Thứ Ba Tuần 9 Thường Niên Năm II
BÀI ĐỌC I: 2 Pr 3, 12-15a. 17-18
"Chúng ta mong đợi trời mới đất mới".
Trích thư thứ hai của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em hãy mong chờ và hối thúc ngày Chúa đến,
ngày mà các tầng trời bốc cháy tiêu tan, và ngũ hành bị thiêu rụi. Nhưng theo lời
Người hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, trong đó công lý sẽ ngự trị.
Anh em thân mến, bởi thế, trong lúc chờ đợi, ?hãy gắng sao nên vô
tì tích trước nhan Người, trong bình an. Và? anh em hãy coi lòng khoan dung của
Thiên Chúa như là phương thế cứu rỗi.
Vậy, anh em thân mến, được biết trước như thế, anh em hãy giữ
mình, kẻo bị lôi cuốn theo sự lầm lạc của những kẻ vô luân mà sa đoạ, mất lòng
trung kiên của anh em. Anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức
Giêsu Kitô, Đấng Cứu Rỗi và là Chúa chúng ta. Nguyện (chúc) vinh quang cho Người
bây giờ và đến muôn đời. Amen! Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 89, 2. 3-4. 10. 14 và 16
Đáp: Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng con dung
thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh
đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài. -
Đáp.
2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã
khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất,
Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người!" - Đáp.
3) Thọ kỳ của chúng con số niên bảy chục, nếu khoẻ mạnh ra thì được
tám mươi, nhưng đa số là những năm lầm than và phù phiếm, bởi chúng mau qua và
chúng con cũng bay theo. - Đáp.
4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng
con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự
nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ được thấy vinh quang Ngài. - Đáp.
ALLELUIA: 1 Pr 1, 25
Alleluia, alleluia! - Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng
đã rao giảng cho anh em. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 12, 13-17
"Các ông hãy trả cho
Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên
Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê
đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng:
"Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy
chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy
chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là
không?" Nhưng Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: "Sao các ông lại
thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền". Họ đưa cho Người một đồng tiền và
Người hỏi: "Hình và ký hiệu này là của ai?" Họ thưa: "Của
Cêsarê". Người liền bảo họ: "Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê;
của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa". Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người.
Đó là lời Chúa.
(www.dongcong.net)
05/06 – Thứ ba. Thánh Bôniphát,
giám mục, tử đạo.
"Các ông hãy trả cho Cêsarê cái gì thuộc
về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa".
Suy niệm:
Nhóm Pharisêu và
nhóm Hêrôđê không phải là hai nhóm hợp nhau.
Nhưng họ lại rất
hợp nhất trong việc muốn trừ khử Đức Giêsu (Mc 3, 6).
Ngài đã từng nhắc
các môn đệ đề phòng “men” của hai nhóm này (Mc 8, 15).
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, họ lại liên minh với nhau để giăng bẫy.
Trước khi đưa Đức
Giêsu vào bẫy, họ đã lấy lòng bằng những lời ca ngợi.
Rồi cái bẫy được
giăng ra, sắc như một con dao hai lưỡi.
“Có được phép nộp
thuế cho Xêda hay không?” (c. 14).
Đã từng có những
câu hỏi như thế.
“Có được phép chữa
bệnh trong ngày sa bát không?” (Mt 12, 10).
“Có được phép rẫy
vợ vì bất cứ lý do nào không?” (Mt 19, 3).
Được phép có nghĩa
là không đi ngược với Luật Môsê.
Từ năm thứ sáu
sau công nguyên,
khi Giuđê và
Samari trở thành một tỉnh của đế quốc Rôma,
mỗi người dân Do
thái phải nộp một thứ thuế thân cho những kẻ xâm lược.
Đã có những phong
trào đứng lên chống lại thứ thuế này.
“Có được phép nộp
thuế cho Xêda không?”
Nếu Đức Giêsu nói
rõ là được phép nộp thì đụng đến lòng ái quốc của dân,
và cũng đụng đến
nhóm Pharisêu là những người không chấp nhận
sự thống trị nhơ
nhớp của ngoại bang trên phần đất của Thiên Chúa.
Nếu Ngài nói rõ là
không được phép nộp thì Ngài sẽ gặp khó khăn với Rôma,
và sẽ đụng đến
nhóm Hêrốt là nhóm lãnh đạo dựa dẫm vào thế của đế quốc.
Dĩ nhiên Đức
Giêsu đã khôn ngoan không trực tiếp trả lời câu hỏi này.
Ngài không rơi
vào bẫy, ngược lại, có thể nói, Ngài giăng một cái bẫy khác.
“Đem cho tôi một
đồng bạc để tôi xem” (c. 15).
Đức Giêsu không
mang trong mình thứ tiền này, dùng để nộp thuế cho Rôma.
Nhưng kẻ thù của
Ngài thì mang, và đưa cho Ngài một đồng bạc.
Đồng bạc này mang
hình của Xêda và mang dòng chữ:
“Tibêriô Xêda,
con của Augúttô thần linh, Augúttô.”
Khi biết đó là đồng
tiền bằng bạc của Xêda, Đức Giêsu đã nói:
“Những thứ của
Xêda, hãy trả lại cho Xêda,
những thứ của
Thiên Chúa, hãy trả lại cho Thiên Chúa” (c. 17).
Câu trả lời này
đã làm họ sững sờ, không thể nào bắt bẻ được.
Đức Giêsu có vẻ
không chống lại chuyện nộp thuế thân cho Xêda.
Nhưng Ngài quan
tâm đến một chuyện quan trọng hơn nhiều.
Chuyện đối xử
công bằng với Thiên Chúa.
Trả lại cho Thiên
Chúa mọi sự thuộc về Thiên Chúa: đó là bổn phận.
Đồng tiền mang
hình Xêda, nên chúng ta phải trả cho Xêda.
Còn chúng ta là
người mang hình ảnh Thiên Chúa,
nên chúng ta phải
dâng trả chính bản thân mình cho Thiên Chúa.
Tên của Giêsu đã
được ghi khắc trong tim ta,
nên chúng ta
không được quên mình đã thuộc trọn về Giêsu.
Còn bao điều
trong đời ta thuộc về Thiên Chúa mà ta vẫn giữ cho mình!
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy
trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý
muốn của con,
cùng hết thảy
những gì con có,
và những gì
thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến
của thánh I-Nhã)
Lm An-tôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Một qui luật sống
Tin Mừng hôm nay ghi lại một cuộc
tranh luận khác giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái. Ở đây, chúng ta lại
thấy hai nhóm liên kết lại, kể từ khi họ bắt hụt Chúa Giêsu khi Ngài rao giảng ở
Capharnaum (3,6). Phái Hêrôđê ủng hộ Hêrôđê Antipa, thủ hiến xứ Galilê thì dựa
vào thế lực của Rôma, còn nhóm Biệt phái cũng khá hòa hoãn với giới thống trị.
Thái độ sống giả hình là thái độ của
những kẻ đóng kịch, cố gắng làm sao cho người khác thấy sự tốt nơi mình, mà thực
ra mình không có. Những người Biệt phái và những người thuộc phái Hêrôđê là những
kẻ giả hình, bởi vì họ làm ra vẻ muốn tìm biết sự thật, mà kỳ thực chỉ là để
tìm dịp bắt bẻ Chúa. Họ đến với Chúa, khen Ngài là người chân thật, cứ theo sự
thật mà giảng dạy đường lối của Thiên Chúa. Nhưng rất tiếc lời nói khéo léo của
họ lại che đậy một thủ đoạn, một âm mưu trả thù. Ðó là đường lối của con người,
nhất là của hạng người vụ lợi, ích kỷ, tham quyền.
Thật thế, sau khi giả vờ khen Chúa,
họ liền chất vấn Ngài: "Có được phép nộp thuế cho Xêda không?". Vấn đề
xem ra đơn giản, nhưng thực ra là một cạm bẫy. Theo họ, Chúa Giêsu là nhà cách
mạng thuộc dòng tộc Ðavít, chắc hẳn Ngài sẽ bảo họ không nộp thuế cho Xêda, và
thế là sa bẫy họ, lúc đó, họ sẽ có lý do để bắt bớ, giải nộp và giết Ngài.
Nhưng đối với Chúa Giêsu, cái bẫy của họ không có gì là nan giải, vì khôn ngoan
của loài người chỉ là dại khờ trước mặt Thiên Chúa. Mặc dù biết rõ ý đồ của họ,
Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật; Ngài còn nhân cơ hội này để đưa ra một
bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền và sau khi được biết hình và dấu trên đồng
tiền là của Xêda, Ngài nói tiếp: "Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa trả
về Thiên Chúa". Nói khác đi, một khi đã được hưởng nhờ ơn lộc của ai, thì
phải đền ơn đúng nghĩa, họ đã nhờ bổng lộc của Xêda, thì có bổn phận đền đáp
cho Xêda; nhưng Chúa cũng nhắc thêm bổn phận của con người đối với Thiên Chúa:
con người đã nhận lãnh nhiều ơn huệ của Thiên Chúa, nên cũng phải đền đáp ơn
Ngài. Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò đúng đắn của của quyền bính trần thế:
"Của Xêda, trả về Xêda", nhưng Ngài thêm: "Của Thiên Chúa, trả về
Thiên Chúa". Chúa nhắc nhở rằng quyền bính trần thế không phải là quyền
bính duy nhất trên con người, mà còn có quyền bính của Thiên Chúa nữa. Có những
điều con người phải trả cho Thiên Chúa, vì con người đã được tạo dựng theo và
giống hình ảnh Ngài; con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, nên con người buộc phải
dâng hiến mạng sống cho Ngài và để Ngài chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của
mình.
Xin Chúa soi sáng để chúng ta biết
phân biệt điều gì thuộc Xêda, điều gì thuộc Thiên Chúa, để chu toàn bổn phận đối
với trần thế và đối với Thiên Chúa.
Của Xêda
Họ cử mấy người Pha-ri-sêu và mấy
người thuộc phe Hê-rô-đê đến cùng Người để gài bẫy cho Người lỡ lời. Những người
này đến và nói: “Thưa Thầy chúng tôi biết Thầy là người chân thật, Thầy chẳng vị
nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy
đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da không? chúng tôi
phải nộp hay không phải nộp?” Nhưng Đức Giêsu biết họ giả hình, nên Người nói:
“Tại sao các người lại thử Tôi? đem một quan tiền cho Tôi coi!” Đức Giêsu bảo họ:
“Của Xê-da, trả về Xê-da; Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Và họ hết sức ngạc
nhiên về Người. (Mc. 12, 13-15, 17)
Chúa không phán: “Của Xêda trả về
Xêda miễn là nó phục tùng luật Chúa” nhưng “Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên
Chúa, trả về Thiên Chúa” Chúng ta thường có khuynh hướng giảm thiểu vế đầu của
câu và coi như chỉ mình Chúa là có quyền. Nghĩ Chúa xử sự như vậy là điều bất
công. Ta phải chú ý, người ta không biểu dương những quyền lợi của Chúa bằng
cách chối bỏ quyền lợi của con người. Những kẻ trong sạch của mọi thời đại
không để cho mình hoen ố vì bàn tay lấy cớ rằng họ phụng sự Thiên Chúa thì cũng
là những kẻ lừa dối như những kẻ nói quá trong chiều hướng kia vậy. Péguy đã có
lý để mạ lị “những người nghĩ rằng mình yêu mến Chúa bởi vì họ không thương yêu
ai cả.”
Dứt khoát mà nói, những quyền lợi của
con người cũng quan trọng như những quyền lợi của Thiên Chúa và khẳng định như
vậy không phải là phạm thượng. Trái lại, thừa nhận trong chốc lát rằng Người
đòi hỏi ta phải dành cho Người một tình yêu khác biệt, thiết tưởng sẽ là khinh
miệt Chúa. Người Kitô hữu không có một trái tim hai tầng. Những tội ác chống với
nhân loại cũng ghê tởm như những tội chối đạo vậy. Có những lời Phúc âm bị quên
đi tỉ như “Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu
mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga. 4,20).
Lễ phong vương
Có một thời việc xức dầu cho các vua
được coi như một bí tích. Những tranh cãi thần học nảy sinh từ một sự giải
thích như vậy chẳng mấy quan trọng, có điều là đó là ý tưởng đẹp và nó bắt nguồn
tư lòng ngưỡng mộ lớn lao đối với con người được tạo dựng để cai trị. Vả lại những
quyền lón lao dành cho con người đều là những tiêu đề cao quý: quyền sống, quyền
được đối xử công bình, quyền được yêu thương, bình đẳng…
Nếu Thiên Chúa đòi hỏi được yêu mến
trên hết mọi sự, thì tuyệt nhiên không phải là con người được hưởng một nửa
tình yêu đâu, mà vỏn vẹn chỉ có nghĩa là với tất cả khả năng yêu mến của ta
dành cho Người. Những anh em ta, dù có tuyệt vời đến đâu, thì vẫn có giới hạn
và tận cùng. Khi những người anh em ấy đã nhận được trọn tình yêu dành cho họ rồi,
thì trái tim ta vẫn còn có khả năng vươn lên tới vô hạn.
Một trong những việc làm làm vẻ vang
cho thời đại của ta là việc lập ra những hội nhân quyền. Ngày nào công việc của
những hiệp hội hay liên minh này sẽ thành công, ngày ấy Nước Thiên Chúa sẽ ở giữa
chúng ta.
Nộp thuế cho Xêda
Những người Do Thái thời Chúa Giêsu
không thích việc nộp thuế cho hoàng đế Rôma. Câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu
là cố ý làm cho Người bị mắc bẫy dù có trả lời như thế nào đi nữa. Nếu Chúa
Giêsu nói phải trả thuế thì sẽ bị dân chúng ghét bỏ. Nếu nói không trả thuế thì
sẽ bị tố cáo với nhà cầm quyền Rôma là kẻ phản loạn. Chúa Giêsu vạch mặt phơi
bày mưu mô những người hỏi Chúa bằng cách xin một đồng tiền và hỏi họ: "Ðồng
tiền nầy là hình và danh hiệu của ai?" Họ đáp: "Của Xêda". Sử dụng
đồng tiền này là dấu chỉ mình chấp nhận luật lệ Rôma. Ghét Chúa Giêsu, những kẻ
lãnh đạo muốn vịn vào lý do chính trị hoặc lèo lái chính trị để hạ uy tín của
Chúa và để có lý do bắt Chúa vì Chúa là một người làm chính trị.
Chuyện xưa và nay không khác nhau
cho lắm. Và Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ của Ngài rõ ràng: "Của Xêda trả
về cho Xêda; của Thiên Chúa trả về lại cho Thiên Chúa". Hãy chu toàn bổn
phận của mình đối với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cất khỏi lòng con những
điều u mê tối tăm. Xin Chúa cất khỏi trí con ý định mưu toan xấu xa. Xin Chúa
hướng lòng trí con về điều quang minh trong sáng để con suy nghĩ, mưu cầu và chỉ
làm điều tốt lành mà thôi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thánh Bonifaciô,
Giám Mục Tử Ðạo
(680-755)
Thánh Boniface làm phép Rửa (hình trên) và tử đạo (hình dưới). |
Bonifaciô tên thật là Winfrid sinh
khoảng 680 tại Kirton, nước Anh. Lớn lên trong bầu khí đạo đức thánh thiện sẵn
có của gia đình, nhất là nhờ ảnh hưởng của những tu sĩ truyền giáo quen biết,
chẳng bao lâu Bonifaciô ngỏ ý xin đi tu dòng. Tại đây, Bonifaciô được Bề Trên
và bạn đồng học quý chuộng vì lòng đạo đức và sự minh mẫn hiếm có. Ngài thụ
phong linh mục năm 30 tuổi và được cử làm giáo sư tu viện.
Nhưng ý Chúa nhiệm màu muốn đặt ngài
vào nhiệm vụ truyền bá Tin Mừng cho dân tộc Ðức. Năm 716, nhờ lòng hăng say,
ngài đã vượt qua mọi hiểm nguy, cấm cách hay sự chống đối của những người tà
giáo và đem nhiều linh hồn về cùng Chúa. Ðể thưởng công lao truyền giáo nhiệt
thành và đồng thời để công cuộc truyền giáo của ngài đạt kết quả hơn, Ðức Giáo
Hoàng Grêgôriô II đã tấn phong ngài làm Giám Mục và sau đó đặt ngài làm Tổng
Giám Mục Mayence nước Ðức năm 747.
Mặc dù tuổi già sức yếu, Ðức Cha
Bonifaciô vẫn tận tâm với việc truyền giáo. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng
ngàn người đã được chịu phép Rửa Tội. Trước thành quả lớn lao đó, nhiều thủ
lãnh ngoại giáo đem lòng ghen ghét và tìm dịp ám hại ngài.
Mùa hè năm 755, đang lúc sửa soạn cử
hành nghi lễ Rửa Tội cho một số tân tòng thì đột nhiên có những người võ trang
đổ xô tới đâm chém ngài. Xác ngài được đưa về an táng tại tu viện Fulda . Chúa đã làm nhiều
phép lạ trên mộ ngài.
05/06/12 THỨ BA TUẦN 9 TN
Th. Bôniphát, giám mục, tử đạo
Mc 12,13-17
Th. Bôniphát, giám mục, tử đạo
Mc 12,13-17
SỐNG ĐẠO GIỮA ĐỜI
Chúa Giêsu bảo họ: “Của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa.” (Mc 12,17)
Suy niệm: Vin vào câu nói của Chúa Giêsu: “Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” người ta cổ võ cho chủ trương tách biệt đạo đời. Theo trào lưu tục hoá, cuộc sống người kitô hữu bị phân mảnh làm đôi: “việc đạo” là việc “riêng tư” bị đóng khung trong khuôn viên nhà thờ; ngoài ra, cuộc sống đời thường và các sinh hoạt xã hội không được mang nội dung, dấu hiệu gì để diễn tả niềm tin; bất quá, nếu có, thì bị “khử thiêng” để chỉ còn là những hình thức văn hoá lễ hội. Nguy hại thay, chính các kitô hữu lắm khi lại “vô tư” chấp nhận cách thức phân loại này. Công đồng Vaticanô II dạy chúng ta cách hiểu đúng về Lời Chúa trên đây: chẳng những phải tôn trọng tính cách riêng của các thực tại trần thế, mà còn phải đem những giá trị Tin Mừng thấm nhập vào đó nữa: “Đối với người Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với người thân cận và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của họ bị đe dọa” (GS 43).
Mời Bạn: Là người tín hữu đang sống giữa những thực tại trần thế, chúng ta có nghĩa vụ chu toàn sứ mạng của mình trong cả hai đời sống này. Bạn có ý thức đến việc xây dựng xã hội trần thế tốt đẹp theo tinh thần Phúc Âm chưa? Làm thế nào để đem Tin Mừng vào mọi ngõ ngách của cuộc sống của bạn?
Sống Lời Chúa: Trước khi làm việc gì, dâng lên Chúa một lời nguyện tắt xin Chúa thánh hoá việc bạn sắp làm.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Xin ban cho chúng con luôn can đảm và sức mạnh để chúng con đủ sức chu toàn bổn phận hàng ngày của mình. Amen.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 9 TN2, Năm Chẵn
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Hãy làm cho Nước Thiên Chúa mau đến bằng cách sống
thật.
Nhiều người sai lầm khi nghĩ nếu một chính phủ không đáp ứng
những gì các tín hữu mong muốn, họ phải nhân danh Giáo Hội tranh đấu đến cùng
và sẵn sàng đổ máu để đạt được những nguyện vọng đó.
Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta nhận ra những điều người
tín hữu phải làm và những gì không nên làm. Trong bài đọc I, tác giả Thư Phêrô
II nhắc nhở cho các tín hữu biết thế giới này sẽ tan biến đi cùng với tất cả
các phù hoa của nó. Điều quan trọng hàng đầu các tín hữu cần phải làm là hãy lo
sống làm sao cho mình và mọi người được hưởng ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, một số
các “chính trị gia,” những người Pharisees giả hình và những người thuộc phe
Herod, nhân danh việc đi tìm sự thật để giăng bẫy bắt Chúa Giêsu. Họ hỏi: “Có
được phép nộp thuế cho Caesar hay không? Biết rõ mưu đồ của họ, Chúa cho họ câu
trả lời chẳng những họ không làm gì được Chúa mà còn mời gọi họ suy nghĩ về lối
làm chính trị “sai sự thật” của họ: “Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa,
trả về Thiên Chúa."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Anh em hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc
lôi cuốn!
Một điều Chúa Giêsu và các tông đồ luôn cảnh cáo các tín
hữu là đề phòng những kẻ rao giảng sự sai lạc làm các tín hữu nghi ngờ sự thật
các Ngài rao giảng và từ từ bỏ đạo. Chúa Giêsu gọi họ là “chó sói” đội lốt người
chăn chiên để cắn xé đoàn chiên (Jn 10:12). Thánh Gioan gọi họ là những kẻ “phản
Đức Kitô,” và nguy hiểm hơn nữa họ là chiên ở ngay giữa đoàn chiên (I Jn
2:18-19). Thánh Phaolô khuyên nhủ rất nhiều lần môn đệ Timothy và Titus phải đề
phòng những người này: “Anh hãy biết điều này: vào những ngày sau hết sẽ có những
lúc gay go. Quả thế, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo,
nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô
tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc,
nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; hình thức của đạo
thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ. Anh hãy xa lánh cả những
người ấy”
(2 Tim 3:1-5). Trình thuật của Thư Phêrô II muốn nêu bật
cho các tín hữu hiểu hai điều:
1.1/ Ngày của Thiên Chúa sẽ đến: Chúa Giêsu bảo đảm: Ngày
ấy chắc chắn sẽ đến, còn khi nào xảy ra không ai biết được trừ một mình Chúa
Cha. Tác giả nhắc các tín hữu hai khía cạnh của Ngày này: thứ nhất, vũ trụ sẽ bị
hủy diệt qua câu “các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra
trong lửa hồng; thứ hai, “Ngày bắt đầu trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị”
đúng theo lời Thiên Chúa hứa. Ngày đó, mọi người sẽ ra trước Thiên Chúa để chịu
phán xét. Chỉ lúc đó mọi người sẽ nhìn thấy sự công thẳng của Thiên Chúa.
Không ai biết được khi nào Ngày ấy đến, nhưng theo lời
Sách Thánh, các tín hữu có thể làm cho Ngày ấy mau đến bằng những phương thế
sau đây:
+ Cầu nguyện: Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy các môn
đệ cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên
trời.”
+ Rao giảng Tin Mừng: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ:
Hãy đi khắp thế gian mà rao giảng Tin Mừng. Điều này có thể hiểu: Khi Tin Mừng
được loan báo đến mọi người, Nước Chúa sẽ đến.
+ Thống hối và vâng lời Thiên Chúa: Điều này quan trọng
hơn cả. Như một người Cha mong cứu thoát tất cả con cái của mình, Thiên Chúa sẽ
chọn Ngày nào mà cứu được tất cả hay nhiều con nhất. Thánh Phêrô nói: “Chúa tỏ
lòng kiên nhẫn chính là để anh em được cứu độ.” Ngày đó chưa xảy ra vì còn quá
nhiều người phải hư mất. Thánh Phaolô cũng nói cách tương tự: Khi dân tộc
Do-thái tin vào Đức Kitô, Ngày ấy sẽ đến. Vì thế, nỗ lực của hết mọi tín hữu
hãy đặt điều này trên hết tất cả mọi điều nếu họ mong cho Nước Chúa mau trị đến.
1.2/ Đừng bị lung lay bởi các lạc thuyết: Có quá nhiều lạc
thuyết trong thế gian mà các tín hữu chỉ có thể chống trả bằng cách học biết sự
thật. Một trong những lạc thuyết đó là lối sống của những kẻ không tin có sự sống
đời sau. Vì không tin sự sống đời đời nên họ dành hết thời gian, mọi cố gắng để
xây dựng cuộc sống đời này. Chúa Giêsu và các tông đồ kêu gọi các tín hữu luôn
phải hướng lòng về trời vì đó là mới là quê hương đích thực của các tín hữu.
Chúng ta chỉ là những người ngoại quốc hay những người tạm trú của thế giới này
mà thôi. Chính Chúa Giêsu cũng trả lời cho Pilate: “Nước tôi không thuộc chốn
này” (Jn 18:36). Lối sống của các tín hữu không được giống như những người
không tin có cuộc sống đời sau. Tác giả khuyên: trong khi mong đợi ngày đó, các
tín hữu phải cố gắng sao cho Người thấy họ càng ngày càng phải trở nên tinh tuyền,
không chi đáng trách và sống bình an. Họ phải lớn lên trong ân sủng và trong sự
hiểu biết Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Độ.
2/ Phúc Âm: "Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên
Chúa."
2.1/ Bẫy giăng để hại Chúa Giêsu: Trình thuật Marcô nói
rõ nguồn gốc, mục đích, và cách thức để gài bẫy Chúa Giêsu: Các người trong Thượng
Hội Đồng là những người sai mấy người Pharisees và mấy người thuộc phe Herode đến.
Mục đích là để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy. Cách gài là khen những lời đãi bôi
để đánh lạc hướng Chúa, để Chúa nhận ra họ là những người thành thật muốn tìm
hiểu chân lý. Họ nói: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật.
Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo
sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Caesar
hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?" Lý do họ sai hai nhóm
người này là cho mục đích chính trị của họ:
(1) Phe Pharisees: chủ trương người Do-thái phải được cai
trị bởi người Do-thái (Deut 17:15). Họ chống mọi thế lực ngoại bang và việc nộp
thuế cho đế quốc Rôma. Nếu Chúa trả lời “Phải!” họ sẽ xui giục dân chúng chống
Chúa vì toa rập với thế lực nước ngoài.
(2) Phe Herode: chủ trương hòa đồng với Rôma để được “tốt
đạo đẹp đời.” Họ nại cớ biết bao điều tốt lành đến từ việc cai trị của Roma
trong thời các vua Herod cai trị. Vì thế, họ thuyết phục những người Do-thái: Cứ
để cho đế quốc cai trị bao lâu hoàng đế đừng can thiệp vào nội bộ tôn giáo của
Do-thái. Nếu Chúa trả lời “Không!” họ sẽ nộp Chúa cho quân đội Roma vì xui giục
dân phản chính quyền.
Cả hai cùng hợp lại để làm điều ác: có lý do để bắt Chúa
và tiêu diệt người lành. Họ nghĩ Chúa trả lời cách nào cũng không thoát mưu mô
của họ.
2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: Đức Giêsu biết họ giả
hình, nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc cho
tôi xem!" Họ liền đưa cho Người. Người hỏi: "Hình và danh hiệu này là
của ai đây?" Họ đáp: "Của Caesar." Đức Giêsu bảo họ: "Của
Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa." Và họ hết sức
ngạc nhiên về Người.
(1) Chúa phân biệt chính trị ra khỏi tôn giáo: Hai mục
đích của hai bên khác nhau: mục đích của tôn giáo là đưa con người tới Thiên
Chúa, mục đích của chính trị là lo cho con người được no cơm ấm áo ở đời này.
Ba bổn phận của các nhà lãnh đạo tôn giáo là dạy dỗ con người biết đạo lý Chúa
dạy để khỏi những lầm lạc, ban các bí tích để mang ơn thánh xuống cho con người,
và điều hành dân chúng trong lãnh vực tôn giáo. Bổn phận của những người lãnh đạo
quốc gia là lo cho nền an ninh quốc gia, no cơm ấm áo cho người dân, và bảo vệ
trật tự trong nước.
(2) Người dân có nhiệm vụ đóng góp để bảo vệ lợi ích
chung: Việc đóng thuế cho chính phủ là bổn phận của người dân để chính phủ có
quĩ điều hành mà lo cho các nhu cầu của dân chúng. Ngoài ra người dân còn phải
đóng góp công sức và tài năng trong việc phát triển và bảo vệ xã hội. Chúa
Giêsu đã từng khuyên Phêrô phải kiếm tiền nộp thuế cho ông và cho Ngài. Các
tông đồ vẫn khuyến khích dân vâng lời những nhà cầm quyền tốt. Nếu chính phủ
tham nhũng không biết lo cho dân, người dân có quyền đứng lên tranh đấu để xây
dựng một chính phủ biết lo cho dân hơn.
(3) Đừng quên trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài:
Chúa mời gọi những kẻ được sai đến và chúng ta suy nghĩ cẩn thận về việc trả lại
cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài:
+ Con người chúng ta được dựng nên giống hình ảnh của
Thiên Chúa, chúng ta thuộc về Ngài. Chúng ta không có quyền muốn làm gì thì
làm; nhưng phải sống theo những gì Thiên Chúa đã tiên định để rồi chúng ta sẽ
được sống hạnh phúc với Ngài muôn đời. Lấy danh nghĩa tự do để cãi lời Thiên
Chúa chỉ dẫn chúng ta đến chỗ diệt vong.
+ Mọi quyền bính trên thế gian đều đến từ Thiên Chúa,
Ngài trao cho con người để cùng thông phần vào sự điều khiển với Ngài. Ngài
trao cho Caesar quyền cai trị người Do-thái và Caesar phải trả lời với Thiên
Chúa về quyền cai trị của ông. Nhiều lúc sức con người không thể hiểu về sự
quan phòng của Thiên Chúa. Người Do-thái nhiều lần thắc mắc tại sao Thiên Chúa
lại trao quyền cai trị dân Chúa cho những người ngoại đạo? Lịch sử trả lời vì họ
đã không chịu nghe lời Thiên Chúa cảnh cáo qua các ngôn sứ. Chúa trao quyền
hành mà không biết dùng Chúa lại lấy đi. Chúa dùng Babylon
là cái roi để sửa phạt dân rồi lại bẻ gẫy cây roi bằng cách trao vua Babylon cho vua Persia . Quyền hành trong thế giới
luôn thay đổi theo sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu Chúa muốn cất đi không ai
có thể chống cự nổi; nếu Chúa muốn giữ quyền hành lại không ai thay đổi được.
Dĩ nhiên khi trao quyền hành, Ngài muốn con người phải biết xử dụng để sinh ích
lợi chung; nhưng lòng con người thay đổi và khó dò: khi chưa có quyền hành
trong tay thì hứa hẹn đủ điều; đến khi nắm quyền hành thì lại tham nhũng bất
công nhiều khi còn hơn chế độ hay người đi trước. Có lẽ vì thế mà quyền hành cứ
phải thay đổi mãi; chỉ khi nào chúng ta vào Nước Thiên Chúa và được Chúa Giêsu,
Vua công chính cai trị, chúng ta mới hưởng nhận được bình an. Bao lâu sông
trong thế giới bất toàn, nhiệm vụ của chúng ta là nghe theo, chứ không chống lại
ý định của Thiên Chúa, vì chúng ta tin tưởng Ngài đang quan phòng thế giới cách
khôn ngoan và uy quyền.
+ Quyền sở hữu tài sản nói cho cùng cũng không thuộc
Caesar hay thuộc bất cứ ai, vì Chúa dựng nên mọi sự cho con người xử dụng. Con
người chỉ là người quản lý và phải trả lời với Thiên Chúa về việc dùng tài sản.
+ Sự sống là của Thiên Chúa, thời gian và tài năng là của
Ngài ban cho. Con người không được tiêu hủy sự sống từ lúc mới sinh cho đến khi
giã từ cuộc đời. Con người không được lãng phí thời gian vào những việc vô ích,
nhưng phải biết dùng thời gian để sinh ích cho mình và cho mọi người. Nhiều người
đã lãng phí tài năng Chúa ban qua việc dùng thuốc, chơi bài bạc, và một cuộc sống
vô độ. Họ đã phải trả giá cho việc lợi dụng tự do để muốn làm gì thì làm. Nếu
suy nghĩ cho cùng, con người phải chấp nhận: mọi sự là của Thiên Chúa. Con người
chỉ có quyền dùng, và phải dùng cách khôn ngoan để sinh lợi ích cho mình, cho
tha nhân, và cho việc mở mang Nước Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải biết khiêm nhường nhìn nhận chúng ta
không khôn ngoan hơn Thiên Chúa. Hãy biết vâng lời làm theo những gì Ngài truyền
dạy.
- Điều quan trọng hơn cả là phải lo cho mình và tha nhân
được hưởng ơn cứu độ; mọi sự khác đều phụ thuộc và chỉ cần thiết ở đời này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Hãy Cho Một Nụ Cười
Một bệnh nhân nọ được
đưa vào một bệnh viện do các tu sĩ điều khiển. Người ta không để cho anh nằm điều
trị trong một căn phòng riêng rẽ mà lại đặt anh nằm chung với các bệnh nhân
khác trong một phòng lớn. Vừa mới được khiêng vào căn phòng, người đàn ông đã bị
các bệnh nhân khác tuôn đến bao xung quanh. Người thì kéo chăn, kẻ nắm áo, kẻ bứt
tóc. Không mấy chốc, anh bị quăng xuống khỏi giường giữa những tiếng cười đùa của
các bệnh nhân khác.
Không chịu đựng nổi
trò chơi quái ác của các bệnh nhân, người đàn ông mới la hét để kêu cầu vị phụ
trách. Anh trình như sau: "Tại sao ông lại đưa tôi vào đây. Tất cả các bệnh
nhân xung quanh tôi đều cười đùa, nghịch ngợm như một đám con nít. Hẳn họ không
đau yếu như tôi".
Vị phụ trách mỉm cười
đáp: "Họ còn đau yếu hơn cả anh. Nhưng tất cả đều khám phá ra một bí quyết,
một bí quyết mà ít người ngày nay biết đến hoặc có biết đến, họ cũng không
tin".
Người đàn ông muốn biết
bí quyết ấy. Vị phụ trách bệnh viện mới lấy một cái cân có hai đĩa ở hai đầu.
Ngài lấy một hòn đá đặt vào một đĩa cân, đĩa cân ở đầu bên kia liền được nhắc
lên... Ngài giải thích như sau: Tôi vừa trình bày cho ông một bí quyết của các
bệnh nhân ở đây. Chiếc cân này là biểu trưng của tình liên đới giữa con người với
nhau. Hòn đá biểu hiện cho nỗi đau khổ của ông. Khi đau khổ đè nặng trên ông, thì
ở đầu cân bên kia, niềm vui có thể đến với một người nào đó. Niềm vui và nỗi khổ
thường sánh vai với nhau. Nhưng nỗi khổ cần phải được đón nhận và dâng hiến, chứ
không phải để giữ riêng cho mình. Hãy làm cho những người khác trở thành trẻ
thơ, hãy làm cho nụ cười được chớm nở trên môi của người khác cho dẫu ta đang hấp
hối".
Cái chết của Ðức Kitô
là cái chết của một người cho tất cả mọi người. Ðó là Tình Yêu được dâng hiến
cho tất cả mọi người. Ðó là Hy Sinh cho tất cả mọi người. Ðó là Lý Tưởng của một
người sống và chết cho mọi người.
Nhìn ngắm Ðức Kitô
trên thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực về con người: con người
chỉ có thể thể hiện được trọn vẹn tính người khi sống cho người khác. Càng sống
cho tha nhân, con người càng tìm lại được chính bản thân. Càng chia sẻ với người
khác, con người càng trở nên phong phú...
Có của cải, có thì giờ,
có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng con người còn có cả một kho tàng khác để
chia sẻ cho người khác: đó là nỗi đau khổ, sự bất hạnh, những hy sinh âm thầm của
mình.
Âm thầm đón nhận một
đau khổ mà không than trách, không phàn nàn, nhưng luôn để lộ trên khuôn mặt sự
vui tươi, tinh thần lạc quan: đó là một trong những chia sẻ cao độ nhất mà
chúng ta có thể dành cho người khác.
Vác lấy khổ đau để trở
thành gánh nặng cho người khác: đó là một trong những chia sẻ cao quý nhất mà
chúng ta có thể dành cho người khác.
Dâng từng khổ đau, hy
sinh và âm thầm phục vụ từng ngày để cầu nguyện cho tha nhân: đó là một trong
những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của sự
chia sẻ ấy.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Thứ Ba tuần 9 thường niên
Sứ điệp: Là công dân một nước,
người tín hữu phải chu toàn nghĩa vụ của người công dân. Còn nghĩa vụ đối với
Thiên Chúa thuộc bình diện khác và có tính tuyệt đối.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người
ta gài bẫy để tìm cớ tố cáo Chúa tiếp tay với đế quốc phản lại dân tộc, hoặc để
tố cáo Chúa chống lại hoàng đế. Nhưng Chúa đã cho thấy lập trường của Chúa: của
Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa. Con thấy Chúa là người của
Thiên Chúa, nhưng đồng thời Chúa cũng thuộc về một quốc gia. Chúa yêu mến quê
hương, Chúa tôn trọng luật pháp. Chúa nộp thuế như mọi người. Chúa không hề chống
cự quan Phi-la-tô và vua Hê-rô-đê.
Lạy Chúa, suy gẫm những
điều ấy, con lại cúi mình thẳm sâu trước mầu nhiệm Chúa làm người. Dù là Thiên
Chúa, nhưng Chúa đã muốn giống con trong mọi sự. Con muốn học hỏi nơi Chúa lòng
yêu mến quê hương và tôn trọng quyền bính hợp pháp. Xin Chúa giúp con ý thức
nghĩa vụ đối với Thiên Chúa và đồng thời vẫn không quên nghĩa vụ của người công
dân. Những nghĩa vụ chính đáng, những điều không trái với Tin Mừng, không trái
với lương tâm Kitô hữu, xin dạy con nhận ra đó là ý Thiên Chúa và hăng say thi
hành.
Lạy Chúa, xin giúp con sống
đời chứng tá cho Tin Mừng giữa lòng dân tộc. Quê hương con còn nhiều điều xấu,
nhiều người xấu, nhiều hoàn cảnh xấu. Xin Chúa giúp con là Kitô hữu biết tích cực
dấn thân góp phần mình để quê hương con ngày càng tốt đẹp hơn.
Nhưng trước hết, xin
Chúa giúp con luôn chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa. Xin đừng để con quá mải
mê với bổn phận ở đời mà quên mất Thiên Chúa, nhất là đừng bao giờ để con vì lợi
lộc, địa vị ở đời mà bôi nhọ hoặc chối bỏ danh Kitô hữu. Xin giúp con yêu mến
Thiên Chúa trong mọi sự và trên mọi sự. Amen.
Ghi nhớ :"Các ông hãy trả
cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên
Chúa".
Gương Thánh Nhân
Một lời cầu nguyên đầu thế kỷ XX có hình mô tả Thánh Boniface rời nước Anh. |
Ngày 05-06:
Thánh BÔNIFACIÔ
Giám Mục Tử Đạo (673 - 754)
Thánh Bônifaciô có tên sơ khởi
là Winfrid. Ngài là người Saxon miền nam, sinh ở Creditôn gần Exêter, năm 673,
thời đó, phong trào truyền giáo rất mạnh mẽ ở nước Anh. Gia đình Ngài thường là
nơi dừng chân của rất nhiều nhà truyền giáo. Winfrid rất thích gần gũi ở những
con người thánh thiện này và không bỏ mất một lời nào các Ngài kể lại và năng hỏi
thăm về những chân lý các Ngài rao giảng. Một ngày kia Winfrid hỏi các Ngài phải
làm gì để được cứu rỗi ? Các vị thừa sai trả lời: - Phải nỗ lực để nên tốt lành
với mọi người và đừng nghĩ đến mình.
Nghe những lời này, Winfrid muốn
lên đường ngay để rao giảng Tin Mừng cho lương dân. Ngài đã xin cha đi tu nhưng
cha Ngài đã từ chối. Ngài ngã bệnh khiến cha Ngài hốt hoảng và đã chấp nhận.
Winfrid nhập dòng ở Exeter và vì
thiện chí học hỏi của Ngài, người ta gởi Ngài tới Nursling để học kinh thánh,
thơ văn và văn phạm, năm 717, Winfrid đã trở thành một giáo sĩ nổi bật của miền
nam Saxon và được đề nghị làm tu viện trưỏng tu viện Nursling. Nhưng Ngài đã
quyết định gia nhập nhóm truyền giáo. Angle-saxon lên đường tới Frisia. Vẫn
quan tâm đến các công việc của nước Anh cho đến hết đời, Ngài giữ liên lạc thư
từ rất thường xuyên nhưng không hề viếng nước Anh lần nào nữa.
Miền đất Winfrid muốn đến rao giảng
Tin Mừng là một vùng thuộc nước Đức và nằm giữa hai giòng sông Rhin và Danube . Cả người Rôma lẫn người Pháp đã không thuần hoá
được dân chúng hung dữ của miền này. Nhưng một cuộc chiến bùng nổ giữa bá ước
Ratborol và Charles Martel, khiến Ngài không cập bến được. Ngài hướng về Roma với
một nhóm hành hương và xin sự chẩn nhận của Đức giáo hoàng. Đức Thánh cha
Grêgoriô II đã chúc lành cho tu sĩ này và ban cho mọi người quyền hạn để mang
Nước Chúa đến cho dân Đức còn đang thờ ngẫu tượng.
Rời Rôma, Người rảo qua các miền
Lombardie, Baviere và Thuringia học hiểu ngôn
ngữ và giữ các phong tục địa phương của đám dân. Ngài muốn truyền bá Tin Mừng.
Ngài đã đến Frisia, đến giữa nước Đức, và lập được nên một nhà nguyện, một tu
viện ở Hambourg. Thành quả này làm phấn khởi cũng như thúc đẩy tình yêu nơi vị
tông đồ. Những cuộc trở lại đạo này ngày một nhiều.
Năm 722 Đức giáo hoàng gọi
Winfrid về Roma và tấn phong Ngài làm giám mục. Đức Giáo hoàng nói : - Từ nay
con sẽ mang tên là Bônifaciô, nghĩa là "người thi ân". Đây là lần đầu
tiên một tòa giám mục ở xa đã theo thực hành địa phương của Italia và đã tỏ bày
sự tuân phục đối với Đức Giáo hoàng .
Bônifaciô lại lên đường truyền
giáo với tư cách giám mục. Ngài sẽ không ở Frisia dưới quyền Willibord, nhưng
muốn mở ra một lãnh địa mới ở Tây Đức. Ngài đã bắt đầu ở Hesse miền Thuringia là nơi Ngài đã đến đốn một cây sồi cổ thụ. Dân
chúng đặt tên cho cây sồi này là "sức mạnh thần Jupiter". Thánh nhân
đã triệt hạ cây cổ thụ cách dễ dàng lạ lùng rồi dùng cây dựng nhà thờ kính
thánh Phêrô. Dân chúng thờ ngẫu thần đã giận dữ vì sợ bị thần minh oán phạt. Họ
tuốn đến đe dọa thánh nhân. Nhưng khi nghe Ngài nói rất hay và đầy tình đầy
nghĩa, nhiều người đã trở lại đạo.
Charles Martel lúc ấy sẵn sàng
đem binh lực phục vụ Kitô giáo. Tuy nhiên Đức Giám mục Bônifacio đã không muốn
cậy dựa vào sức mạnh mà chỉ dùng tình thương để cải hóa các tâm hồn. Ngài đã
thiết lập nhiều tu viện và kêu gọi sự trợ giúp từ nước Anh gởi tới. Đã có nhiều
linh mục, nghệ sĩ, văn sĩ, tới góp công và nhiều người khác đóng góp của cải
cho việc truyền giáo. Cứ như thế mà thánh Bônifacio đã có thể trao phó cộng
đoàn nhỏ bé và mới mẻ cho các tu sĩ coi sóc rồi lại lên đường tiếp tục mở mang
nước Chúa.
Đức giáo hoàng Gregoriô III
phong đức Bônifacio lên chức Tổng giám mục và trao cho trách nhiệm thiết lập
các toà giám mục ở nước Đức. Sau cuộc viếng thăm Rôma lần thứ ba, Ngài nhận sứ
mệnh tổ chức Giáo hội ở hữu ngạn sông Rhin. Suốt 7 năm đi rao giảng Tin Mừng ở
Hesse, Ngài đi vào khu rừng phân cách Hesse và Thuringia .
May mắn, nhà truyền giáo được hứơng dẫn tiến về thung lũng Fuloda. Cùng với các
tu sĩ, Ngài phá rừng đào đất và xây dựng tu viện Fulda . Tu viện này sẽ trở nên thành trì của đời
sống tôn giáo trí thức của dân man rợ thời Trung Cổ.
Đức Tổng giám mục Bônifacio chọn
Mayence làm toà tổng giám mục. Carlôan con của Charles martel chọn đời sống tu
trì và nhường quyền kế vị cho Pépin. Ông này muốn được một đức giám mục lớn
phong vương. Trong một lễ nghi long trọng ở Soissons , vị tông đồ đã đặt vương miện lên đầu
Pépin le Brej. Sau đó không kể gì đến tuổi già, Ngài lại lên đường truyền giáo.
Ngài xuống thuyền với 50 người
tùy tùng gồm có các linh mục, tu sĩ và các sinh viên. Đoàn thuyền tới giữa các
cánh đồng lầy lội. Cư dân của vùng này còn sống rất hoang dại. Các nhà truyền
giáo rao giảng Tin Mừng cho họ. Đức cha Bônifacio hẹn các tân tòng ở Dokum, gần
bờ bể, ngày 5 tháng 6 năm 756, hôm ấy là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lúc vừa
cử hành thánh lễ thì một đoàn người mang khí giới xông tới, Bônifacio quay về với
các bạn và nói: - Can đảm lên, khí giới này không làmgì được linh hồn.
Các lương dân xông vào sát hại
các nhà truyền giáo. Một nhát búa bổ xuống Đức Tổng giám mục và cuốn Phúc âm
Ngài đang cầm trong tay.
Xác thánh nhân được đưa về chôn
cất ở nhà thờ chánh tòa Fulda .
Thư viện còn lưu giữ được cuốn sách bị chặt đứt của thánh nhân.
(Daminhvn.net)
+++++++++++++++++
Ngày 05
Thánh Bôniphát, giám mục, tử đạo
Thánh Bôniphát, giám mục, tử đạo
Giáo hội như con tàu lớn giữa biển khơi trên trần gian, trong đời
sống này, phải phấn đấu với các cơn sóng thử thách mọi loại. Giáo hội không bị
bỏ rơi, nhưng được hướng dẫn.
Chúng ta có được những mẫu gương nơi các
giáo phụ tiên khởi: Clément, Comeille và nhiều vị khác ở Rôma, Cypre ở
Carthagô, Athanase ở Alexandrie, những vị, dưới trào các hoàng đế ngoại giáo,
đã lái tàu của Đức Kitô hay là vị hôn thê yêu dấu là Giáo hội, bằng cách giảng
dạy, bảo vệ chân lý, trong khi phải chịu đựng gian nan, đau khổ cho đến đổ máu.
Đừng trở thành những con chó câm, đừng trở
thành những người canh gác yên lặng, đừng trở thành những tên lính đánh thuê,
chạy trốn trước sói rừng, nhưng hãy là những mục tử chăm chỉ, canh gác đàn
chiên của Đức Kitô, rao giảng cho người trí thức lẫn người trẻ trung, cho người
giàu cũng như kẻ nghèo, ý định của Thiên Chúa cho con người trong mọi điều kiện
và tuổi tác, như Chúa đã ban cho chúng ta quyền hành cho thời thuận tiện cũng
như lúc khó khăn
Thánh Bôniíatiô
Thứ Ba 5-6
Thánh Boniface
(672-754)
Thánh
Boniface, vị tông đồ của người Ðức, là một đan sĩ người Anh thuộc Dòng Biển Ðức,
đã hy sinh vinh dự khi được chọn làm đan viện trưởng để tận hiến cuộc đời
trong việc hoán cải các sắc tộc ở Ðức. Ngài có hai đặc tính nổi bật: Kitô
Giáo chính truyền và trung thành với đức giáo hoàng ở Rôma.
Thánh
Boniface, tên thật là Wilfrith, sinh ở Anh Quốc. Ngay khi còn nhỏ, hình ảnh
cao quý của các đan sĩ truyền giáo đã in sâu trong tâm khảm của ngài, do đó,
khi bảy tuổi ngài đã nài nỉ xin theo học trường dòng, dù rằng cha ngài mong
muốn cho con một sự nghiệp ở ngoài đời.
Lớn
lên, ngài làm giám đốc một trường học ở Nursling,
Năm ba
mươi tuổi, ngài được thụ phong linh mục và đi rao giảng ở Friesland (thuộc
Hòa Lan bây giờ), nhưng không bao lâu ngài phải trở về Nursling vì cuộc chiến
giữa vua ngoại giáo của Friesland và Charles Martel của Pháp.
Sau cái
chết của đan viện trưởng, các đan sĩ ở Nursling tìm cách giữ chân ngài bằng
cách bầu ngài làm đan viện trưởng, nhưng ngài đã từ chối để tận hiến cho công
cuộc truyền giáo.
Năm
718, ngài đến Rôma để gặp Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô II, là người sai ngài đi
truyền giáo cho người Ðức ở Hesse và
Ở
Thánh
Boniface không chỉ hạn chế hoạt động ở nước Ðức. Ngài còn giúp hình thành sự
tương giao giữa Ðức Giáo Hoàng và các vua ở Ý cũng như ở Pháp. Ngài thúc giục
các thái tử kế vị vua Charles của Pháp triệu tập công đồng để cải tổ giáo hội
trong các phần đất của họ, là nơi chức giám mục được bán cho những người trả
giá cao nhất.
Ngài
không bao giờ quên sự thất bại ở
Lời
Bàn
Thánh
Boniface xác nhận một quy tắc của Kitô Giáo: Theo Ðức Kitô là theo con đường
thập giá. Ðối với Thánh Boniface, con đường đó không chỉ là sự đau khổ phần
xác hay cái chết, mà cả sự đau khổ vì bị sỉ nhục, vô ơn trong việc cải tổ
Giáo Hội. Vinh dự của truyền giáo là đem người ngoại giáo trở về với Giáo Hội.
Nhưng dường như, việc chấn chỉnh đức tin ngay trong lòng Giáo Hội, là một việc
rất cần thiết, thì ít người lại cho đó là một vinh dự.
Lời
Trích
Chúng
ta phải bền vững trong những gì là chân lý và chuẩn bị linh hồn cho những thử
thách... Ðừng là những con chó không dám sủa hay im lặng nhìn xem, và cũng đừng
là người tôi tớ trốn chạy trước đàn sói.
(Thánh Boniface).
|
Copyright © 2010 by
Nguoi Tin Huu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét