấy tóc mà
lau đôi chân Ngài ướt đẫm nước mắt của bà, rồi ông thấy bà đã lấy dầu thơm xức
chân Chúa như thế nào. Và hơn nữa, ông còn biết rõ lý lịch không tốt đẹp gì của
bà ta: “một người tội lỗi”. Thế nhưng, ông nhìn mà không thấy được tấm
lòng của người phụ nữ ấy, “một tấm lòng tan nát khiêm cung” vì
sám hối, một tấm lòng yêu mến thiết tha vì đã “được tha thứ nhiều.”
Mời Bạn: May thay
cho chúng ta là Chúa không phân loại xếp hạng ta theo lý lịch, quá trình bản
thân hay bảng liệt kê thành tích của ta. Ngài cũng không đóng khung ta trong
cái quá khứ tội lỗi của ta. Ngài nhìn thấu suốt tận đáy lòng và Ngài phán xét dựa
trên thái độ hiện tại của ta. Vì thế, điều Ngài mong thấy được nơi ta là một
tâm hồn biết ăn năn sám hối và yêu mến Chúa nồng nàn.
Chia sẻ: Được Chúa
nhìn với cặp mắt cảm thông như thế, chúng ta cũng phải nhìn nhau bằng cặp mắt của
Chúa.
Sống Lời Chúa: Tập nhìn
anh em bằng cái nhìn của Chúa để có thể cảm nhận được những nỗi niềm của anh em
để mà cảm thông chia sẻ.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa, xin cất khỏi con những cái nhìn đầy thành kiến về anh em con. Những xin
cho con biết nhìn nhau bằng cặp mắt của Chúa, để con nhận ra Chúa và yêu Chúa
đang hiện diện trong họ. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Chị hãy
đi bình an
Suy niệm :
Chỉ Luca mới nói
đến chuyện các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa.
Họ mời Đức Giêsu dự tiệc
ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1).
Họ còn báo cho ngài biết
về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31).
Xem ra không phải mọi
người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu.
Hôm nay Đức Giêsu là
khách mời của ông Simon.
Ngài chẳng ngại đáp lại
lời mời của một người thuộc phái Pharisêu,
cũng như ngài đã chẳng
sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34).
Khi ăn tiệc lớn ở xứ
Palestine thời đó,
các vị khách thường ngả
người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối,
chân đưa ra ngoài, tay
trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn.
Khi nhà có đại tiệc,
người ngoài được tự do ra vào.
Bất ngờ có một phụ nữ
mạnh dạn bước vào phòng tiệc.
Người ta nhận ra chị
là một người tội lỗi sống trong thành phố,
nhưng không chắc chị
có phải là một cô gái điếm không.
Chị cố ý đến đây vì biết
Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc.
Đây là người mà chị đã
từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ.
Chị đã chuẩn bị khá kỹ
và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài.
Chị đem theo một bình
bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37).
Đứng ở gần chân Đức
Giêsu, chị bật khóc nức nở.
Nước mắt chị làm ướt
chân Ngài.
Những giọt nước mắt ăn
năn vì tội lỗi quá khứ,
hay vui sướng vì biết
mình đã đựoc thứ tha ?
Sau đó chị cởi khăn
choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu.
Cuối cùng, chị còn hôn
lên chân và xức dầu thơm nữa.
Nói chung, những cử chỉ
táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt
đối với những người dự
tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy !).
Xõa tóc trước công
chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm,
vuốt ve và hôn chân một
người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi.
Hơn nữa, chị lại là một
người tội lỗi có tiếng trong thành.
Một con người nhơ uế
như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế.
Chúng ta không ngạc
nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm:
“Nếu quả thật ông này
là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết
người phụ nữ đang đụng
vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.”
Đức Giêsu có biết
không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ.
Nhưng nếu Ngài biết,
mà ngài lại cứ để chị làm như vậy,
thì còn gì là danh dự
của ông Simon và của chính Ngài nữa!
Đức Giêsu biết chị là
ai, biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8).
Ngài không phản ứng gì
vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm.
Đó không phải là cử chỉ
khêu gợi của một cô gái làng chơi,
nhưng là những hành vi
diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ.
Đức Giêsu hiểu những
giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc.
Ngài hiểu cả những cử
chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình:
rửa chân bằng nước mắt,
lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm.
Ngài đọc thấy trong đó
lòng trân trọng và biết ơn.
Đó là sự trào dâng
không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến.
Tuyệt đối không có
chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy.
Và Đức Giêsu đã đón nhận
tất cả với trái tim thanh khiết của mình.
Để soi sáng cho ông
Simon hiểu về hành động của người phụ nữ,
Đức Giêsu kể cho ông
nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42)
Hai người cùng mắc nợ,
một người 500 quan tiền, một người 50.
cả hai cùng được chủ nợ
tha vì họ không có gì để trả.
“Vậy trong hai
người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn ?”
Câu hỏi chẳng có gì
khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng.
Ta nên lưu ý: yêu mến ở
đây có nghĩa là biết ơn.
Tự nhiên người được
tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít.
Dụ ngôn đơn giản của Đức
Giêsu được áp dụng vào thực tế.
Rõ ràng là chị phụ nữ
đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon.
Đức Giêsu làm một so
sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46).
Simon đã chẳng cho
Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu.
Dĩ nhiên đó chẳng phải
là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách,
nhưng dù sao cách tiếp
khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia.
Câu 47 là một câu quan
trọng để hiểu đúng ý của đoạn Tin Mừng này.
Câu này trước đây thường
được dịch như sau:
“Tội của chị ấy tuy
nhiều, nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít thì
yêu mến ít,”
Dịch như thế dễ gây hiểu
lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều.
Thật ra phải hiểu ngược
lại mới đúng.
Chính vì chị được tha
nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều.
Lòng yêu mến là kết quả,
chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ.
Lòng biết ơn đến sau
khi nhận ơn.
Hiểu như thế sẽ hợp với
ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42),
và hợp với vế sau của
câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.
Chẳng rõ ông Simon có
nhận ra mình là ai chưa.
Ông đúng là người yêu
ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia,
vì ông được tha ít
hơn, vì ông có ít tội hơn !!!
Nhưng có thật ông ít tội
hơn người phụ nữ tội lỗi này không?
Hay vì tự hào mà ông
không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa?
Tự hào về đạo đức vẫn
là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn.
Người phụ nữ tội lỗi
là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47).
Tội quá khứ, khi được
tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn.
Những vấp ngã khi được
chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới,
can đảm hơn, quảng đại
hơn và nồng cháy hơn.
Cuối cùng, Đức Giêsu
đã quay lại nói chuyện với người phụ nữ.
Ngài khẳng định lại ơn
mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc:
“Tội của chị đã được
tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó.
Như thế Đức Giêsu
không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ.
Ngài còn lớn hơn một
ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị.
Cuối cùng, Đức Giêsu lại
ca ngợi lòng tin của chị.
Lòng tin thắm đượm
tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin.
Cả hai quyện vào nhau
giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an:
“Lòng tin của chị đã cứu
chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50).
Chúng ta có thể học được
nhiều điều nơi người phụ nữ:
lòng tin mãnh liệt vào
sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn,
Chúng ta cũng cảm nghiệm
được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Sức mạnh ấy có thể làm
mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng,
và dạy chị biết yêu
như yêu lần đầu.
Chẳng rõ ông Simon có
học được điều gì từ biến cố này không?
Cầu nguyện :
Lạy Thiên Chúa, đây lời
tôi cầu nguyện :
Xin tận diệt, tận diệt
trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh
thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn
vui.
Xin cho tôi sức mạnh
hiên ngang
để đem tình yêu gánh
vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh
ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh
rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục
trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo
dai
để nâng tâm hồn vươn
lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh
tràn trề
để âu yếm dâng mình
theo ý Người muốn. (R. Tagore)
(Lm. Ant. Nguyễn Cao
Siêu SJ.)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng 9
17 THÁNG CHÍN
Thánh Thần, Đấng Dẫn Dắt Chúng Ta
Hội Thánh, được sinh ra từ Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô, vẫn
không ngừng được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. “Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa
Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho anh em mọi sự và làm cho anh em nhớ lại
tất cả mọi điều [Thầy] đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Hội Thánh trên trần gian vẫn không ngừng được dẫn dắt bởi Thánh Thần của
Đức Kitô Phục Sinh để đào sâu chính chân lý mà Hội Thánh đã nhận lãnh trực tiếp
từ môi miệng của Thầy. Trải qua bao thế kỷ, Hội Thánh đã thấu hiểu hơn chân lý ấy
nhờ sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Đó là con đừơng giúp Hội Thánh ngày càng nhận
hiểu Đức Kitô nhiều hơn. Sự hiểu biết có sức cứu độ này đã thật sự được sở đắc
bởi Hội Thánh khải hoàn, là “Giêrusalem trên trời” (Gl 4,26). Chúa Thánh Thần
khích lệ Hội Thánh tại thế bằng viễn cảnh huy hoàng của Hội Thánh vinh quang.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 18-9
1Cr 15, 1-11; Lc 7, 36-50.
LỜI SUY NIỆM: Trong câu chuyện Chúa Giêsu đang dùng bữa tiệc
tại nhà ông Simon, có một người phụ nữ mang tiếng là tội lỗi trong thành đến lấy
dầu thơm mà rửa chân cho Chúa Giêsu mà còn xõa tóc mình mà lau chân cho Chúa. Cả
câu chuyện cho chúng ta thấy sự trái ngược giữ hai thái độ và hai lòng trí: Đối
với ông Simon, ông đang là người thuộc nhóm biệt phái, ông ta tự cho mình là
người công chính và tin tưởng mình là người tốt trước mặt Thiên Chúa và người đời.
Nên đã không nhận được ơn tha thứ. Còn người phụ nữ nhận biết mình là kẻ tội lỗi
trước mặt Thiên Chúa cùng với đồng loại, người phụ nữ này cần đến tình yêu
thương và sự tha thứ, khi nhận biết Chúa Giêsu là Đấng yêu thương, có quyền tha
thứ tội lỗi và chữa lành cho con người. Nàng đã đến với Ngài, bất chấp những cặp
mắt xoi bói và kết án; Nàng đã nhận được ơn tha thứ và chữa lành trong tình
thương của Chúa. Thiên Chúa là tình yêu và Ngài trông chờ con người tìm đến
tình yêu.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
NGÀY 17-09 THÁNH RÔBERTÔ BELLARMINÔ (1452 - 1621)
Thánh Rôbertô Bellarminô sinh ngày 4 tháng 10 năm 1452 tại Montepulcianô.
Cha Ngài là Vinconzo Bellarminô. Mẹ Ngài là Cynthia Cervini. Em Đức giáo hoàng
Marcellô II. Ngay khi còn là một học sinh tại trường các cha dòng Tên. Ngài đã
tỏ ra thông minh đặc biệt. Cha Ngài đã định cho Ngài theo học y khoa. Dầu vậy
năm 1560, Ngài xin gia nhập dòng Tên và đã được cha mẹ ưng thuận.
Theo học triết tại Roma, Ngài đã tỏ ra là một học sinh nổi bật. Từ Roma
Ngài đã được gởi đi dạy học trong các trường của dòng Tên trong 4 năm tại Florence và
Modevi. Lúc này Ngài đã thông thạo tiếng Hy lạp và được chỉ định dạy cho các bạn
cùng lớp. Dầu chưa làm linh mục, Ngài thường được mời đi giảng và được coi như
là nhà giảng thuyết từ bẩm sinh. Ngài học thần học trước hết ở Padua, rồi
sau ở Louvain và thụ phong linh mục tại đây năm 1570. Các bài giảng của
Ngài tại Louvain mang lại thành công đăc biệt. Anh em Tin Lành tại
Anh cũng tìm đến nghe Ngài và nhiều người đã trở lại. Với dáng nhỏ bé, Ngài thường
đứng trên ghế đẩu từ bục giảng.
Là giáo sư thần học tại Louvain, Ngài rất mộ mến các tác phẩn của
thánh Tôma. Trong các bài diễn thuyết, Ngài đã chống lại một cách hữu hiệu
nhưng đầy tình thương với các giáo thuyết khơi nguồn cho thuyết Giansenisme sau
này. Thánh Robertô cũng thúc đẩy các sinh viên học tiếng Do thái và đã soạn cho
họ một cuốn văn phạm ngắn gọn. Ngài đọc nhiều về các giáo phụ và các văn sĩ
khác trong Giáo hội, một nỗ lực còn ghi lại trong tác phẩm "về các văn sĩ
trong Giáo hội" (xb năm 1623).
Sau thời kỳ ở Louvain, Ngài được trao phó thi hành một công việc
khó khăn là làm giáo sư phụ trách các cuộc tranh luận tại Roma. Các cha dòng
Tên đã tổ chức việc diễn giảng này nhằm trả lời bằng ngôn ngữ thời đại đối với
các cuộc tấn công của anh em tin lành. Suốt 11 năm, thánh Robertô đã nỗ lực cho
công cuộc này với sự thành công rực rỡ. Nhiều sinh viên của Ngài đã trở thành
thừa sai tại Anh và tại Đức. Một số người đã đổ máu vì đức tin tại Anh.
Các bài diễn thuyết của Ngài được xuất bản lần đầu tại Ingolstudt, từ
năm 1586 - 1593 dưới tựa đề "các cuộc tranh luận về đức tin công giáo chống
lại các người theo lạc giáo thời nay". Có 20 ấn bản khi Ngài còn sống và
nhiều ấn bản sau này nữa. Đây là một công trình bảo vệ đức tin đầy đủ nhất của
Giáo hội có được và suốt ba thế kỷ liền nó là áo giáp cho các nhà giảng thuyết
và các văn sĩ.
Những trách vụ khác thánh Robertô đảm nhận thời kỳ này là tu chính tác
phẩm chú giải của Salmeron, một bạn dòng, làm việc trong ủy ban tu chính nghi
thức phụng vụ Roma và bản kinh thánh phổ thông. Ngài cũng góp phần lớn cho Đức
Sixtô V trong việc ấn hành các tác phẩm của thánh Ambrosiô.
Với vai trò thần học gia của Đức Hồng y Goetni. Vị đặc sứ của Đức giáo
hoàng tại Pháp năm 1589, thánh Robertô chứng tỏ rằng: Ngài là một nhà ngoại
giao lẫn một học giả có khả năng. Việc đại diện tại Paris thật nặng
nhọc. Nhưng thử thách lớn lao nhất lại đến từ một phía khác. Đức giáo hoàng
Sixtô V quyết định đặt cuốn I trong bộ những cuộc tranh luận vào sổ sách bị cấm.
Đức giáo hoàng không bằng lòng với chủ trương của thánh Robertô, cho rằng uy
quyền của giáo hoàng trực tiếp trong các vấn đề vật chất, và nếu có thì chỉ qua
uy tín tinh thần mà thôi. Chủ trương này đã trở nên thông thường trong Giáo hội
ngày nay. Nhưng Đức Sixtô đã qua đời và Đấng kế vị Ngài đã rút lại quyết định.
Dầu bị thử thách nhưng thánh Robertô đã góp phần vào ấn bản Kinh thánh thời Đức
Sixtô và đã viết tựa cho ấn bản cũ được vạch ra với một tinh thần bác ái.
Thánh Robertô liên tiếp làm cha tinh thần và viện trưởng của học viện
Roma, rồi làm bề trên tỉnh dòng Naples. Tại Roma Ngài hướng dẫn một thánh
trẻ dòng Tên là Luy Gonzaga. Tại Naples, chính Ngài được một cha dòng Tên khác
là thánh Bernadiô Realinô sau này gọi là thánh.
Bị ép buộc nhận chức Hồng y năm 1599, từ đó Ngài lo các việc cho toàn thể
Hội Thánh, chẳng hạn như vụ án Galilêô và cuộc tranh luận về ơn thánh giữa các
cha dòng Daminh và dòng Tên.
Ngài làm Tổng giám mục Capua trong ba năm, rồi chấm dứt những ngày hạnh
phúc ấy vào năm 1605 khi Ngài được triệu về Roma và cầm viết bênh vực Giáo hội.
Liên tiếp Ngài dàn xếp với Fra Sarpi miền Venice, với vua Giacôbê I nước Anh
và với văn sĩ Pháp Guillaume Barchony.
Thánh Robertô qua đời ngày 17 tháng 9 năm 1621, được tuyên thánh năm
1928 và được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1931.
(daminhvn.net)
17 Tháng Chín
Lời Nói Không Mất Tiền
Mua
Mahatma Gandhi, người đề xướng chủ trương
tranh đấu bất bạo động, đến Phi Châu. Ông vào dùng bữa trong một quán ăn bình
dân. Sau khi dùng bữa, ông trả tiền và nói với người giúp bàn: "Xin
cám ơn vì sự tử tế của anh". Người giúp bàn trả lời:
"Thưa ngài, tôi sẽ không bao giờ quên ngài. Từ 25 năm phục
vụ ở đây, tôi chưa bao giờ nghe được một tiếng
cám ơn".
"Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau". Một tiếng cám ơn, một lời chào hỏi, nếu được thực thi với tất
cả chân tình là một biểu lộ của một lòng tin sâu sắc. Nói một tiếng
cám ơn, biểu lộ một cử chỉ thân thiện với người khác là muốn
nói lên rằng tình liên đới giữa con người là một điều thiết yếu và ta cần có
người chung quanh để sống với. Nói một tiếng cám ơn với người nào đó
là khẳng định giá trị và nhân phẩm của người đó. Nhưng ở đời, có
ai mà không cho ta một món quà hay không dạy ta bất cứ bài học nào đó.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét