Trang

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

27-09-2013 : THỨ SÁU TUẦN XXV MÙA THƯỜNG NIÊN -Thánh Vinh sơn Phaolô, linh mục. Lễ nhớ.

THỨ SÁU 27/09/2013
Thứ Sáu sau Chúa Nhật 25 Quanh Năm
Thánh Vinh sơn Phaolô, linh mục. Lễ nhớ.

* Thánh nhân sinh năm 1581 tại Gát-côn, nước Pháp. Người làm linh mục rồi đi Pa-ri phục vụ một giáo xứ. Người sáng lập Tu Hội Thừa Sai để giúp đào tạo các giáo sĩ và nâng đỡ những người nghèo. Được thánh nữ Lu-y Ma-ri-lắc cộng tác, người đã lập Tu Hội Nữ Tử Bác Ái. Người là gương mẫu hoàn hảo về việc sống đức bác ái như Chúa Kitô dạy, luôn sẵn sàng cứu giúp những người cùng khốn. Người nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô nơi bất cứ ai đang gặp đau khổ. Người qua đời tại Pa-ri năm 1660.

Bài Ðọc I: (Năm I) Kg 2, 1b-10
"Còn một ít lâu nữa, Ta sẽ làm cho đền thờ này đầy vinh quang".

Trích sách Tiên tri Khác-gai.
Năm thứ hai triều đại vua Ðariô, đến ngày hai mươi mốt tháng bảy, có lời Chúa dùng tiên tri Khác-gai mà phán rằng: "Ngươi hãy nói với Giorôbabel, con trai tướng lãnh Giuđa, là Saluthiel, nói với Giosua, con trai thượng tế Giosêđec, và với những kẻ sống sót lại trong dân rằng: "Ai trong các ngươi là kẻ sống sót lại đã nhìn thấy vinh quang thuở xưa của đền thờ này: và giờ đây các ngươi xem thấy nó thế nào? Chớ thì nó chẳng là không trước mắt các ngươi sao? Và Chúa lại phán: Hỡi Giorôbabel, giờ đây hãy can đảm. Hỡi Giosua, con trai thượng tế Giosêđêc, hãy can đảm; và toàn dân trên lãnh thổ, hãy can đảm, đây Chúa các đạo binh phán: Các ngươi hãy khởi công, vì Ta ở cùng các ngươi, Chúa các đạo binh phán như vậy. Có lời Ta đã giao ước với các ngươi, khi các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, là thần linh Ta sẽ ở giữa các ngươi, nên các ngươi đừng sợ".
Vì Chúa các đạo binh phán như thế này: "Còn ít lâu nữa, Ta sẽ khiến trời đất, biển khơi và đất cạn chuyển động. Ta cũng sẽ khiến mọi dân tộc chuyển động; và Ðấng mọi dân tộc trông đợi sẽ đến: Ta sẽ làm cho đền thờ đầy vinh quang, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vàng bạc đều là của Ta, Chúa các đạo binh phán như vậy. Vinh quang đền thờ sau hết này sẽ cao trọng hơn vinh quang đền thờ trước, Chúa các đạo binh phán như vậy: trong nơi này, Ta sẽ ban hoà bình, Chúa các đạo binh phán như vậy".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 42, 1. 2. 3. 4
Ðáp: Hãy cậy trông Ðức Chúa Trời, vì con còn ca tụng Chúa, Ðấng cứu thể diện và là Thiên Chúa của con (c. 5bc).
Xướng: 1) Xin Chúa minh xét cho con, ôi Thiên Chúa, xin bênh vực quyền lợi con đối nghịch với dân vô đạo, xin cứu con khỏi tay người độc ác, điêu gian! - Ðáp.
2) Vì lạy Chúa, Chúa là sức mạnh con, cớ chi Chúa bỏ con? Cớ chi con phải sống ngậm ngùi vì bị quân thù áp bức? - Ðáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thật của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. - Ðáp.

Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 9, 18-22
"Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì Người hỏi các ông rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các ông thưa rằng: "Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại". Người lại hỏi các ông rằng: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa". Và Người ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại".
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm : Thầy Là Ðức Kitô
Trong số các trò chơi để trắc nghiệm mức hiểu biết của các em, có trò chơi đưa hình một danh nhân cho các em xem, sau đó yêu cầu các em nói thật vắn tắt và chính xác về nhân vật ấy. Em nào trả lời đúng sẽ được thưởng. Chúa Giêsu đã có lần áp dụng phương thức này với các môn đệ, chỉ khác ở chỗ nhân vật được đưa ra không ai xa lạ hơn là chính Ngài. Ðã có những câu trả lời được đưa ra, nhưng chỉ có câu trả lời của Phêrô là đúng, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu vốn là một vấn đề khó hiểu đối với nhiều người. Những giả thuyết về Ngài đều từ từ bị chứng minh là sai. Có người bảo Ngài là Gioan Tẩy giả, nhưng trong cách sống và giáo lý của Ngài, có nhiều điểm khác với Gioan Tẩy giả; có kẻ bảo Ngài là Êlia hay một ngôn sứ nào đó, nhưng ở đây cũng vậy, giáo lý và thái độ của Chúa Giêsu có nhiều điểm vượt quá và cắt đứt với giáo lý và thái độ của bất cứ ngôn sứ nào trong Cựu Ước. Dù đồng hóa Chúa Giêsu với Gioan Tẩy giả, với Êlia hay với một ngôn sứ nào đó, tất cả đều giống nhau ở chỗ chưa có câu trả lời nào nhận ra Chúa Giêsu là nhân vật chính, còn các vị kia chỉ là người loan báo và chuẩn bị.
Chúa Giêsu đã bị dư luận quần chúng coi là một trong các vị tiền hô cuối cùng, cho đến khi Phêrô đưa ra câu trả lời chính xác: "Thầy là Ðức Kitô Con Thiên Chúa". Phêrô đã nhìn thấy nơi Chúa Giêsu chính nhân vật mà muôn dân mong đợi. Ngài là Ðức Kitô, có nghĩa là Ðấng hội tụ mọi hy vọng và chờ mong của con người, là Ðấng quyết định vận mệnh của dân tộc và cá nhân, là Ðấng nắm giữ và đưa lịch sử đến hồi kết thúc. Ðức Kitô có đủ mọi tư cách đó, bởi vì Ngài là Ðấng được Thiên Chúa sai đến, Ngài là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu linh cảm thấy lời tuyên xưng của Phêrô có thể bị giải thích sai lạc, nếu được tung ra cho mọi người biết; chính vì thế chẳng những Ngài cấm ngặt các ông không được nói điều ấy với ai, mà kể từ đó Ngài còn đích thân nói rõ về tư cách Kitô của Ngài.
Xin Chúa cho chúng ta biết lặp đi lặp lại mỗi ngày lời tuyên xưng của thánh Phêrô: "Thầy là Ðức Kitô Con Thiên Chúa" để chúng ta vững bước trên con đường theo Chúa và làm chứng cho Chúa.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 25 TN1
Bài đọc: Hag 2:1-9; Lk 9:18-22

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Xây dựng kết quả lâu dài hơn là những chấp vá tạm thời.

Khi phải đương đầu với những thách đố của cuộc sống, nhiều người thích những giải quyết dễ dãi, nhanh chóng, và tạm thời; nhưng những giải quyết như thế không đem lại cho con người những kết quả tốt đẹp và lâu bền. Rốt cuộc, họ lại phải bắt đầu lại từ đầu. Ví dụ, việc học sinh ngữ: thay vì phải bắt đầu với việc học văn phạm và nhớ từ ngữ, nhiều người lại bắt đầu ngay với việc nhớ các câu thông dụng. Vì thế, khi phải nói những "câu có sẵn," họ trả lời được; nhưng khi phải làm câu mới, họ không biết phải xếp đặt làm sao! Để đạt được kết quả lâu bền, con người cần tìm ra căn nguyên thật sự của vấn đề, và kiên nhẫn tìm cách thức thích hợp để giải quyết, cho dù phải tốn nhiều thời gian và phải chấp nhận gian khổ.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra hai ví dụ để giúp con người biết giải quyết tận gốc vấn đề. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Haggai khuyên tất cả những người có trách nhiệm và dân chúng chú trọng đặc biệt đến việc xây dựng Đền Thờ, hơn là cố gắng ổn định đời sống; vì Đền Thờ là nơi Thiên Chúa ở với con người để dạy dỗ và ban ơn. Việc xây dựng Đền Thờ sau Thời Lưu Đày chắc chắn sẽ gặp khó khăn, nhưng họ phải cố gắng khắc phục hoàn cảnh, vì Đền Thờ sẽ mang lại nhiều lợi ích đến cho con cái Israel. Trong Phúc Âm, sau khi Phêrô tuyên xưng căn tính của Chúa Giêsu, Ngài báo trước Cuộc Thương Khó lần thứ nhất để các tông-đồ chuẩn bị đương đầu với đau khổ khi nó xảy đến; đồng thời, Ngài cũng báo trước Ngài sẽ sống lại vinh quang sau ba ngày trong huyệt mộ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Diễn từ thứ hai của tiên-tri Haggai

1.1/ Tiên-tri Haggai đốc thúc dân xây cất Đền Thờ Thiên Chúa.

(1) Lý do Đền Thờ bị phá hủy: Đền Thờ Jerusalem do vua Solomon xây dựng bị phá hủy là vì con cái Israel đã bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần ngoại và đối xử bất công với đồng loại của mình. Sau hơn 50 năm lưu đày, giờ đây họ được hồi hương trở về để tái thiết xứ sở. Phản ứng đầu tiên của dân chúng là chỉ biết nghĩ đến cá nhân và gia đình của họ; để tìm cách ổn định đời sống cách nhanh chóng hết sức có thể. Tiên-tri Haggai không suy nghĩ như dân chúng. Ông biết căn nguyên của vấn đề là phải sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân. Việc xây dựng Đền Thờ cần thiết để qui tụ và dạy dỗ dân chúng; nếu không, họ sẽ mạnh ai nấy sống, và việc phải lưu đày lần nữa chắc chắn sẽ xảy ra.

(2) Phải biết nhìn lại quá khứ và suy xét: Tiên-tri Haggai mời gọi dân chúng nhìn lại Đền Thờ quá khứ: "Ai trong các ngươi trong số người còn sót lại đã từng được chứng kiến cảnh rực rỡ vinh quang của Đền Thờ ban sơ? Và bây giờ các ngươi thấy Đền Thờ như thế nào? Trước mắt các ngươi, nó chẳng còn là gì nữa đó sao?" Dĩ nhiên, Haggai không chỉ giới hạn việc xây dựng Đền Thờ bên ngoài; nhưng còn chú trọng đến việc xây dựng đền thờ trong tâm hồn, là biết sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa, và với anh chị em đồng loại.

1.2/ Vinh quang có được sau này là hậu quả của cố gắng khắc phục khó khăn bây giờ.

(1) Phải can đảm khắc phục hoàn cảnh khó khăn: Con cái Israel phải đương đầu với rất nhiều khó khăn khi hồi hương: công ăn, việc làm, nhà ở, chính quyền địa phương, kẻ thù chung quanh... Haggai biết tất cả những điều đó; nhưng ông nhìn thấy những lợi ích của Đền Thờ: sự hiện diện của Thiên Chúa, lòng đạo đức của dân chúng, và sự an toàn quốc gia. Vì thế, ông khuyên tất cả phải khắc phục khó khăn, để dốc toàn lực vào việc xây dựng Đền Thờ trước hết, các sự khác không quan trọng bằng Đền Thờ, và Thiên Chúa sẽ chúc lành cho họ sau. Ông nói: "Vậy bây giờ, hỡi Zerubbabel, hãy mạnh bạo lên! Này thượng tế Joshua, con ông Jehozadak, mạnh bạo lên nào! Toàn dân trong xứ hãy mạnh bạo lên! Sấm ngôn của Đức Chúa. Hãy bắt tay vào việc, vì chính Ta ở với các ngươi. Sấm ngôn của Đức Chúa các đạo binh."

(2) Vinh quang sẽ xảy đến trong tương lai: "Quả thật, Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Chỉ còn một thời gian ngắn nữa thôi, Ta sẽ làm rung chuyển trời đất, biển khơi và đất liền. Ta sẽ làm cho tất cả các dân tộc phải chấn động và các kho tàng của các dân tộc sẽ đổ về, rồi Ta sẽ làm cho Đền Thờ này rực rỡ vinh quang. Đức Chúa các đạo binh phán. Bạc là của Ta, vàng là của Ta."

Lời sấm này không chú trọng đến của cải vật chất cho bằng tài sản tinh thần. Hai điều quan trọng và có liên quan Haggai muốn chú trọng ở đây là (1) Đấng Thiên Sai sẽ đến; và (2) Niềm tin vào Thiên Chúa của các dân tộc trên địa cầu. Niềm tin vào Thiên Chúa không chỉ còn giới hạn trong vòng con cái Israel; nhưng sẽ được mở rộng đến tất cả các quốc gia trên địa cầu, và Đền Thờ Jerusalem sẽ là trung tâm cho các dân tộc hướng về (Isaiah).

2/ Phúc Âm: Con Người phải chịu đau khổ nhiều... và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy.

2.1/ Cần nhận ra căn tính của Đấng Thiên Sai: Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: "Dân chúng nói Thầy là ai?"

(1) Dân chúng không nhận ra căn tính của Chúa Giêsu: Có người cho Chúa Giêsu là
- Gioan Tẩy Giả, như tiểu vương Herode: vì Chúa dám nói thật và thẳng tay sửa sai.
- Có kẻ khác bảo là ông Elijah: vì lời Chúa có uy lực và Ngài làm nhiều phép lạ.
- Kẻ khác nữa lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại.

(2) Ông Phêrô tuyên xưng căn tính của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho các môn đệ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa."

Mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa, hay mối liên hệ giữa người môn đệ với Đức Kitô là một mối liên hệ cá nhân. Người khác có thể nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa. Họ có thể chỉ đường và tạo cơ hội cho chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa; nhưng để sống mối liên hệ với Ngài, chúng ta cần bỏ thời gian để học hỏi, cầu nguyện, và sống mối liên hệ với Ngài.

2.2/ Cần nhận ra con đường cứu độ của Đấng Thiên Sai: Truyền thống Do-thái đang mong một Đấng Thiên Sai sẽ dùng uy quyền và sức mạnh để dẹp tan quân thù, lên ngôi cai trị, và phục hồi danh dự và uy quyền cho con cái Israel. Điều này không phải là ý muốn của Thiên Chúa. Ngài muốn Đấng Thiên Sai phải chấp nhận gian khổ và cái chết để cứu chuộc con người khỏi tội, và cho con người được sống muôn đời.

(1) Con người sẽ phải chịu đau khổ và bị giết chết: Chúa Giêsu báo trước Cuộc Thương Khó lần thứ nhất: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy."

(2) Con Người sẽ sống lại hiển vinh ngày thứ ba: Đau khổ của Chúa Giêsu chỉ tạm thời; nhưng Ngài sẽ phục sinh vinh hiển vào ngày thứ ba.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta cần đương đầu với sự thật của mọi vấn đề, với căn nguyên của chiến tranh và đau khổ; trước khi có thể giải quyết vấn đề, và xây dựng một cuộc đời tốt đẹp hơn.

- Để đạt được thắng lợi vinh quang, chúng ta cần có can đảm để chấp nhận đau khổ tạm thời. Nếu không chấp nhận đau khổ, làm sao có vinh quang?


Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 25–

"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)

Lc 9,18-22

A. Hạt giống...
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục nói đến những dư luận về Chúa Giêsu :
- Trong dân chúng thì có 3 dư luận : a/ Ngài là Gioan Tẩy giả sống lại ; b/ Ngài là Êlia xuất hiện ; c/ Ngài là một ngôn sứ thời xưa sống lại. Cách chung, dân chúng đánh giá Ngài khá cao : Ngài không phải là một người thường như mọi người, nhưng là người đặc biệt thuộc hàng tiên tri : giảng hay và có khả năng làm phép lạ.
- Chỉ một mình Phêrô, do ơn soi sáng đặc biệt, nên biết Chúa Giêsu chính là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”.
- Tuy nhiên Phêrô vẫn nghĩ về Đấng Kitô theo cách nghĩ thông thường của đa số người thời đó, tức là một Đấng cứu thế oai phong hiển hách. Bởi đó Chúa Giêsu phải sửa lại cách nghĩ ấy : Ngài là Đấng Kitô chịu nạn chịu chết rồi mới sống lại.

B.... nẩy mầm.
1. Tôi hãnh diện vì được làm môn đệ Chúa Giêsu. Nhưng tôi hãnh diện về phương diện nào ? Vì Chúa Giêsu là Chúa, cao cả hơn Đức Phật và các vị sáng lập những tôn giáo khác ? Vì Giáo Hội của Chúa có đông tín đồ, có tổ chức quy mô ? vv… Có khi nào tôi hãnh diện vì Chúa của tôi là một vị Thiên Chúa chết trên Thập giá không ? Tôi có nghĩ như thánh Phaolô rằng “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô” không ?
2. “Simon Phêrô thưa rằng ‘Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa’. Và Ngài ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai” : Ngày nay chắc Chúa không còn ngăn cấm chúng ta rao giảng về Ngài như là một Đức Chúa quyền phép vinh quang. Nhưng Ngài sẽ chưa hài lòng nếu chúng ta chưa rao giảng về Ngài như một Đức Chúa chết trên Thập giá vì tội loài người và vì yêu thương loài người.
3. Vị khách đến uỷ lạo một thương binh trong bệnh viện
            - Anh thuộc giáo hội nào ?
            - Tôi thuộc giáo hội của Chúa Kitô.
            - Cái gì thuyết phục anh vào giáo hội đó ?
            - Thuyết phục ư ? Rồi nhìn lên tượng chịu nạn, anh tiếp : phải, tôi bị Ngài thuyết phục đến độ ngay cả sự sống sự chết, thần quyền thế quyền... không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng mến Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.” (Góp nhặt)
4. “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế và các luật sĩ từ bỏ” : đau khổ là điều Chúa Giêsu phải chịu ; bị từ bỏ, và từ bỏ không những bởi dân thường mà bởi những kẻ chính thức mắm quyền lãnh đạo tôn giáo, đó cũng là điều Chúa Giêsu phải chịu.
Khi tôi gặp đau khổ ; khi tôi bị từ bỏ, nhất là từ bỏ bởi những người mà tôi đặt rất nhiều hy vọng vào họ, tôi có nghĩ đó là thập giá mà tôi phải vác không ? Tôi có ý thức rằng mình đang được chia sẻ thân phận của Chúa tôi không ?
5. “Chúa Giêsu hỏi : Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” (Lc 9,20)
Hình như có ai đang hỏi, đang mời tôi suy nghĩ.
Giờ này, đối với tôi, Chúa Giêsu là ai ? Giờ này, đối với tôi, Ngài có còn là Ngài không ?
Hay chỉ là một chiếc bóng bên đường, một lần cất bước đi qua để lại thoáng nhớ mong manh, rồi chìm dần vào quên lãng.
Giờ này, đối với tôi, Chúa Giêsu là ai ? Giờ này, đối với tôi, Ngài có còn là Ngài không ?
Hay một lần Ngài đến giữa đêm khuya, rồi thầm cất bước ra đi, để lại thoáng chút dư âm, tàn dần với thời gian…
Ngài là ai ? Là ai lúc tôi vui, lúc tôi buồn, lúc tôi ghen, lúc tôi hờn, lúc tôi yêu… ?
Ngài là ai ? là ai khi tôi thành công, lúc tôi thất vọng, khi lầm than, lúc thanh nhàn, và trong suốt cuộc đời… ?
Giêsu ơi, khi quì đây và trong suốt cuộc đời, xin được gọi Ngài là Cứu Chúa của con. (Hosanna)

Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp.Cần Thơ

27/09/13 THỨ SÁU TUẦN 25 TN
Th. Vinhsơn Phaolô, linh mục
Lc 9,18-22

THẦY LÀ ĐẤNG KI-TÔ
Phêrô thưa :”Thấy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa.” (Lc 9,20)
Suy niệm: Tin Mừng mời gọi chúng ta nhìn lại cách nghĩ của chúng ta về dung mạo đích thực của Chúa Giêsu. Khi thánh Phêrô đại diện các môn đệ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, thánh nhân cũng chỉ hiểu chữ Kitô ấy theo quan niệm thông thường của người Do thái bấy giờ: là Đấng cứu tinh dân tộc Israel thoát ách nô lệ và xây dựng đất nước phồn vinh. Các môn đệ chỉ nhận ra dung mạo đích thực của Chúa Giêsu sau khi Ngài sống lại. Và lúc ấy các ông cũng hiểu rằng tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô có nghĩa là đi theo con đường thập giá.
Mời Bạn: Câu hỏi ngày xưa Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Các con bảo Thầy là ai?” giờ đây cũng được đặt ra cho từng Kitô hữu. Chắc chắn chúng ta cũng tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô nhưng chúng ta tuyên xưng một Đấng Kitô nào lại hệ tại cách sống của chúng ta. Chúng ta phải sống thế nào để bày tỏ được cho những người chung quanh dung mạo đích thực của Đức Kitô chịu chịu đóng đinh chịu chết và sống lại để ai tin vào Ngài thì được cứu độ (x. Cv 4,10-12).
Sống Lời Chúa: Muốn bày tỏ Chúa cho người khác, cuộc sống của bạn phải là một cuộc sống khiêm hạ, hy sinh, từ bỏ. Là người cha, bạn phải biết hy sinh những thú vui riêng để lo cho vợ con. Là người mẹ, bạn phải biết dành nhiều thời giờ hơn để chăm sóc chồng và con cái. Là con cái, bạn phải biết yêu thương vâng lời cha mẹ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa xin giúp con sống xứng đáng ơn gọi Kitô hữu là sống hy sinh vì người khác. Ước gì thập giá Chúa Kitô luôn là lẽ khôn ngoan và sức mạnh của chúng con.


Ông này là ai?
Nhiều người đã đặt câu hỏi: “Ông Giêsu này là ai?” Hôm nay nhân loại vẫn đặt câu hỏi quan trọng đó. Để trả lời, phải bước vào một cuộc hành trình, bỏ lại những thành kiến.


Suy nim:
Đức Giêsu với các môn đệ của Ngài đã nổi tiếng ở vùng Galilê,
qua các hoạt động rao giảng và chữa bệnh.
Tiếng đồn về Ngài ngày càng lan rộng (Lc 5, 15).
Điều đó hẳn đã đến tai của Hêrôđê (c. 7),
vị tiểu vương cai quản vùng Galilê trong hơn bốn mươi năm (Lc 3, 1).
Hêrôđê bối rối và lúng túng trước những tin mình nhận được.
Ông đã cho chém đầu Gioan Tẩy giả, kẻ được coi là ngôn sứ (c. 9).
Bây giờ lại nổi lên một người khác tên là Giêsu.
Người ta đồn đãi nhiều về nhân vật Giêsu này.
Có một số người nói ông này là Gioan bị chém đầu nay sống lại.
Có những người khác nói đó là ông Êlia tái giáng
sau khi đã được đưa về trời trong cơn gió lốc (2V 2, 11).
Cũng có những kẻ nói Giêsu là một ngôn sứ nào đó thời xưa sống lại.
Quả thật nhìn việc làm, lời giảng và lối sống của Giêsu,
người ta dễ thấy Ngài là một ngôn sứ (x. Lc 7, 16-17).
Mà chính Đức Giêsu cũng nhận mình là ngôn sứ (Lc 4, 24; 13, 33).
“Ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?”
Hêrôđê tò mò muốn biết Ngài là ai.
Ông không tin Đức Giêsu là Gioan bị chém đầu, nay sống lại.
Và ông tìm cách gặp mặt Ngài (c. 9).
Hêrôđê đã được gặp Đức Giêsu trong cuộc Khổ Nạn (Lc 23, 6-12).
Lúc ấy Ngài xuất hiện trong tư cách một phạm nhân.
Dù vậy Hêrôđê cũng vui sướng vì ước ao của mình được thỏa nguyện.
Ông đã nghe Ngài làm được những phép lạ lớn lao,
nên ông ước mong được chứng kiến tận mắt một vài phép lạ.
Tiếc thay Đức Giêsu đã không muốn chiều Hêrôđê.
Ngài đã không trả lời ông, cũng chẳng làm một phép lạ nào.
Ngài thanh thản bình an trước những lời tố cáo của các thượng tế.
Ngài không muốn tránh cái chết mà Ngài biết nằm trong ý định của Cha.
“Ông này là ai ?”, Hêrôđê đã tìm thấy câu trả lời khiến ông bị hụt hẫng.
Giêsu chỉ là một anh khờ dại, chỉ đáng bị khinh bỉ và chế giễu.
Cuộc tìm kiếm với nhiều tò mò của Hêrôđê kết thúc.
Ông chẳng bao giờ biết được Đức Giêsu thật sự là ai.
Nhiều người đã đặt câu hỏi: “Ông Giêsu này là ai?” (Lc 5,21; 7,49; 8,25).
Hôm nay nhân loại vẫn đặt câu hỏi quan trọng đó.
Để trả lời, phải bước vào một cuộc hành trình, bỏ lại những thành kiến.
Tò mò, thích những điều giật gân, muốn thấy những điều lạ thường:
tất cả những điều ấy không giúp ta khám phá mầu nhiệm một con người.
Sự thật về Giêsu có khi lại được nhận ra qua cái im lặng cam chịu,
qua sự bất lực đớn đau trên thập giá hơn là qua sự thi thố quyền năng.
Phải đổi toàn bộ cái nhìn của mình để nhận ra được Giêsu là ai,
để không vội vã đánh giá Ngài dựa trên tiêu chuẩn người đời.
Như Hêrôđê, chúng ta có thể có cơ hội gặp mặt Giêsu,
nhưng vẫn không biết Ngài là ai.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa,
khi đến với Chúa
con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con
con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con,
con đóng lại bút viết: các quan điểm của con,
con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,
để con được ở một mình với Ngài,
lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.

Sau khi được ở với Ngài,
con sẽ xỏ giày vào
để đi theo đường của Chúa,
con sẽ đeo đồng hồ
để sống trong thời gian của Chúa,
con sẽ đeo kính vào
để nhìn thế giới của Chúa,
con sẽ mở bút ra
để viết những tư tưởng của Chúa,
con sẽ cầm chìa khóa lên
để mở những cánh cửa của Chúa.
(Graham Kings)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Cầu nguyện như Chúa
Lời tuyên xưng của thánh tông đồ Phêrô: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" được nhắc lại trong đoạn Phúc Âm hôm nay. Lời tuyên xưng đó chuẩn bị cho một giai đoạn mới trong cuộc đời của Chúa Giêsu, giai đoạn được bắt đầu cuộc hành trình tiến về Giêrusalem để hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại.
Ðoạn Phúc Âm được chia ra làm ba phần:
- Chúa Giêsu hỏi các tông đồ xem người ta nghĩ gì về chính Ngài và hỏi các tông đồ xem các ông nghĩ như thế nào về Chúa.
- Lời tuyên xưng của Phêrô: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa"
- Chúa Giêsu loan báo lần đầu tiên về cuộc thương khó của Ngài. Biến cố này cũng được kể như Phúc Âm theo thánh Marcô và Mátthêu, nhưng Luca có ghi thêm chi tiết đặc biệt, đó là việc Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi hỏi các môn đệ về thực thể mình là ai?
Chúng ta biết rằng thánh sử Luca luôn luôn ghi lại chi tiết Chúa Giêsu cầu nguyện trong những giây phút quan trọng của cuộc đời Chúa. Chúa cầu nguyện khi lãnh nhận phép rửa của Gioan tiền hô để bắt đầu cuộc đời rao giảng Tin Mừng; Chúa cầu nguyện suốt đêm trước khi gọi riêng mười hai tông đồ; rồi Chúa cầu nguyện trước khi hỏi các môn đệ: "Các con nghĩ Thầy là ai?"; Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi dạy các tông đồ kinh Lạy Cha; Chúa Giêsu cầu nguyện nơi vườn cây dầu trước khi bước vào cuộc thương khó và Chúa Giêsu cầu nguyện trên thập giá. Việc Chúa cầu nguyện cho những giây phút quan trọng của cuộc đời Chúa, mời gọi chúng ta tự vấn về đời sống thiêng liêng của mình: "tôi thường cầu nguyện lúc nào và trong những giây phút quan trọng của cuộc đời tôi có cầu nguyện hay không và cầu nguyện như thế nào?"
Biến cố Chúa Giêsu tra hỏi các môn đệ về thực thể Ngài là ai để cuối cùng đi đến lời tuyên xưng đức tin: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" là một biến cố quan trọng. Chúa Giêsu đã cầu nguyện trước khi bắt đầu tra hỏi các môn đệ: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" để theo Chúa trọn vẹn, không cần biết rõ cái chết của Chúa cho bằng có được mối tương quan thân tình mật thiết với Chúa. Chúa Giêsu không hỏi các môn đệ về giáo lý nhưng về chính mình, về chính thực thể Ngài là ai đối với họ. Và để trả lời được cho câu hỏi này thì cần phải trả lời hai điều: thứ nhất là biết Chúa và thứ hai là yêu mến Chúa. Ðây không phải là vấn đề biết Chúa một cách trí thức qua sách vở, nhưng là biết cảm nghiệm trực tiếp giữa người với người, giữa Chúa và đích thân mỗi người, biết Chúa như biết một người bạn; đây không phải là vấn đề giáo thuyết nhưng là vấn đề cụ thể con người, hoặc trực tiếp tiếp xúc với con người Chúa Giêsu Kitô, là Ðấng hằng luôn luôn hiện diện bên cạnh mỗi người chúng ta. Do đó, cần phải có đức tin và tình yêu thương thì ta mới có thể trả lời đúng cho câu hỏi Chúa Giêsu là ai đối với tôi? Một người không có đức tin hay ít đức tin, sống nguội lạnh thì quả thực là khó để trả lời cho câu hỏi của Chúa.
Lạy Chúa,
Xin thương ban cho con được ơn trưởng thành trong đức tin và trong tình thương Chúa. Xin cho con luôn được trung thành với lời tuyên xưng "Thầy là Ðấng Kitô" để rồi có thể múc lấy từ đó sức mạnh để dấn thân phục vụ Chúa và anh chị em chung quanh trong mọi hoàn cảnh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)


Suy Niệm

Nếu đặt vào bối cảnh lịch sử thì câu chuyện này xảy ra vào khoảng giữa hai giai đoạn của cuộc đời công khai của Chúa Giêsu: giai đoạn thứ nhất, Chúa Giêsu đi rao giảng và làm phép lạ; giai đoạn thứ hai, Chúa Giêsu đi vào con đường đau khổ thập giá. Kết thúc giai đoạn thứ nhất Chúa Giêsu muốn biết dư luận nghĩ sao về Ngài khi đã nghe Ngài giảng và chứng kiến những phép lạ Ngài làm. Nếu người ta nghĩ đúng về Ngài thì người ta mới có thể cùng với Ngài đi vào giai đoạn hai, tức là đi vào con đường khổ giá. Tuy nhiên trong thực tế, người ta có nhiều cách hiểu khác nhau về Đức Giêsu, dẫn đến nhiều cách đi theo Ngài: Nếu hiểu Chúa Giêsu là một Đức Kitô vinh quang quyền phép, thì người ta đi theo Ngài chỉ để xin ơn huệ. Còn khi nào người ta hiểu Ngài là một Đức Kitô chết trên thập giá thì khi đó người ta mới sẵn sàng bỏ tất cả để đi theo Ngài, cho dù phải chịu nhiều đau khổ và có thể hy sinh cả mạng sống mình nữa.
Về phần Phêrô, ông hiểu hơn dân chúng, ông hiểu và tuyên xưng rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong đầu Phêrô, hình ảnh "Đức Kitô của Thiên Chúa" gợi lên một nhân vật vinh quang, uy quyền. Bởi thế, sau khi Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu nạn chịu chết thì Phêrô ngăn cản Chúa. Như thế, cho dù người ta hiểu Đức Giêsu là Đức Kitô đi nữa, nhưng cũng chưa hẳn vì thế mà người ta dám đi theo Ngài tới chỗ chết.
Ngày xưa, Ðức Giêsu đã hỏi các môn đệ: Ngài là ai đối với họ. Chắc chắn hôm nay Ngài cũng đang đặt câu hỏi đó với mỗi người chúng ta. Chúng ta thử nghĩ xem, chúng ta sẽ trả lời Ngài như thế nào? Chúng ta có tin rằng Ðức Giêsu là Thiên Chúa, là Ðấng làm chủ cuộc đời chúng ta không? Chúng ta có sẵn sàng sống cho Ngài và theo Ngài không? Ðức Giêsu có chiếm vị trí quan trọng trong cuộc sống của ta không? Hay chỉ có vật chất, lợi lộc, hưởng thụ mới là điều quan trọng?
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang bước theo ngài không phải vì được Ngài an ủi, cũng không phải vì được ban ơn, hay để chia sẻ vinh quang, nhưng là để cùng Ngài đi trên con đường thập giá. Con hiểu rằng đường đời của mỗi chúng con là đường thập giá. Chắc chắn sẽ có nhiều đau thương khổ giá đòi chúng con phải từ bỏ rất nhiều. Nhưng vì chúng con muốn làm môn đệ thực sự của Ngài nên chúng con xin sẵn sàng cùng với Ngài đi trên con đường ấy. Xin cho cuộc sống của chúng con luôn hướng về Chúa trong tâm tình yêu mến, phụng sự và tín thác. Amen.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Chín

27 THÁNG CHÍN

Được Xức Dầu Là Được Tăng Lực

Đức Giám Mục, chung quanh có các linh mục hữu trách cộng đoàn giáo xứ, kêu xin Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người chúng ta ân sủng của Ngài: “Xin ban cho họ… thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, trần trí suy biết và đạo đức, xin ban cho họ đầy lòng kính sợ Chúa”.
Lời cầu nguyện ấy được nối tiếp bởi việc xức dầu thánh. Đức Giám Mục đã kêu xin Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở thành đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Thực vậy, Con Thiên Chúa đã làm người để dẫn dắt mọi người đến sự viên mãn của Chúa Thánh Thần, Đấng mà Ngài không ngừng ban tặng cho con cái loài người. Đây là Đức Kitô, Đấng Mêsia, có nghĩa là Đấng được xức dầu. Người là Đấng đầu tiên được Thánh Thần xức dầu và thông ban sức mạnh. Qua Bí Tích Thêm Sức, bằng một cách thế đặc biệt, chúng ta trở thành người thông dự trong Thánh Thần mà Đức Kitô đã mang đến cho chúng ta.

Đức Giám Mục vừa xức dầu trên trán những người lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức vừa cầu nguyện: “Hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần”, và từng người đáp lại: “Amen” (ước gì được như vậy). Sau đó Đức Giám Mục chào những người lãnh nhận Bí tích Thêm Sức: “Bình an của Chúa ở cùng con !” (Ga 20,19). Đây chính là những lời mà Đức Kitô Phục sinh đã nói khi Ngài ban Thánh Thần cho các tông đồ. Vâng, chúng ta hãy hoan hỷ trong ân sủng mà Chúa Thánh Thần đang trao ban các bạn trẻ của chúng ta. Chúa Thánh Thần là nguồn suối bình an của Thiên Chúa vọt lên trong con người và đem lại cho họ sự sống đời đời. Hãy chúc tụng Thiên Chúa !

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II




Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 27-9
Thánh Vinh Sơn Phaolô, linh mục
Kg 1, 15b-2,9; Lc 9, 18-22


LỜI SUY NIỆM: Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và người hỏi các ông: ‘Dân chúng nói Thầy là ai?” (Lc 9,18)

Hôm nay sau hơn hai ngàn năm. Chúa Giêsu cũng đang hỏi chúng ta câu hỏi này. Dân số thế giới bao nhiêu tỷ người, có bao nhiêu người đã nhận ra Ngài là Đấng Cứu Độ họ. Trách nhiệm của toàn thể Ki-Tô hữu, phải biết nói rõ về Chúa Giêsu cho mọi người, chứ không chỉ tuyên xưng trong các nhà thờ, trong các cộng đoàn dòng tu của mình, Chúng ta cần phải tích cực giới thiệu Chúa cho mọi người với những phương tiện sẵn có: Cầu nguyện, Hy sinh, Hãm mình Chay tịnh; chung sức thực hiện những công tác bác ái từ thiện, công lý và hòa bình cùng những phương tiện văn minh của nhân loại.


Mạnh Phương

Gương Thánh Nhân

NGÀY 27-09 THÁNH VINHSƠN PHAOLÔ - LINH MỤC (1581 - 1660)


Gia đình Phaolô là những nông dân tại Pouy, gần Dax. Vincentê sinh năm 1581 là con thứ ba trong gia đình sáu người con. Trong những ngày còn thơ ấu, Ngài lo chăn cừu cho cha. Giữa miền đồi lộng gió này, Vincentê đã trải qua nhiều giờ trong ngày để chiêm ngắm cảnh đồng quê và hướng lòng lên cùng Chúa. Thời gian này cũng cho Ngài những kinh nghiệm đầu tiên về số phận của người dân quê. Từ đó, lòng bác ái sớm nẩy nở trong tâm hồn Vincentê. Có lần thu góp được 30 xu, số tiền đáng kể đối với Ngài, nhưng Ngài đã tặng tất cả cho những người cùng khốn. Lần khác trên đường tới nhà máy xay Ngài âm thầm lấy một số bột bố thí cho người nghèo.
Thấy con mình có lòng bác ái lại thông minh, ông Gioan đệ Phaolô quyết hy sinh cho Vincentê theo ơn gọi làm giáo sĩ. Vincentê theo học các cha dòng Phanxicô tại Dax. Nhưng để tiếp tục chương trình đại học của Vincentê, cha Ngài đã phải bán bầy cừu lo cho tương lai của con. Dầu vậy, khi học thần học tại Toulouse, Vincentê cũng vừa lo học vừa lo dậy kèm tư gia kiếm tiền bớt gánh nặng cho gia đình.
Sau khi thụ phong linh mục trong hai năm trời Vincentê biến mất. Cho đến ngày nay người ta vẫn không biết rõ trong thời gian này Vincentê ra sao. Người ta kể lại rằng có một góa phụ tại Toulouse đã công đức tất cả tài sản của bà. Trên đường từ Marseille tới Narbonne để nhận gia tài Ngài đã bị bọn cướp bắt bán cho một ngư phủ. Không quên nghề Ngài lại bị bán cho một người hồi giáo làm thợ kim hoàn. Sau cùng Ngài lại bị rơi vào tay một người phản đạo tên là Gautier. Nhờ đời sống thánh thiện cha đã cải hóa được ông. Chính ông đã đưa cha trở lại đất Pháp. Năm sau, ông theo cha đi Roma và vào hội bác ái để đền tội cho đến ngày qua đời.
Từ đây, cha Vincentê bắt đầu thi hành chức vụ linh mục của Ngài. Ngài được chỉ định làm tuyên úy cho nữ hoàng Marguerrite de Valois. Lúc này, cha Vincentê có dịp quen biết cha Phêrô Berulle, Đấng sáng lập dòng giảng thuyết và sau này làm Hồng y. Dưới ảnh hưởng của cha Phêrô Bérulle, cha Vincentê bắt đầu nhiệt tình sống đời hy sinh nhiệt tình. Theo lời khuyên của Ngài, cha Vicente nhận làm tuyên úy cho gia đình Gondi. Hướng dẫn một số một nông dân trong vùng này, Vincentê đã khám phá ra tình trạng phá sản về tôn giáo và luân lý. Chính sự dốt nát và biếng nhác của nhiều giáo sĩ là duyên cớ gây nên tình trạng này. Ngài quyết tâm sửa đổi thực trạng.
Vincentê đã trở nên bạn của người nghèo và dùng mọi phương tiện khả năng có được để hoạt động nhàm tái tạo cuộc sống luân lý và tôn giáo của họ. Một thử nghiệm nhỏ như một linh mục quản sở tại Chatillon les Dober cho Ngài thấy rõ vấn đề còn rộng lớn hơn nhiều. Dầu nỗ lực cải tiến họ đạo, Ngài vẫn ưu tư cho công cuộc được bành trướng rộng rãi hơn. Trở lại Paris với sự trợ giúp của bà Gondi Ngài bắt đầu công cuộc nâng đỡ cảnh khốn cùng bất cứ ở nơi đâu, Ngài tổ chức "hội bác ái" trên khắp đất Pháp cung cấp áo xống thuốc men cho người nghèo khổ hết sức rợ giúp những nô lệ bị bắt chèo thuyền từ Paris tới Marseille. Ngài thành lập một hội dòng Lazarits với mục đích truyền đạo cho dân quê và đào tạo giáo sĩ. Từ hội dòng bác ái ấy còn mọc lên hội nữ tử bác ái mà y phục của họ toàn thế giới biết đến như là biểu tượng của lòng bác ái nối liền với danh hiệu Vincentê.
Một linh mục nhà quê đã trở nên quan trọng đối với toàn quốc từ căn phòng tại xứ thánh Lazane Ngài bành trướng ảnh hưởng ra khắp nước Pháp, tới Balan, Ý, Hebrider Madagascar và nhiều nơi khác nữa. Nữ hoàng Anne d'Austria nhiếp chính cho tới khi vua Luy lên cầm quyền đã hỏi ý Ngài trong việc đặt giám mục chống lại Mazania, Ngài đã không ảnh hưởng được tới đường lối của vị giám mục này lại còn bị khổ vì ông khi nội chiến xảy ra.
Ngài quyên góp để hàn gắn những tàn phá do cuộc chiến xảy ra tại Loraine. Ngài lo chuộc các nô lệ tại Bắc Phi. Các nỗ lực trên cùng với các nhu cầu và việc quản trị hội dòng ngày càng mở rộng đã giam Ngài tại phòng riêng xứ thánh Lazane. Ngày lại ngày bận bịu viết thơ cho các Giám mục lẫn Linh mục nghèo khổ, cho biến cố vị vọng lẫn nhu cầu nghèo khổ trong nước. Các thư tín của Ngài hợp thành một tuyển tập làm say mê người đọc vì trong đó pha trộn những ưu tư cho nước Chúa lẫn đức bác ái ngập tình người.
Các thư tín và các bài giảng thuyết của Vincentê cho thấy Ngài là một trong những nhà phục hưng của Giáo hội Pháp thế kỷ XVI. Những cuộc tĩnh tâm Ngài tổ chức tại St. Lazane cho các tiến chức và những cuộc tĩnh tâm hàng tháng Ngài tổ chức cho các giáo sĩ tại Paris (có cả những khuôn mặt lớn tham dự như De Rotz, Bossuet...) cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của Ngài trong cuộc chấn hưng đạo đức .
Năm 1660, cha Vincentê ngã bệnh liệt giường và đau đớn vì bệnh tật Ngài vẫn vui tươi tin tưởng : - Chúa còn phải chịu hơn tôi gấp bội.
Đối diện với cái chết Ngài bình tĩnh : - 18 năm qua, mỗi tối tôi vẫn dọn mình chết. Ngày 27 tháng 9 năm 1660, cha Vincentê từ trần và được tuyên thánh năm 1737.


(daminhvn.net)


27 Tháng Chín

Tuyên Úy Của Tù Nhân

Hôm nay là ngày kính nhớ thánh Vinh Sơn đệ Phaolô. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 17, linh mục Vinh Sơn được cử đi làm tuyên úy cho các tù khổ sai bị trói vào những cột chèo lớn trên các thuyền buồm của đế quốc Pháp. Với bản chất nóng nảy, hiếu thắng, cục mịch... cộng với những phản ứng thô lỗ mà có lẽ vị linh mục tuyên úy đã bị tiêm nhiễm trong suốt thời kỳ ở với tù nhân, cha Vinh Sơn đã được một nữ bá tước ra mời làm trưởng nhóm của một số linh mục đang phục vụ như những thừa sai giữa giới nghèo trong khắp nước Pháp... Cha Vinh Sơn đã chấp thuận lời đề nghị.
Một khúc quanh lịch sử không những bắt đầu với cha mà còn cho cả Giáo Hội nữa: các linh mục dòng thánh Vinh Sơn đệ Phaolô mà chúng ta thường gọi là các cha Lazaristes đã ra đời từ đó. Ngoài ba nhân đức thông thường ma các tu sĩ phải khấn giữ, họ còn cam kết phục vụ hoàn toàn cho giới nghèo.
Thời gian sau, với sự cộng tác của chị Louise de Marillac, cha Vinh Sơn đã thiết lập dòng Nữ Tử Bác Ái cũng đeo đuổi cùng một mục đích: đó là phục vụ người nghèo... Cha Vinh Sơn đã định nghĩa dòng nữ này như sau: nhà dòng của họ là nhà thương, nhà nguyện của họ là nhà thờ giáo xứ, khu nội cấm của họ là các ngả đường phố xá.
Chúc thư và cũng là tinh thần của thánh Vinh Sơn đệ Phaolô được chứa đựng trong các lá thư của ngài. Chúng ta hãy đọc qua một đoạn sau đây: "Hãy cố gắng bằng lòng ngay giữa những điều làm cho chúng ta bất mãn. Hãy giải thoát tâm trí con khỏi những điều đang làm con giao động. Chúa sẽ lo liệu cho mọi sự... Cha van xin con, hãy tín thác nơi Chúa. Con sẽ có mọi sự tâm hồn con khao khát".

Chúa Giêsu đã bắt đầu bằng con số không: Ngài nghèo đến nỗi không có nơi gối đầu. Thế nhưng ngày nay, khi nhìn vào Giáo Hội, người ta nghĩ ngay đến quốc gia Vatican, với một bảo tàng viện phong phú nhất, với những vương cung thánh đường lộng lẫy, với những cuộc biểu dương rầm rộ. Người ta cũng có thể nhìn vào các tòa giám mục đồ sộ.
Các vị sáng lập dòng cũng thường bắt đầu với con số không. Nhưng ngày nay, có ai chối cãi được rằng những cơ sở lớn mà người ta thường thấy trong các đô thị lại thuộc về các hội dòng.
Giáo Hội và cách riêng các hội dòng có phục vụ người nghèo và có thuộc về người nghèo không?... Có lẽ, nhiều hội dòng mà mục đích nguyên thủy là phục vụ người nghèo và sống nghèo, cần phải đấm ngực tự thú rằng mình đã quá đi xa tinh thần của Ðấng sáng lập... Sống nghèo trước hết đó là sống tín thác vào Chúa quan phòng. Có thể nói đó là nhân đức trỗi vượt và cũng là mẫu số chung của các vị thánh: phó thác hoàn toàn vào Tình Yêu của Chúa.
Chúa kêu mời chúng ta chớ có lo lắng thái quá về ngày mai. Càng lo lắng, con người càng nuôi dưỡng sự tham lam và càng thiếu lòng tin tưởng vào Chúa. Lòng tin của chúng ta được đo lường bằng chính sự phó thác vào Chúa.


(Lẽ Sống)
Thứ Sáu 27-9
Thánh Vinh-sơn Phao-lô
(1580?-1660)

Cảnh một người hầu hấp hối xưng tội trên giường bệnh như đã mở mắt Vinh-sơn để nhìn thấy nhu cầu tâm linh của vùng quê nước Pháp thời bấy giờ. Ðó là giây phút quan trọng trong cuộc đời của một người xuất thân từ nông trại nhỏ ở Gascony, nước Pháp, mà bấy giờ, việc đi tu làm linh mục không có gì lớn lao hơn là có được một cuộc sống tiện nghi.
Chính nữ Bá Tước de Gondi (có người đầy tớ được Vinh-sơn giúp đỡ) đã thúc giục chồng bà cung cấp tiền bạc và hỗ trợ một nhóm truyền giáo có khả năng và hăng say muốn hoạt động cho người nghèo, người hầu và tá điền. Lúc đầu Cha Vinh-sơn quá khiêm tốn nên không nhận làm người lãnh đạo cho nhóm này, nhưng sau một thời gian hoạt động cho các tù nhân khổ sai ở Balê, ngài trở nên nhà lãnh đạo thực sự của tổ chức mà bây giờ được gọi là Hội Thừa Sai, hay tu sĩ Dòng Thánh Vinh-sơn. Các linh mục này, với lời thề khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục và bền vững, tận tụy làm việc cho dân chúng ở các thành phố nhỏ hay làng mạc.
Sau này Cha Vinh-sơn tổ chức các nhóm bác ái để trợ giúp tinh thần cũng như thể chất của những người nghèo trong mỗi xứ đạo. Từ sinh hoạt này, với sự trợ giúp của Thánh Louis de Marillac, xuất phát tổ chức Nữ Tử Bác Ái, "mà tu viện là bệnh xá, nhà nguyện là nhà thờ của giáo xứ và khuôn viên là đường phố." Ngài huy động các bà giầu có ở Balê để quyên góp tài chánh cho chương trình truyền giáo, xây bệnh viện, giúp đỡ nạn nhân chiến tranh và chuộc lại khoảng 1,200 người nô lệ da đen. Ngài hăng hái tổ chức tĩnh tâm cho giới tu sĩ khi sự sao nhãng, lộng hành và ngu dốt lan tràn trong giới này. Ngài là người tiên phong trong việc huấn luyện tu sĩ và thúc đẩy sự thiết lập các chủng viện.
Ðáng để ý nhất, Vinh-sơn là một người hay cáu kỉnh -- ngay cả bạn hữu của ngài cũng công nhận điều ấy. Ngài cho biết, nếu không có ơn Chúa ngài sẽ "rất khó khăn và lạnh lùng, cộc cằn và gắt gỏng." Nhưng ngài trở nên một người dịu dàng và dễ mến, rất nhạy cảm trước nhu cầu của người khác.
Ðức Giáo Hoàng Leo XIII đã đặt ngài làm quan thầy của mọi tổ chức bác ái. Nổi bật nhất trong các tổ chức này, dĩ nhiên, là Dòng Thánh Vinh-sơn, được thành lập năm 1833 bởi Chân Phước Frederic Ozanam, là người rất ái mộ Thánh Vinh-sơn.
Lời Bàn
Giáo Hội là của mọi con cái Thiên Chúa, dù giầu hay nghèo, nông dân hay trí thức, thượng lưu hay bình dân. Nhưng hiển nhiên điều Giáo Hội lưu tâm nhất là những người cần sự giúp đỡ -- đó là những người trở nên cô thế bởi bệnh tật, nghèo đói, ngu dốt và sự tàn ác. Thánh Vinh-sơn Phao-lô rất thích hợp là quan thầy cho mọi Kitô Hữu ngày nay, khi người đói ngày càng nhiều, và lối sống xa hoa của người giầu ngày càng đối chọi với tình trạng sa sút về thể chất và tâm linh của con cái Thiên Chúa.
Lời Trích
"Hãy cố gắng vui lòng chấp nhận sống với những điều kiện khiến bạn bất mãn. Hãy giải thoát tâm trí mình khỏi những điều làm bạn phiền hà, Thiên Chúa sẽ lo lắng mọi sự. Khi bạn vội vàng lựa chọn bạn sẽ làm buồn lòng Thiên Chúa, vì Người thấy bạn không tôn kính Người đầy đủ với sự tin tưởng thánh thiêng. Hãy tin tưởng vào Người, tôi nài xin bạn, và bạn sẽ được no đầy những gì mà tâm hồn bạn khao khát(Thánh Vinh-sơn Phao-lô, Thư Từ).


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét