03/04/2015
Thứ Sáu Tuần Thánh
Kỷ Niệm Cuộc Khổ Nạn Của
Chúa
Phần
Thứ Nhất: Phụng Vụ Lời Chúa
Bài
Ðọc I: Is 52, 13-53, 12
"Người
đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta".
(Bài
ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa)
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Này
tôi tớ Ta sẽ được cao minh, sẽ vinh thăng tấn phát, cao cả tuyệt vời. Cũng như
nhiều người đã kinh ngạc, vì thấy người tàn tạ mất hết vẻ người, dung nhan người
cũng không còn nữa, cũng thế, muôn dân sẽ sửng sốt, các vua không còn biết nói
chi trước mặt người. Vì họ sẽ thấy việc chưa ai kể cho mình, sẽ biết điều mình
chưa hề được nghe.
Ai
mà tin được điều chúng ta nghe? Và Chúa đã tỏ ra sức mạnh cho ai? Người sẽ lớn
lên trước mặt Ngài như một chồi non, như một rễ cây, tự đất khô khan. Người chẳng
còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên
ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ
đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi
đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật
sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của
chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt
và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan
nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an,
và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang
như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả
chúng ta.
Người
hiến thân vì người tình nguyện và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết,
và như chiên non trước mặt người xén lông, người thinh lặng chẳng hé môi. Do cưỡng
bách và án lệnh, người đã bị tiêu diệt; ai sẽ còn kể đến dòng dõi người nữa, bởi
vì người đã bị khai trừ khỏi đất người sống; vì tội lỗi dân Ta, Ta đánh phạt
người. Người ta định đặt mồ người giữa những kẻ gian ác, nhưng khi chết, người
được chôn giữa kẻ giàu sang, mặc dầu người đã không làm chi bất chánh, và miệng
người không nói lời gian dối. Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ.
Nếu
người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và
nhờ người, ý định Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy
và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính
hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ. Bởi đó, Ta trao phó nhiều dân
cho người, người sẽ chia chiến lợi phẩm với người hùng mạnh. Bởi vì người đã hiến
thân chịu chết và đã bị liệt vào hàng phạm nhân, người đã mang lấy tội của nhiều
người, và đã cầu bầu cho các phạm nhân.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 30, 2 và 6. 12-13. 15-16. 17 và 25
Ðáp: Lạy Cha, con
phó linh hồn con trong tay Cha (Lc 23, 46).
Xướng:
1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con muôn đời tủi hổ, vì đức
công minh Ngài, xin cứu chữa con! Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa, lạy
Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành, xin cứu chữa con. - Ðáp.
2)
Con trở nên đồ ô nhục đối với những người thù, nên trò cười cho khách lân bang,
và mối lo sợ cho người quen biết; gặp con ngoài đường, họ tránh xa con. Con bị
người ta quên, không để ý tới, dường như đã chết, con đã trở nên như cái bình bị
vỡ tan. - Ðáp.
3)
Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài, con kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của
con! Vận mạng con ở trong tay Ngài, xin cứu gỡ con khỏi tay quân thù và những
người bách hại. - Ðáp.
4)
Xin cho tôi tớ Chúa được thấy long nhan dịu hiền, xin cứu sống con theo lượng từ
bi của Chúa. Lòng chư vị hãy can trường mạnh bạo, hết thảy chư vị là người cậy
trông ở Chúa. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: Dt 4, 14-16; 5, 7-9
"Người
đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên
căn nguyên ơn cứu độ đời đời".
Trích
thư gởi tín hữu Do-thái.
Anh
em thân mến, chúng ta có một thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Ðức
Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của
chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có thượng tế không thể cảm thông sự yếu
đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như
chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Khi
còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện
lên Ðấng có thể cứu mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời.
Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và
khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ
tùng phục Người.
Ðó
là lời Chúa.
Câu
Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa
Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên
Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Phúc
Âm: Ga 18, 1 - 19, 42
"Sự
Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
C: Người đọc
Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng
đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương
Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người
vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa
Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ
binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới.
Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng:
J. "Các
ngươi tìm ai?"
C. Chúng thưa lại:
S. "Giêsu
Nadarét".
C. Chúa Giêsu bảo:
"Ta đây".
C. Giuđa là kẻ định
nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta
đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng:
J. "Các
ngươi tìm ai?"
C. Chúng thưa:
S. "Giêsu
Nadarét".
C. Chúa Giêsu
đáp lại: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta,
thì hãy để cho những người này đi".
C. Như thế là trọn
lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho
Con". Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị
thượng tế, chém đứt tai bên phải. Ðầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo
Phêrô rằng:
J. "Hãy xỏ
gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!"
C. Bấy giờ, toán
quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu
Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế
năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người
chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu.
Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng
tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng
tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo
Phêrô:
S. "Có phải
ông cũng là môn đệ của người đó không?"
C. Ông đáp:
S. "Tôi
không phải đâu".
C. Ðám thủ hạ và
vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng
sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa
Giêsu đáp:
J. "Tôi đã
nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền
thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại
sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng
dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói".
C. Nghe vậy, một
tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói:
S. "Anh trả
lời vị thượng tế như thế ư".
C. Chúa Giêsu
đáp:
J. "Nếu Ta
nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại
đánh Ta?"
C. Rồi Anna cho
giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi.
Họ bảo ông:
S. "Có phải
ông cũng là môn đệ người đó không?"
C. Ông chối và
nói:
S. "Tôi
không phải đâu".
C. Một tên thủ hạ
của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng:
S. "Tôi đã
chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?"
C. Phêrô lại chối
nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy
giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ
không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy
Philatô ra ngoài để gặp họ và nói:
S. "Các
ngươi tố cáo người này về điều gì".
C. Họ đáp:
S. "Nếu hắn
không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan".
C. Philatô bảo họ:
S. "Các ông
cứ bắt và xét xử theo luật của các ông".
C. Nhưng người
Do-thái đáp lại:
S. "Chúng
tôi chẳng có quyền giết ai cả".
C. Thế mới ứng
nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ
Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi:
S. "Ông có
phải là Vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu
đáp:
J. "Quan tự
ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"
C. Philatô đáp:
S. "Ta đâu
phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta.
Ông đã làm gì?"
C. Chúa Giêsu
đáp:
J. "Nước
tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những
người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước
tôi không thuộc chốn này".
C. Philatô hỏi lại:
S. "Vậy ông
là Vua ư?"
C. Chúa Giêsu
đáp:
J. "Quan
nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng
về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi".
C. Philatô bảo
Người:
S. "Chân lý
là cái gì?"
C. Nói lời này
xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ:
S. "Ta
không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ
phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn
ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?"
C. Họ liền la
lên:
S. "Không
phải tên đó, nhưng là Baraba".
C. Baraba là một
tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết
một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói:
S. "Tâu Vua
Do-thái!"
C. Và vả mặt Người.
Philatô lại ra ngoài và nói:
S. "Ðây ta
cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy
nơi người ấy một lý do để kết án".
C. Bấy giờ Chúa
Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ:
S. "Này là
Người".
C. Vừa thấy Người,
các thượng tế và vệ binh liền la to:
S. "Ðóng
đinh nó vào thập giá! Ðóng đinh nó vào thập giá!"
C. Philatô bảo họ:
S. "Ðấy các
ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết
tội ông".
C. Người Do-thái
đáp lại:
S. "Chúng
tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên
Chúa".
C. Nghe lời đó
Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu:
S. "Ông ở
đâu đến?"
C. Nhưng Chúa
Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông
không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá
và cũng có quyền tha ông sao?"
C. Chúa Giêsu
đáp:
J. "Quan chẳng
có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi
cho quan, mắc tội nặng hơn".
C. Từ lúc đó
Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên:
S. "Nếu
quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là
vua, kẻ đó chống lại Xêsa".
C. Philatô vừa
nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi
là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày
chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân:
S. "Ðây là
vua các ngươi".
C. Nhưng họ càng
la to:
S. "Giết
đi! Giết đi! Ðóng đinh nó đi!"
C. Philatô nói:
S. "Ta đóng
đinh vua các ngươi ư?"
C. Các thượng tế
đáp:
S. "Chúng
tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa".
C. Bấy giờ quan
giao Người cho họ đem đóng đinh.
Vậy
họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ,
tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với
hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng
viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này:
"Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng
đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng
tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
S. Xin đừng viết
"Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua
dân Do-thái'".
C. Philatô đáp:
S. "Ðiều ta
đã viết là đã viết".
C. Khi quân lính
đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần
cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ
trên xuống dưới. Họ bảo nhau:
S. "Chúng
ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy".
C. Hầu ứng nghiệm
lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của
Ta". Chính quân lính đã làm điều đó.
Ðứng
gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ
ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa
Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:
J. "Hỡi Bà,
này là con Bà".
C. Rồi Người lại
nói với môn đệ:
J. "Này là
Mẹ con".
C. Và từ giờ đó
môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để
lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:
J. "Ta
khát!"
C. Ở đó có một
bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây
hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói:
J. "Mọi sự
đã hoàn tất".
C. Và Người gục đầu
xuống trút hơi thở cuối cùng.
(Quỳ
gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Hôm
đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat,
vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống
chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người
thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ
đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa,
tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy
ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và
người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc
này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một
cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Ðấng
họ đã đâm thâu qua".
Sau
đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người
Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến
cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa
Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm
hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục
khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có
một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và
ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
Suy
Niệm: Tình Yêu Mạnh Hơn Cái Chết
Một
trong những điều xem ra ngược đời nhất, là giữa tình yêu và cái chết có sự liên
lạc chặt chẽ. Kể cũng lạ kỳ: tình yêu là một giá trị tích cực, một khía cạnh
phong phú của cuộc đời, là cao điểm của sự sống, thì tại sao khi nói tới tình
yêu, người ta lại liên tưởng đến sự chết, là một mãnh lực phá hoại và dìm sự sống
xuống đáy sâu? Quả thật, một chân lý càng sâu sắc, thì càng có vẻ nghịch lý và
không ngớt làm cho người ta bỡ ngỡ. Tình yêu càng ở cao độ, càng có những đòi hỏi
gắt gao và hầu như đặt con người trong thế chiến đấu: chiến đấu để loại trừ các
chướng ngại, chiến đấu để đạt tới đối tượng của lòng mình. Nhưng vì là một cuộc
chiến đấu cam go, nguy hiểm, nên thường kết thúc bằng cái chết. Do đó mà có những
cái chết vì yêu: chết vì tình không được toại nguyện; chết vì muốn chung thủy với
tình yêu; chết vì yêu thương quá đỗi. Nhưng vì sao lại nói: Tình yêu mạnh hơn
cái chết?
1.
Chết Và Mãnh Lực Của Tội
Chúng
ta suy niệm về tình yêu và cái chết trong bối cảnh phụng vụ ngày thứ Sáu Tuần
Thánh. Ngày ấy, bóng Thập giá bao trùm lên khắp mặt địa cầu. Một xác người treo
trên cây gỗ. Những giọt máu từ các vết thương loang lỗ chảy thấm xuống lòng đất.
Uy tín Con Thiên Chúa bị chôn vùi trong ô nhục. Ðó là một cái chết quá ư bi thảm!
Nhưng vì sao Người phải chết như thế?
Phải
chăng vì ông Yêsu đã xách động quần chúng nổi loạn (Lc 23,2-5)? Vì ông đã có ý
tưởng phá hủy Ðền thờ Yêrusalem (Mc 14,58; Mt 26,61)? Vì ông đã phạm thượng khi
tự xưng là Ðấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa (Mt 26,65; Mc 14,64; Lc 22,71; Yn
19,7)? Hoặc vì các kỳ lão ghen tương (Mc 15,10) và sợ dân chúng bỏ họ đi theo
ông (Lc 22,2) hay vì môn đệ Yuđa muốn bán Thầy mình (Mc 14,10; Mt 26,14; Lc
22,3)? Xét về các lý do chính trị, xã hội, chính Philatô xác nhận: Ông Yêsu đã
không làm điều gì đáng chết (Lc 22,14-23; Yn 19,4); và lời tự thú của Yuđa cũng
chứng minh cho sự vô tội của Người: "Tôi đã nhúng tay vào một cuộc đổ máu
oan uổng" (Mt 27,4).
Tất
cả các hành vi phản bội, hận thù, ghen tương, cáo gian, bỏ vạ, hèn nhát, sợ sệt
kia đều là những khía cạnh của tội, một mãnh lực làm cho lòng người ra tối tăm
và bị kiềm chế trong vòng nô lệ. Ðức Yêsu chính là Người Ðầy Tớ Ðau Khổ của
Yavê (Is 52,13-53,12) và chỉ là nạn nhân vô tội của tội ác loài người.
Muốn
hiểu đúng ý nghĩa cái chết trên Thập giá cũng như toàn bộ mầu nhiệm Ðức Kitô,
ta phải chọn cái nhìn thần học, nghĩa là nhìn như Thiên Chúa nhìn vào công việc
Người làm. Nhãn quan đó cho ta thấy: Ðức Kitô đã chịu chết vì tội thế gian. Người
vô tội, đã tình nguyện trở thành tội vì ta và gánh chịu hậu quả của tội là cái
chết trên Thập giá (2C 5,21). Thánh Phaolô mô tả tội như một mãnh lực độc hại,
chỉ tổ gây ra chết chóc (Rm 6,23; 1C 15,55tt). Với cái chết như khí giới nguy
hiểm ấy, tội đã thống trị loài người (Rm 5,12-21; 6,20-23).
Theo
quan niệm Thánh Kinh, tội là hành động phản bội Giao ước tình yêu, và như thế cắt
đứt mạch sống nối liền chúng ta với trái tim Thiên Chúa. Tội gây ra chết chóc
toàn diện và vĩnh viễn cho loài người, nếu Thiên Chúa không tự động tái lập sự
sống. Người Dothái trong Cựu Ước đã ý thức được điều đó. Họ biết rằng tội và sự
chết là những thực tại hệ trọng đến nỗi không thể dùng các lý lẽ thuần túy nhân
bản để giải thích hết được. Họ thoáng thấy: có bàn tay hắc ám của một mãnh lực
ma quái nào đó đã nhúng vào và gây nên cơ sự ấy. Sách Khôn ngoan viết: "Vì
qủy dữ ghen tương, nên sự chết đã đột nhập vào thế gian" (Kn 2,24). Sự chết
đây không phải là cái chết thể lý thuộc bản tính tự nhiên của con người như một
tạo vật làm bằng bụi tro và sẽ trở về tro bụi (Kn 3,19), nhưng là chết trong
tâm hồn, chết vĩnh cửu, mà cái chết thể lý từ nay chỉ là một hình ảnh. Theo
thánh Yoan, con rắn trong vườn Ðịa đàng chính là hiện thân của Satan, "đứa
mê hoặc thiên hạ" (Kh 12,9; 20,2). Còn theo thánh Phaolô, chính tội loài
người phạm từ nguyên thủy dưới ảnh hưởng độc hại của Satan đã mở cửa cho sự chết
đột nhập vào đời và dìm tất cả trong bóng tối tử thần (Rm 5,12-21). Như một phản
ứng dây chuyền, một khi tội xuất hiện, thì càng ngày càng chồng chất dồn dập và
gieo rắc sự chết khắp nơi. Tội mạnh như thác lũ và cái chết là bằng chứng chiến
thắng của nó. Nhưng hỏi rằng: Tội có thắng nổi tình yêu?
2.
Sức Mạnh Sáng Tạo Của Tình Yêu
Tình
yêu luôn sáng tạo và tìm ra được nhiều cách biểu hiện, lắm khi cũng bất ngờ. Ðể
thắng tội kiêu căng, Ðức Kitô đã chọn sống khiêm hạ và tự hư-vô-hóa (Ph 2,6). Ðể
thắng tội tham lam hưởng thụ, Người đã chọn sống khó nghèo (2C 8,9). Ðể thắng
tính háo danh trần tục, Người đã như điên rồ chọn cái chết ô nhục trên Thập giá
(1C1,23). Thiên Chúa hành động cách ngược đời, và vì Người là tình yêu, nên
tình yêu thắng được tội và mạnh hơn cả cái chết.
Tình
yêu bao hàm chiến đấu. Chiến đấu đòi phải có năng lực. Quả thật, Nước Trời chỉ
dành riêng cho những người mạnh (Mt 11,12) và chính Tin Mừng là một sức mạnh giải
phóng (Rm 1,16). Thiên Chúa là Ðấng dũng mạnh, vì Người đầy lòng yêu thương.
Cái chết trên Thập giá của Ðức Kitô là một cái chết tự nguyện vì tình yêu: Người
yêu mến Chúa Cha và yêu thương chúng ta. Người chết vì vâng lời Chúa Cha để chuộc
tội nhân loại.
Ðàng
sau cây Thập giá xảy ra một cuộc chiến đấu vô hình giành quyền sống chết giữa
tình yêu và tội ác. Một chiến thuật đánh đổi rất ngược đời đã bẻ gãy mũi nhọn của
tội và vô-hiệu-hóa sức tàn phá của nó. Thân xác Ðức Kitô đã chết lạnh, và trở
thành bất động trên cây gỗ. Về mặt nhân loại, Người đã thua. Người đã thực nghiệm
trong chính bản thân mình sự bất lực tột độ, sự yếu nhược tận cùng của thân phận
làm người là cái chết thể lý. Mãnh lực tối đa của tội là gây ra cảnh chết: cái
chết vĩnh viễn của tâm hồn, mà cái chết trong thời gian của thân xác là một
hình ảnh. Chúa Kitô vô tội không thể trải qua cái chết vĩnh cửu của tâm hồn.
Nhưng Người có thể dùng cái chết của thể xác mình thay cho cái chết vĩnh cửu của
tâm hồn ta. - Người chết thay cho ta là như thế - Cuộc đánh đổi ấy chỉ có thực
hiện được bởi vị Thiên-Chúa-làm-người, vì mầu nhiệm Ðức Kitô thuộc cơ cấu bí
tích, trong đó yếu tố nhân loại hữu hình là dấu chỉ và khí cụ của yếu tố thần
linh vô hình (Vat II, GH 8). Người chết về thể xác trong thời gian, để ta khỏi
chết về tâm hồn trong vĩnh cửu. "Người mặc lấy bản tính nhân loại từ nơi
lòng Mẹ Maria, để giải thoát loài người khỏi tội lỗi nhờ các mầu nhiệm của thân
xác Người" (Vat II, GH 55), nhất là nhờ mầu nhiệm cái chết của Người trên
Thập giá.
Người
đã bị sức mạnh của tội đẩy lui đến tận cùng: Người chịu chết trong thể xác, vì
yêu ta. Chính Người thực hiện điều Người đã nói: không thể yêu hơn là yêu đến
chết vì yêu (Yn 15,13). Chịu đựng được tột mức như thế không phải là bất lực,
nhưng là dấu hiệu nói lên sức mạnh vô biên. Tình yêu có bị giết chết cũng vẫn
không chết. Còn tội chỉ gây ra được cái chết là hết sức mình: đó là cái chết
vĩnh cửu của tâm hồn ta, từ nay được đánh đổi với cái chết thể xác trên Thập
giá của Con Thiên Chúa. Nơi đây, tội bị mãnh lực vô biên của tình yêu giết chết
và tiêu diệt tận căn: "Tội bị kết án nơi thân xác Ðức Kitô" trên cây
gỗ (Rm 8,3).
Chính
tình yêu - được chứng minh bởi ý chí tự nguyện chịu chết vì vâng lời Chúa Cha -
là sức mạnh làm cho thân xác Ðức Yêsu sống lại vinh hiển, nghĩa là biến hình
(Mc 9,1-9) từ trạng thái thân xác thường tình bị chi phối bởi các định luật thể
lý, đến trạng thái thân xác sáng láng sống theo định luật của Thần Khí tự do.
Xuyên qua cái chết tự nguyện vì tình yêu, Ðức Yêsu đã vượt từ thân phận tôi đòi
của kiếp người trần thế đến thiên chức Chúa Tể được siêu thăng để bá chủ muôn
loài, hầu làm rạng rỡ Chúa Cha (Ph 2,7-11). "Vượt qua", theo thần học
thánh Yoan, có nghĩa là "trở về với Chúa Cha" (Yn 13,1). Chính sức mạnh
tình yêu, sức mạnh của Thần Khí Chúa Kitô và Chúa Cha, đã tái sinh tâm hồn ta
qua bí tích Thánh Tẩy. Cũng chính sức mạnh tình yêu ấy đang tiếp tục biến đổi
tâm hồn ta nhờ Thánh Thể và lời tha tội, và sẽ biến hình cả thân xác ta khi ta
sống lại trong ngày sau hết.
Tình
yêu mạnh hơn cái chết, vì tình yêu tiêu diệt được Tội là căn nguyên sinh ra nó.
Hỡi tử thần, chiến thắng của ngươi đâu? Nọc độc của ngươi còn đâu? (1C 15,55).
3.
Suy Tôn Thánh Giá
Ngày
thứ Sáu Tuần Thánh, trên Núi Sọ, bóng Thập giá bao trùm lên khắp mặt địa cầu. Một
xác người treo trên cây gỗ...
Thập
giá ô nhục đã trở nên Thánh giá vinh quang, ngai tòa vương quyền tình yêu, vì
con người treo trên cây gỗ ấy là Con Thiên Chúa, tự nguyện chịu chết vì vâng lời
Chúa Cha để chuộc tội thiên hạ. Vinh quang Thiên Chúa biểu hiện trong tình yêu.
Ách thống trị của tình yêu luôn êm ái nhẹ nhàng (Mt 11,30).
Nhưng
tình yêu của Chúa Kitô mạnh mẽ hơn cái chết, vì tình yêu đã thắng được tội ác.
Tình yêu ấy có tham vọng chinh phục lòng mọi người để lấp đầy bằng sự sống mới:
sự sống bởi Thần Khí tự do, là Ðấng biến đổi chúng ta thành con cái Chúa Cha.
Vì thế Thập giá ô nhục đã trở nên cây ban sự sống.
Thập
giá ô nhục cũng đã trở nên ngai tòa phán xét: "Tội đã bị kết án nơi thân
xác Ðức Kitô". Tòa án thế gian đã phán xét Người và lên án tử cho Người;
nhưng chính khi chịu đóng đinh trên Thập giá, Người, vô tội, đã lên án tội ác
thế gian. Song là một bản án khoan hồng, tha bổng cho những người sám hối ăn
năn. Người vừa phán xét, vừa cầu ân cho những kẻ phạm tội giết Người, mà không
biết mình giết Con Thiên Chúa (Lc 23,34). Từ nay Thập giá được dựng lên giữa lịch
sử loài người để trở thành phương tiện thánh hóa và cứu độ. Ai ngước mắt nhìn
lên thánh giá Ðức Kitô mà tin nhận Người là Chúa Cứu thế, thì sự sống vĩnh cữu
sẽ chảy tràn vào lòng họ. Chính thái độ đối với Thập giá đã định đoạt số mệnh mọi
người.
Trong
lịch sử nhân loại chỉ có một người - mà người ấy lại chính là Con Thiên Chúa -
đã chịu chết ô nhục trên thập giá vì yêu thương. Tình yêu ngược đời ấy đã đảo
ngược thế sự: từ nay mọi tủi nhục, uất ức, mọi chết chóc oan uổng, mọi thua thiệt
đắng cay không còn vĩnh viễn luống công một cách phi lý, vì lúc mà lý trí loài
người không hiểu nổi nữa, thì chính Thiên Chúa tìm ra được một sáng kiến lạ
lùng: thâu dụng những cái nghịch lý ấy vào kế hoạch cứu thế của Người. Thập giá
Ðức Kitô là điểm quy tụ và siêu thăng tất cả mọi tủi nhục uất ức, mọi thua thiệt
oan uổng của loài người, nhất là của những người không nói lên được với ai tiếng
nói và nỗi lòng mình, lại cũng chẳng được ai hiểu biết, để làm nên sự thành
công tối hậu, sau cái vẻ thất bại trước mắt, và đem lại vinh dự vinh hiển cho họ.
Bởi vì sức mạnh của Thiên Chúa tự biểu dương ra trong cảnh bất lực; khôn ngoan
của Thiên Chúa thích khoác chiếc áo điên rồ. Nhưng trong sự điên rồ, có tiềm ẩn
một triết lý sâu xa; triết lý của tình yêu cứu độ được viết ra trên Thập giá.
Mọi
người mang dấu Thánh giá trong lòng đều là chi thể của Chúa Cứu thế. Họ làm
thành Dân Thiên Chúa, quy tụ trong Giáo hội. Họ xây dựng Nước Trời giữa lòng thế
giới bằng cách làm cho tình yêu thống trị khắp hoàn vũ. Từ trên Núi Sọ ngày thứ
Sáu Tuần Thánh, bóng Thập giá bao trùm mặt địa cầu, để quy tụ mọi con cái Thiên
Chúa đang tản mác khắp nơi (Yn 12,51-52). Thập giá Chúa Kitô là trung tâm điểm
của lịch sử cứu độ, nhờ tình yêu đã thắng vượt cái chết.
Tình
yêu mạnh hơn cái chết, vì Thập giá Chúa Kitô đã toàn thắng tội lỗi.
Giảng Lễ
Chiều
nay chúng ta họp nhau lại đây, không phải để dâng lễ, nhưng để tưởng niệm cuộc
Khổ nạn và đặc biệt, tôn thờ Thánh giá Chúa Yêsu. Chúng ta đã nghe bài Phúc Âm
tường thuật cuộc Khổ nạn của Chúa. Và hai bài đọc trước đã cho chúng ta biết ý
nghĩa cuộc Khổ nạn này. Giờ đây, chúng ta cầm trí suy niệm những lời Thánh Kinh
ấy, trước khi suy tôn Thánh giá Chúa Kitô để được ơn cứu độ.
Bài
sách Isaia thật quý giá. Ðó chính là lời tiên tri. Tác giả sống trước Ðức Kitô
có tới 5, 6 trăm năm, thế mà ông đã như được nhìn thấy tận mắt thân hình Người
nằm trên Thánh giá. Ông viết: dân chúng phải kinh hoàng khi nhìn thấy Người, vì
mặt Người đã đổi thay, không còn giống con người chút nào nữa. Philatô đã làm
chứng: Ðức Kitô quả thật đã như vậy. Người bị bọn lý hình đập đánh và đóng mão
gai vào đầu, đến nỗi ông phải kinh hoàng vì tưởng rằng chỉ cần đưa Người ra cho
quần chúng thấy là họ phải động lòng trắc ẩn đòi tha Người ngay. Nên ông đã cho
điệu Người ra công đường với bộ mặt đầy máu me và đau đớn ấy. Ông chỉ vào Người
và bảo: "Này là Người". Ông có ý nói: Người trước đây thế nào mà bây
giờ như thế? Có thể tưởng tượng được không? Quả thật, Người đã rách nát tất cả
mặt mũi và thân hình rồi. Isaia viết: Người không còn gì để mắt ta có thể nhìn
được nữa. Và ông nói: "Người giống như một người cùi, một người bị bệnh
phong, nhìn thấy ai cũng phải ngoảnh mặt đi".
Phải,
Ðức Kitô của chúng ta đã bị đập đánh dã man, khốn khó và tiều tụy như thế đó!
Mà không phải chỉ có thân thể Người bị hành hạ như vậy đâu! Cây Thập giá, và chỗ
đứng của Người ở giữa hai tên tử tội, còn như muốn bêu xấu danh dự của Người nữa.
Thân phận của Người đã mất mát tất cả về phần xác. Và bản án kia với những lời
xỉ vả riếc róc còn muốn chôn cả tên tuổi Người xuống lòng đất. Người là tên tử
tội, bị tống ra khỏi thành để treo trên Thập giá! Ðau thương và nhục nhã biết
chừng nào!
Ðang
khi Người có làm gì nên tội! Philatô lúng túng khi muốn tìm ra tội Người. Cuối
cùng ông đành rửa tay bảo mình không dính dáng gì tới máu người vô tội này. Các
người Dothái cũng chẳng tìm được cớ nào để ghép tội. Nhưng họ cứ lớn tiếng đòi
giết Người, vì lẽ như lời Caipha nói: Phải có một người chết đi thay cho toàn
dân. Không ngờ ông đã thực hiện lời Isaia. Nhà tiên tri cách ông 5, 6 thế kỷ đã
viết: Sở dĩ Người bị hành hạ, đánh đập tan nát, là vì tội lỗi của ta. Người
mang lấy tội của toàn dân để cho chúng ta được sạch tội. Ðó là câu giải thích
cuộc Khổ nạn của Chúa mà chúng ta phải đào sâu để tìm ra ý nghĩa.
Gợi
lại những đau thương của Chúa trong ngày hôm nay, Phụng vụ Giáo hội cũng không
muốn gì hơn là làm cho chúng ta hiểu được vì sao Chúa lại phải chết như vậy. Dĩ
nhiên, Người không có tội nào rồi. Và Người chết như vậy là vì ta. Nhưng tương
quan giữa cái chết của Người và tội lỗi của ta như thế nào? Ðó là mầu nhiệm mà
bao lâu còn sống chúng ta phải suy nghĩ, để khỏi tỏ ra bực bội với người đã chết
vì ta và nhất là để được ơn cứu chuộc khỏi tội. Thường tình, tội ai người ấy chịu.
Nhưng đó chỉ là câu tục ngữ của thế giới loài người. Ở trước mặt Chúa, không thể
như vậy. Adong ngày trước phạm tội xong đã phải đi ẩn. Nghe Chúa gọi, ông chẳng
dám mang tội ra. Ông vẫn nấp ở trong lùm cây. Giữa Thiên Chúa và tội nhân không
thể có liên lạc trực tiếp nữa. Không phải vì Chúa hẹp hòi không muốn tha thứ.
Người muốn lắm chứ, nên mới đến tìm Adong. Nhưng chính Adong mới không dám ra
trước mặt Người. Dơ bẩn làm sao dám giơ mặt ra ánh sáng!
Chính
Chúa Kitô cũng nói: tội nhân ưa tối tăm hơn ánh sáng; tội nhân chỉ muốn sống
trong tối tăm và sợ ánh sáng phơi bày công việc xấu xa của họ ra. Tội nhân
không thể tự cứu mình... ngược lại càng ngày càng đi sâu vào con đường tối tăm,
giống như người mặc áo mới, cố giữ sạch, nhưng khi phải một vết nhơ, tự nhiên hết
muốn giữ gìn, để cho bẩn luôn rồi giặt một thể. Nhưng khốn nạn, tội lỗi không dễ
giặt như vậy. Và kinh nghiệm tội càng nhiều, càng ngã sâu, xác thịt càng bất lực,
không thể chỗi dậy được nữa. Phải có người không có tội, và không thể phạm tội,
liều mình dấn thân vào nơi tối tăm, đi xuống vực thẳm, kéo người tội lỗi lên.
Ðó là việc Chúa đã làm. Người đã xuống thế, chấp nhận thân phận tội nhân, chịu
mọi đau thương của kẻ có tội, để tìm gặp tội nhân ngay chính nơi họ đang sống,
nói đúng hơn, chính nơi họ đang chết, để làm cho họ sống lại, mà đi vào thế giới
mới, thế giới của sự thánh thiện. Isaia ví chúng ta như các con chiên lạc, đi
vào các hẻm tội lỗi. Chúa là mục tử nhân lành; Người bỏ đoàn thiên thần thánh
thiện, xuống thế đi tìm chúng ta về. Mà vì chúng ta chui rúc trong bụi gai, lạc
vào những chỗ hiểm hóc, nên con đường cứu thế của Chúa chúng ta là con đường hẹp,
đầy gian khổ, làm đổ máu.
Hơn
nữa, chúng ta không chỉ phạm tội nơi tối tăm này, chốn hẻo lánh kia, mà còn phạm
tội ngay trên thân xác mình, trong đầu óc và tận lòng trí mình, nên Ðức Kitô phải
chết nơi thân xác, chịu lưỡi đòng đâm vào tận tim, để cứu chuộc cả đến thân xác
chúng ta hầu sau này nó cũng được phục sinh vinh quang. Thế nên, chính tội lỗi
của ta đã đóng đinh Con Một Chúa. Chính tội lỗi loài người đã giết chết Con Ðức
Chúa Trời. Buổi chiều hôm nay phụng vụ kêu mời tất cả chúng ta nhìn lên Thánh
Giá Chúa Kitô để ý thức điều đó, để ghét bỏ tội lỗi, để dốc lòng hối cải, để cảm
mến Chúa đã chịu thương tích vì ta. Và tâm hồn chúng ta sẽ được thư thái; vì ơn
cứu độ sẽ đến với kẻ sám hối ăn năn, vì kìa trên Thánh giá, Ðức Kitô đã cầu xin
Chúa Cha tha cho kẻ có tội, như lời thánh Phaolô hôm nay nói và như bài tường
thuật cuộc Khổ nạn chúng ta vừa nghe. Thánh Phaolô bảo chúng ta nhìn mà xem:
Chúa cứu thế rất thông cảm; Người quá biết thân phận con người chúng ta; Người
đã chấp nhận từ khước chẳng từ khước khổ hình Thập giá, để chúng ta được cứu độ.
Chính vì vậy mà bây giờ Phụng vụ mời chúng ta sắp sửa đứng lên cầu nguyện cho hết
mọi hạng người trong Hội Thánh và trên thế giới, để ơn cứu độ hôm nay tuôn đổ
xuống trên họ, để từ nay họ nhìn vào Thánh giá Chúa như nguồn ơn cứu vớt, để chạy
đến quỳ hôn, hứng lấy tất cẳ nguồn mạch phong phú của Chúa Cứu chuộc, trước khi
nhận lấy Mình Thánh là bảo chứng của Mầu nhiệm Cứu thế.
Như
vậy, hôm nay chúng ta sẽ tôn kính thờ lạy Thánh giá Chúa với tất cả lòng mến cậy
trông. Và trước hết, chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người, xin Chúa đưa họ
cùng chúng ta đến với Thánh giá, hầu tất cả thế giới chiều nay được thêm ơn cứu
độ.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần Thánh
Bài đọc: Isa 52:13 – 53:12;
Heb 4:14-16, 5:7-9; Jn 18-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Vinh quang tuyệt đỉnh
qua đau khổ tột cùng
Phụng
vụ Lời Chúa hôm nay tập trung trong những đau khổ của Đức Kitô và lý do tại sao
Ngài phải chịu những đau khổ này.
Trong
Bài Đọc I, tiên tri Isaiah nói rõ lý do tại sao Người Tôi Trung của Thiên Chúa
chịu đau khổ: Ngài mang lấy thương tích của chúng ta. Ngài đã bị đâm vì chúng
ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm. Ngài đã chịu sửa trị để chúng
ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. Trong
Bài Đọc II, tác-giả Thư Do Thái chứng minh Chúa Giêsu là Vị Thượng Tế tuyệt hảo,
vì Ngài vừa biết những gì nơi Thiên Chúa, vừa biết những gì nơi con người; nên
Ngài có thể cầu bầu với Thiên Chúa một cách hiệu quả cho con người. Hơn nữa, vì
sự vâng phục Thiên Chúa và những đau khổ Chúa Giêsu chịu, Ngài đã trở nên nguồn
ơn cứu độ cho muôn người. Trong Phúc Âm, thánh-sử Gioan tường thuật Cuộc Thương
Khó của Chúa Giêsu, từ khi Ngài bị phản bội bởi Judah cho tới khi ông Joseph
Arithmatha và Nicodemus an táng Ngài trong huyệt mộ, Chúa Giêsu biết tất cả những
đau khổ xảy đến cho Ngài, và Ngài luôn can đảm đối phó và chịu đựng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Bài ca thứ tư về Người Tôi Trung của Thiên Chúa
Trong
Bài ca thứ tư, Thiên Chúa cho biết lý do tại sao Người Tôi Trung phải chịu đau
khổ: (1) để gánh chịu hình phạt cho nhân lọai, và (2) để đạt được vinh quang
tuyệt đỉnh.
1.1/
Người Tôi Trung được vinh quang tuyệt đỉnh qua đau khổ tột cùng: Tiên tri Isaiah muốn
nhấn mạnh đến cách thức được vinh quang: “qua đau khổ tột cùng.” Cần chú ý đến
4 động từ dùng trong câu này: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽcư xử khôn
ngoan (sakal), sẽ được vươn cao (rum), được
tuyên dương (nasa), và được suy tôn đến tuyệt đỉnh (gabah
meod). Vì Người Tôi Trung biết hành động khôn ngoan và hiệu quả, nên Người
được vươn cao, được tuyên dương, và đạt tới vinh quang tuyệt đỉnh. Một người
không thể đọc câu này mà không suy nghĩ đến (Phi 2:6-11, Acts 2:33, và Acts
3:13, 26). Tác giả Stier so sánh 3 giai đọan được nâng cao của Người với 3 giai
đọan sống lại, lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa (Psa 110:1). Ai là Người Tôi
Trung biết cư xử khôn ngoan để đạt được vinh quang tuyệt đỉnh như thế? Vua
David? dân Israel? tiên tri? Chỉ có Đức Kitô mà thôi.
Đau
khổ mà Người Tôi Trung phải chịu vượt quá đau khổ con người có thể tưởng tượng
được: “bao kẻ đã sửng sốt khi thấy người tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng
ra người, không còn dáng vẻ con người nữa.” Điều này tác giả muốn nhấn mạnh đến
hậu quả của hình phạt: Vì chịu quá nhiều đau khổ nơi thân xác, Người Tôi Trung
không còn giữ được dáng vẻ con người nữa.
Có
một sự khác biệt giữa Bản Bảy Mươi và Bản Do Thái trong câu 52:15: Nhóm PVCGK dịch
theo Bản Bảy Mươi: “Nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ…” Theo Bản
Do-thái: “Nó sẽ rẩy (yazah) trên các dân tộc …” E.J. Young cắt nghĩa: Động
từ yazah là một động từ đặc biệt, dùng trong luật Moses cho việc
rẩy dầu, nước, hay máu như một lễ nghi thanh tẩy bởi các tư tế (Lev 4:6, 8:11,
14:7a). Chúa Giêsu rẩy máu của người trên các dân tộc để thanh tẩy tội lỗi của
họ như lời người Do-thái nói: “Máu của nó sẽ đổ trên chúng tôi và con cháu
chúng tôi” (Mt 27:25).
1.2/
Phản ứng của con người khi nhìn thấy Người Tôi Trung.
(1)
Phản ứng của các vua chúa: Khi được chứng kiến tòan bộ: vinh quang tuyệt đỉnh
cũng như đau khổ tột cùng của Người Tôi Trung, “các vua chúa sẽ phải câm miệng,
vì được thấy điều chưa ai kể lại, được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ.”
(2)
Phản ứng của dân Chúa: “Ai mà tin được điều chúng ta đã tường thuật? Cánh tay
uy quyền của Đức Chúa đã được mặc khải cho ai?” Vì điều Thiên Chúa làm quá cao
siêu, vượt quá trí hiểu biết của con người; hậu quả là con người sẽ khó lòng
tin được. Thánh Phaolô gọi Thập Giá là một điên rồ với người Hy-lạp, và sự sỉ
nhục với người Do-thái. Họ không thể nào hiểu được một Thiên Chúa uy quyền muốn
con mình chấp nhận điều đó. Nhưng Thiên Chúa uy quyền sẽ làm cho con người hiểu
được Mầu Nhiệm Thập Giá và tin vào Đức Kitô, đó là Tin Mừng mà chúng ta rao giảng.
Tiên-tri
tường thuật về cuộc đời của Người Tôi Trung với các động từ ở thời quá khứ tiên
tri: “Người tôi trung đã lớn lên tựachồi non trước Nhan
Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn (Isa 11:1). Người chẳng
còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì
khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền
miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị
chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới.”
1.3/
Lý do tại sao Người phải chịu đau khổ: Người Tôi Trung chịu đau khổ vì con người.
*
Lý do đúng: “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã
gánh chịu những đau khổ của chúng ta.”
*
Lý do sai: “Còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng
hoạ, phải nhục nhã ê chề.”
“Chính
người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người
đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta
được chữa lành. Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một
ngả. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta. Bị ngược
đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt,
như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng. Người đã bị ức hiếp,
buộc tội, rồi bị thủ tiêu. Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới? Người đã bị
khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt. Người đã bị
chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn
bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa.”
1.4/
Những thắng lợi của Người Tôi Trung được hưởng.
(1)
Ý muốn của Thiên Chúa được thực hiện: Người Tôi Trung là nhân vật chính trong Kế
Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, chính Ngài sẽ đưa kế hoạch này tới chỗ thành tựu
và hòan hảo: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người
hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn,
và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ của mình, người
sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện.”
(2)
Ức triệu sinh linh được cứu độ: Mục đích của Kế Hoạch Cứu Độ là giải thóat con
người khỏi quyền lực của tội lỗi và mang lại ơn cứu độ cho muôn người: “Vì đã nếm
mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công
chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm
gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm,
bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra,
nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi.”
2/
Bài đọc II:
Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.
2.1/
Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội
(Heb 4:14-16):
“Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức
Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng
Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của
ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm
tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để
được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.”
-
Vai trò của vị Thượng Tế: mang những gì Thiên Chúa nói cho dân và hướng dẫn dân
ra trước sự hiện diện của Ngài. Vị Thượng Tế hòan hảo là người vừa biết Thiên
Chúa vừa biết dân. Vai trò này chỉ Chúa Giêsu mới có thể hòan thành.
(1)
Chúa Giêsu biết Thiên Chúa: vì bản chất của Ngài là Thiên Chúa. Tác giả Thư
Do-thái xác tín: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng
trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.”
(2)
Chúa Giêsu biết con người: vì Ngài mang thân xác con người. Hơn nữa, “Người đã
chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội.”
-
Chúa Giêsu biết, chịu, và thắng cám dỗ hơn ai hết: Lý do, chúng ta sa chước cám
dỗ trước khi ma quỉ dùng hết thủ đoạn của nó; Chúa Giêsu biết, chịu, và thắng
vượt tất cả thủ đoạn của ma quỉ. Ví dụ, khi gián điệp tra tấn, họ sẽ dùng các
tra tấn từ nhẹ tới nặng. Tra tấn nặng nhất chỉ dành cho con người can đảm nhất.
Một người yếu bóng vía sẽ không biết mọi thủ đọan tra tấn.
-
Ngài muốn chịu khổ đau của con người: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là
Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta.” Người Hy-lạp và Do-thái
không thể hiểu nổi tại sao Thiên Chúa chịu đau khổ; họ không thể chấp nhận một
Thiên Chúa chết treo trên Thập Giá. Đây là một ý tưởng hay quan niệm hoàn toàn
mới. Họ tin một Thiên Chúa vô cảm (apatheia); vì một Thiên Chúa nhạy cảm
sẽ thay đổi trước những đau khổ của con người; và nếu Thiên Chúa thay đổi, Ngài
không còn là Thiên Chúa nữa. Người nào làm Thiên Chúa phải thay đổi, người đó sẽ
lớn hơn Thiên Chúa. Họ không thể tưởng tượng một Thiên Chúa muốn liên quan với
thế giới vật chất này.
-
Ngài hiểu biết sự đau khổ con người phải trải qua: “Có đau mắt mới biết thương
người mù.” Ngài có thể giúp đỡ con người cách hiệu quả: Vì đã trải qua tất cả,
Ngài có kinh nghiệm tất cả. Vì thế, không ai có thể giúp con người hiệu quả hơn
người đi trước đã có kinh nghiệm về điều đó.
2.2/
Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người (Heb
5:7-9).
Tác giả Thư Do Thái tóm tắt công trình cứu độ của Đức Kitô như sau:
(1)
Chúa Giêsu biết những gì sẽ xảy đến cho Ngài trong Cuộc Thương Khó: Ngài đã
khóc trong vườn Ghetsemane vì sắp phải đương đầu với chúng. Trong giây phút sợ
hãi, Ngài đã cầu nguyện để xin Thiên Chúa chọn cho Ngài một con đường khác, nếu
có thể: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc
mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người
đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính.”
(2)
Chúa Giêsu vâng phục Chúa Cha cho đết chết: Dẫu vậy, Ngài vẫn xin vâng theo
thánh ý của Thiên Chúa Cha: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều
đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.” Hậu quả của sự vâng phục là Ngài đã
phải chết trên Thập Giá.
(3)
Chúa Giêsu trở nên nguồn cứu độ: Vì sự vâng phục qua những đau khổ Ngài chịu,
Chúa Giêsu đã trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục
Người.
3/
Phúc Âm:
Cuộc Thương Khó Chúa Giêsu theo thánh Gioan
3.1/
Judah bán Chúa Giêsu: “Sau
khi nói những lời đó, Đức Giêsu đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối
Kedron. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào. Judah, kẻ nộp
Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ. Vậy,
Judah tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm
Pharisees; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. Đức Giêsu biết mọi việc sắp xảy đến
cho mình, nên tiến ra và hỏi: "Các anh tìm ai?" Họ đáp: "Tìm
Giêsu Nazareth." Người nói: "Chính tôi đây." Judah, kẻ nộp Người,
cũng đứng chung với họ. Khi Người vừa nói: "Chính tôi đây!" thì họ
lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi một lần nữa: "Các anh tìm
ai?" Họ đáp: "Tìm Giêsu Nazareth."”
-
Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài: Đức Giêsu nói: "Tôi đã bảo các anh
là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này
đi." Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói: "Những người Cha đã ban
cho con, con không để mất một ai." Ông Simon Phêrô có sẵn một thanh gươm,
bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người
đầy tớ ấy tên là Mankhô. Đức Giêsu nói với ông Phêrô: "Hãy xỏ gươm vào
bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?"
3.2/
Chúa Giêsu trước dinh Thượng Tế: “Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ
của người Do-thái bắt Đức Giêsu và trói Người lại. Trước tiên, họ điệu Đức
Giêsu đến ông Hannah là nhạc phụ ông Caiaphas. Ông Caiaphas làm thượng tế năm
đó. Chính ông này đã đề nghị với người Do-thái là nên để một người chết thay
cho dân thì hơn.”
(1)
Thẩm vấn Chúa Giêsu:
-
Vị thượng tế tra hỏi Đức Giêsu về các môn đệ và giáo huấn của Người.
-
Đức Giêsu trả lời: "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng
dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ họp. Tôi không hề
nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người
đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì."
-
Đức Giêsu vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người
mà nói: "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?"
-
Đức Giê-su đáp: "Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu
tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?"
Ông
Hannah cho giải Người đến thượng tế Caiaphas, Người vẫn bị trói.
(2)
Phêrô chối Chúa Giêsu 3 lần: “Ông Simon Phêrô và một môn đệ khác đi theo Đức
Giêsu. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giêsu vào sân
trong của tư dinh vị thượng tế. Còn ông Phêrô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người
môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô
vào.”
-
Lần thứ nhất: Người tớ gái giữ cổng nói với ông Phêrô: "Cả bác nữa, bác
không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao?" Ông liền đáp: "Đâu phải."
-
Lần thứ hai: Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó;
ông Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Người ta nói với ông: "Cả bác nữa, bác
không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?" Ông liền chối: "Đâu phải."
-
Lần thứ ba: Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phêrô
chém đứt tai, lên tiếng hỏi: "Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy
sao?" Một lần nữa ông Phêrô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
3.3/
Chúa Giêsu trước tòa Philatô: Vậy, người Do-thái điệu Đức Giêsu từ nhà ông Caiaphas đến dinh tổng
trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn
lễ Vượt Qua được.
(1)
Quan Philatô từ chối không xử Chúa Giêsu:
-
Tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi: "Các người tố cáo ông này về tội
gì?"
-
Họ đáp: "Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho
quan."
-
Ông Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của
các người."
-
Người Do-thái đáp: "Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả."
Thế
là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
*
Kiểu Do-thái: ném đá cho tới chết. Người Do-thái từ chối không xử tử Chúa
Giêsu.
*
Kiểu Rôma: đóng đinh vào thập giá. Chúa Giêsu bị xử tử theo kiểu Rôma.
(2)
Quan Philatô thẩm vấn Chúa Giêsu:
-
Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: "Ông có phải
là vua dân Do-thái không?"
-
Đức Giêsu đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài
về tôi?"
-
Ông Phi-la-tô trả lời: "Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các
thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?"
-
Đức Giêsu trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc
về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người
Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này."
-
Ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?"
-
Đức Giê-su đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến
thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì
nghe tiếng tôi."
-
Ông Philatô nói với Người: "Sự thật là gì?"
-
Chúa Giêsu không trả lời. Một người không biết sự thật, làm sao có thể sống và
làm chứng cho sự thật như tổng trấn Philatô?
(3)
Philatô muốn tha Chúa Giêsu:
-
Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó
cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người
không?
-
Họ la lên rằng: "Đừng tha nó, nhưng xin tha Barabba!" Mà Barabba là một
tên cướp.
(4)
Philatô cho quân lính đánh đòn Chúa Giêsu: “Bấy giờ ông Philatô truyền đem Đức
Giêsu đi và đánh đòn Người. Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu
Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. Họ đến gần và nói: "Kính chào
Vua dân Do-thái!" rồi vả vào mặt Người.”
(5)
Philatô không tìm ra lý do để kết tội Chúa Giêsu:
-
Ông Philatô lại ra ngoài và nói với người Do-thái: "Đây ta dẫn ông ấy ra
ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội
ông ấy." Vậy, Đức Giêsu bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình
khoác áo choàng đỏ. Ông Philatô nói với họ: "Đây là Người!"
-
Khi vừa thấy Đức Giêsu, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng:
"Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá!"
-
Ông Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập
giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy."
-
Người Do-thái đáp lại: "Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì
nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa." Nghe lời đó, ông
Philatô càng sợ hơn nữa.
(6)
Philatô tìm cách tha Chúa Giêsu:
-
Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giêsu: "Ông từ đâu đến?"
-
Nhưng Đức Giêsu không trả lời.
-
Ông Philatô nói với Người: "Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng
tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?"
-
Đức Giêsu đáp lại: "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban
cho. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn."
Từ
đó, ông Philatô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng: "Nếu
ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Caesar. Ai xưng mình là vua, thì chống
lại Caesar."
(7)
Philatô trao Chúa Giêsu cho họ đóng đinh: Khi nghe thấy thế, ông Philatô truyền
dẫn Đức Giêsu ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng
Do-thái là Gabbatha.
Hôm
ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa.
-
Ông Philatô nói với người Do-thái: "Đây là vua các người!"
-
Họ liền hô lớn: "Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!"
-
Ông Philatô nói với họ: "Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người
sao?"
-
Các thượng tế đáp: "Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Caesar."
Bấy
giờ ông Philatô trao Đức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá.
-
Người Do-thái phạm thượng khi họ nói: "Chúng tôi không có vua nào cả,
ngoài Caesar." Họ chỉ có một vua là Thiên Chúa.
3.4/
Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào Thập Giá: Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là
Cái Sọ, tiếng Do-thái là Golgotha; tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng
thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giêsu thì ở
giữa.
(1)
Người Do-thái xin sửa bảng viết: “Ông Philatô cho viết một tấm bảng và treo
trên thập giá; bảng đó có ghi: "Giêsu Nazareth, Vua dân Do-thái."
Trong dân Do-thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giêsu bị đóng
đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng: Do-thái,
La-tinh và Hy-lạp.”
-
Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Philatô: "Xin ngài đừng viết:
"Vua dân Do-thái;" nhưng viết: "Tên này đã nói: Ta là Vua dân
Do-thái."”
-
Ông Philatô trả lời: "Ta viết sao, cứ để vậy!"
(2)
Chia nhau áo của Chúa Giêsu: “Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, lính tráng
lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần; họ lấy cả chiếc áo
dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới.
Vậy họ nói với nhau: "Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được." Thế là
ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt
thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm.”
3.5/
Chúa Giêsu sinh thì trên Thập Giá: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị
của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cleopas, cùng với bà Maria Magdala.”
(1)
Chúa Giêsu trối Đức Mẹ cho Gioan: Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng
bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: "Thưa Bà, đây là con của
Bà." Rồi Người nói với môn đệ: "Đây là mẹ của anh." Kể từ giờ
đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
(2)
Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng: “Sau đó, Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất.
Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: "Tôi khát!" Ở đó, có một
bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành
hương thảo, rồi đưa lên miệng Người.
Nhắp
xong, Đức Giêsu nói: "Thế là đã hoàn tất!" Rồi Người gục đầu xuống và
trao Thần Khí.”
3.6/
Táng xác Chúa Giêsu:
(1)
Chúa Giêsu bị đâm thâu: “Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác
chết trên thập giá trong ngày Sabbath, mà ngày Sabbath đó lại là ngày lễ lớn.
Vì thế họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy
xác xuống. Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai
cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết,
họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh
sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng,
và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả
anh em nữa cũng tin. Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không
một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ
nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.”
(2)
Tháo đanh và táng xác Chúa Giêsu: “Sau đó, ông Joseph, người Arithmatha, xin
ông Philatô cho phép hạ thi hài Đức Giêsu xuống. Ông Joseph này là một môn đệ
theo Đức Giêsu, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Philatô chấp thuận.
Vậy, ông Joseph đến hạ thi hài Người xuống. Ông Nicodemus cũng đến. Ông này trước
kia đã tới gặp Đức Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn
với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà
quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái.
Nơi
Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới,
chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần
bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Mỗi khi đọc lại Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, chúng ta phải nhận thức: lẽ ra
chúng ta là người phải ngang qua những đau khổ này, chứ không phải là Con Thiên
Chúa.
-
Chúa Giêsu chấp nhận vâng phục Thiên Chúa và tất cả các đau khổ là để cứu chuộc
con người. Chúng ta đã làm gì để đáp lại tình thương của Thiên Chúa?
-
Nếu Chúa Giêsu chấp nhận vâng phục và đau khổ để chứng tỏ tình thương cho Thiên
Chúa và cho con người; chúng ta cũng phải làm tương tự để đền bù lại tình
thương Thiên Chúa và mang sự sống cho tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
03/04/15 THỨ SÁU TUẦN
THÁNH
Ga 18,1-19,42
Ga 18,1-19,42
Suy niệm: Một
chi tiết quan trọng mà chỉ mình Gio-an để ý: đó là quân lính không đánh giập
ống chân Chúa Giê-su vì Chúa đã chết, nhưng lại đâm ngọn giáo vào cạnh sườn
Ngài, bấy giờ máu và nước chảy ra. Như vậy, sự chết của Chúa trên cây thánh giá
phát sinh sự sống. Nước là sự sống, nơi nào có nước, nơi ấy có sự sống. Nước
cũng là biểu tượng của bí tích thanh tẩy (rửa tội), bí tích đem lại sự sống mới
cho ta. Máu là biểu tượng của sự sống, mất máu là mất sự sống, truyền máu là
thông truyền sự sống. Máu của Đức Giê-su còn quý giá hơn nữa, vì đem lại sự
sống trường sinh: “Ai uống máu này thì có sự sống
đời đời” (Ga
6,54). Nước từ thánh giá rửa sạch tội ta, máu Chúa đổ ra trên thánh giá để cứu
chuộc ta.
Mời Bạn: Máu
và nước từ thân xác Đức Giê-su trên cây thánh giá đem lại sự sống cho bạn. Bạn
không chỉ được mời gọi nhìn lên cây thánh giá ấy với lòng tin tưởng, nhưng còn
được mời gọi vác thánh giá cuộc đời mình. Nhiều Ki-tô hữu chỉ thích thánh giá
cài trên khuy áo, đeo trên ngực, chứ không thích vác thánh giá trên vai. Còn
bạn thì sao?
Sống Lời Chúa: Tôi cảm nhận sâu sắc lòng yêu thương của Chúa khi
chịu treo trên thánh giá. Vì thế, trong mọi hoàn cảnh, tôi vẫn kiên trung loan
báo tình thương của Chúa Giê-su chịu đóng đinh cho những người lân cận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho con không làm phiền lòng Chúa nữa, để khi
hôn thánh giá Chúa, con có thể yêu mến Chúa hết lòng, quyết tâm từ nay sống cho
Chúa và vì Chúa. Xin cho con mở miệng nói được khi hôn thánh giá: “Lạy Chúa,
Chúa biết con yêu Chúa.”
Thế là đã hoàn tất
Đức Giêsu Kitô đã trở về với Cha bằng con đường
khó đi. Người Kitô hữu cũng về với Thiên Chúa bằng con đường hẹp.
Suy niệm:
Vào Chúa nhật Lễ Lá chúng ta
đã nghe đọc bài Thương Khó
trong các sách Tin Mừng Nhất
Lãm.
Vào thứ Sáu Tuần Thánh,
chúng ta luôn nghe đọc bài Thương Khó theo Gioan.
Thánh Gioan kể lại cuộc Khổ
nạn của Chúa Giêsu với những nét riêng của ông.
Chúng ta trân trọng cái nhìn
bổ sung của thánh Gioan cho những Tin Mừng khác.
Trong cuộc Khổ Nạn, Đức
Giêsu của Gioan tỏ ra là người chủ động.
Ngài biết trước các biến cố
sắp xảy ra, và Ngài có quyền năng làm chủ mọi sự.
Chính Ngài tiến ra và hỏi
các kẻ đến bắt Ngài: “Các anh tìm ai?”
Câu trả lời của Ngài đủ làm
họ lùi lại và ngã xuống đất (18, 4-9).
Đức Giêsu bình an và uy
nghiêm bước vào cuộc Khổ nạn,
vì Ngài đã chấp nhận chén
đắng Cha trao (18, 11).
Khi bị vị thượng tế Khanna
tra hỏi về giáo huấn,
chẳng chút sợ hãi, Ngài đã
thẳng thắn từ chối trả lời (18, 19-21).
Khi bị vả mặt, Ngài cũng đòi
kẻ xúc phạm Ngài phải nói rõ tại sao (18, 23).
Đức Giêsu bị đem tới dinh
tổng trấn Philatô lúc trời đã sáng.
Philatô là người xét xử Đức
Giêsu, nhưng có vẻ ông là người bị động.
Ông bị giằng co giữa một bên
là Đức Giêsu đang ở trong dinh,
bên kia là đám đông và các
nhà lãnh đạo Do thái giáo đang ở ngoài dinh.
Một bên là ông Giêsu mà ông
không tìm thấy lý do nào để kết tội (18, 38; 19, 4. 6).
Bên kia là chức tổng trấn và
chức “Bạn của Xêda” mà ông đang nắm giữ (19, 12).
Philatô không biết phải theo
ai, chọn ai trong tình cảnh căng thẳng này.
Vì thế ông đã đi ra, đi vào
cả thảy bảy lần (18, 18, 29. 33. 38; 19, 1. 4. 9. 13).
Đức Giêsu đã đối thoại khá
dài với Philatô về Nước của Ngài (18, 36-37),
một nước không có trên bản
đồ, không có quân đội, không dùng bạo lực.
Nước của Ngài gồm những
người biết nghe sự thật và đứng về phía sự thật,
sự thật này được Ngài làm
chứng và cất tiếng nói lên.
“Đây là Vua các người”,
Philatô đã giới thiệu Đức Giêsu như thế (19, 14)
và ông đã cương quyết giữ
lại tấm bảng treo trên thập giá mang dòng chữ :
“Giêsu Nadarét, Vua dân Do
thái” (19, 19).
Đức Giêsu đã tự mình vác
thập giá lên đồi Sọ và bị đóng đinh vào giữa trưa.
Chiên Thiên Chúa bị giết
đúng vào lúc ở Đền Thờ người ta giết chiên Vượt qua.
Đức Giêsu không cô đơn trên
thập giá vì có Mẹ và người môn đệ dấu yêu.
Suốt một đời Ngài đã sống
cho sứ mạng Cha trao, nay Ngài biết nó đã hoàn tất.
Chủ động cả trong cái chết,
Ngài “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (19, 30).
Qua cái chết trên thập giá,
Đức Giêsu cho thấy tình yêu lớn nhất của Ngài (15, 13),
tình yêu trao hiến cả Máu và
Nước từ trái tim bị đâm thâu (19, 34).
Nhưng thập giá cũng cho thấy
tình yêu của Cha khi ban Con Một cho ta (3, 16).
Đức Giêsu Kitô đã trở về với
Cha bằng con đường khó đi.
Người Kitô hữu cũng về với
Thiên Chúa bằng con đường hẹp.
Ước gì chúng ta sống cuộc
Khổ nạn của mình với sự bình an, can đảm của Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao
cho chúng con,
xin cho những người nghèo
khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức
đối diện
với những khó khăn gay gắt
của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm
bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em
được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật
được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hòa thắng
được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với
trời,
con người nối lại mối dây
liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình
an. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3
THÁNG TƯ
Qua
Cái Chết - Đến Với Sự Sống
Giáo
Hội, được qui tụ lại bởi ngôi mộ Đức Giêsu, nhìn tội lỗi dưới một ánh sáng mới
khi Giáo Hội dám ca lên rằng : “Ôi tội hồng phúc! Tội đã đem lại cho chúng ta Đấng
Cứu Chuộc quá đỗi cao cả!” Chúng ta có thể thực sự nói về những gì diễn ra đêm
nay rằng “Đây là điều Chúa đã làm ra; thật kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv
118,23).
Chúng
ta được Giáo Hội đặc biệt mời gọi đón nhận mạc khải này về quyền năng Thiên
Chúa, về quyền năng sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Mầu nhiệm Vượt Qua của
Chúa Giê-su Kitô luôn luôn hiện diện trong bí tích của Giáo Hội. Quyền năng của
cái chết và cuộc Phục Sinh của Người vẫn không ngừng tác động trong linh hồn
người ta.
Nhờ
tác động của chính quyền năng Thiên Chúa – quyền năng sáng tạo và cứu độ – Giáo
Hội được sinh lại nơi cuộc Phục Sinh của Đức Chúa chịu đóng đanh của mình: “Tảng
đá mà những người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường” (c.22).
Tất
cả chúng ta đã được sinh ra từ tảng đá ấy: Tất cả chúng ta đều là những viên đá
sống trong tư cách là thành viên của Giáo Hội. Tất cả chúng ta đều được sống nhờ
hơi thở trao ban sự sống của Đức Kitô Phục Sinh. “Chúng ta phải coi như mình đã
chết đi đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giê-su
Kitô” (Rm 6,11).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
03-4
Thứ
sáu Tuần Thánh.
Tưởng
Niệm cuộc thương khó của Chúa
Is
52, 13-52,12; Dt 4, 14-16;5,7-9; Ga 18, 1-19,42.
LỜI
SUY NIỆM:“Bấy giờ ông Phi-la-tô truyền đem Đức Giêsu
đi và đánh đòn Người. Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt trên đầu
Người, và khoát cho Người một áo choàng đỏ. Họ đến gần và nói: Kính chào vua
dân Do-thái! Rồi vả vào mặt Người”
Ngày
Thứ Sáu Tuần Thánh. Giáo Hội dẫn đưa chúng ta đi vào cuộc thương khó của Chúa
Giêsu. Trong cuộc thương khó, khôn mặt của Chúa Giêsu đội mão gai, là khuôn mặt
gây nên ấn tượng mạnh cho những ai chiêm ngắm Người. Những ai yêu mến Khuôn mặt
Chúa Giêsu đội mão gai. Cần có ơn sức mạnh tình yêu của Chúa ban; mới đủ cam đảm
ôm lấy mà không sợ những gai nhọn đâm vào mình.
Lạy
Chúa Giêsu, trong cuộc sống của chúng con, có những lúc chúng con cố ý cũng như
vô tình đã kết những vòng gai nhọn đội lên đầu người anh em chung quanh chúng
con. Xin Chúa thương đến mọi thành viên trong gia đình chúng con, đừng đội mão
gai lên đầu bất cứ ai, nhưng nếu bị người ta đội mão gai lên đầu mình, thì xin
cho chúng con biết chấp nhận để nên giống Chúa hơn.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
03-4
Thánh
CASIMIRÔ
(1458
- 1483)
Thánh
Casimirô sinh tại Krakow ngày 5 tháng 12 năm 1458. Ngài là con út trong số 13
anh em của vua Balan và hoàng hậu Elisabeth nước Áo, con người nổi tiếng nhân đức.
Gioan Dugloss thời danh, tổng giám mục Lemberg. Sau này, là thầy dạy của Ngài.
Casimirô
nhiệt thành học hỏi và chỉ nghĩ tới việc làm đẹp ý Chúa. Tâm hồn trong trắng của
Ngài ảnh hường tới mọi người chung quanh. Các gia nhân Ngài quen với với phong
thái tốt đẹp này đến nỗi tại các triều đình ngoại quốc, người ta nhận ra họ bằng
sự cao thượng hơn là bằng sắc phục họ mặc.
Casimirô
cảm thấy nỗi đau khổ của người nghèo như là của mình và giúp đỡ họ tận tình đến
nỗi dân nghèo coi Ngài như một người cha. Người ta trách Ngài đã quá hạ mình
đau khổ săn sóc cho những người cùng khổ, Ngài đã đáp rằng : - Có vinh dự nào lớn
lao hơn là được phục vụ Chúa Kitô trong các chi thể người ?
Vị hoàng tử trẻ tự khắc phục bằng việc sám hối liên tục. Dưới sắc phục sang trọng, Ngài mặc áo nhặm và ngủ trên đất, dưới chân giường. Ngài chỉ muốn ăn bánh và sống trong nghèo khó giữa những vinh dự đến nỗi người ta có thể nói về Ngài như nói về Đức Giám mục Milanô. Thánh Carolô Borrômêô rằng, Ngài chỉ là con chó tội nghiệp trong nhà chủ mình.
Vị hoàng tử trẻ tự khắc phục bằng việc sám hối liên tục. Dưới sắc phục sang trọng, Ngài mặc áo nhặm và ngủ trên đất, dưới chân giường. Ngài chỉ muốn ăn bánh và sống trong nghèo khó giữa những vinh dự đến nỗi người ta có thể nói về Ngài như nói về Đức Giám mục Milanô. Thánh Carolô Borrômêô rằng, Ngài chỉ là con chó tội nghiệp trong nhà chủ mình.
Thời
gian tại nhà thờ là phút giây êm ái quí báu nhất của Ngài, Ngài tới nhà thờ mỗi
tối khi cửa còn đóng, và gục mặt xuống đất cầu nguyện. Trong thánh lễ, người ta
thấy Ngài xuất thần như lúc truyền phép, dường như Ngài thấy Chúa Kitô trong
tay linh mục, Ngài đặc biệt tôn sùng Đức Trinh Nữ mà Ngài gọi là "Mẹ nhân
ái" và hàng ngày đọc thánh thi Ommi die để kính Mẹ. Hai mươi năm sau khi
qua đời, người ta còn tìm thấy bản chép thánh thi trong mộ Ngài. Ngài có óc
phán đoán thật thông minh đến nỗi cha Ngài thường hỏi ý kiến Ngài:
Lúc Casimiro được 13 tuổi, dân Hungarie bất mãn với vua Mathias đã gửi đại diện tới Balan để dâng ngai báu cho Ngài. Vị hoàng tử trẻ không ao ước gì điều này, nhưng vì kính trọng cha, nên đã hướng dẫn binh đội đi nâng đỡ ước nguyện này. Khi tới biên thùy Hungaria, Ngài biết rằng Mathias đã tới chiếm được lòng dân và sẵn sàng chiến đấu cho chính nghĩa. Đức Giáo hoàng cũng ủng hộ vị vua bị truất ngôi. Casimiro vui mừng vì bản tin này và gửi đại diện về cho cha xin bãi bỏ sự việc.
Lúc Casimiro được 13 tuổi, dân Hungarie bất mãn với vua Mathias đã gửi đại diện tới Balan để dâng ngai báu cho Ngài. Vị hoàng tử trẻ không ao ước gì điều này, nhưng vì kính trọng cha, nên đã hướng dẫn binh đội đi nâng đỡ ước nguyện này. Khi tới biên thùy Hungaria, Ngài biết rằng Mathias đã tới chiếm được lòng dân và sẵn sàng chiến đấu cho chính nghĩa. Đức Giáo hoàng cũng ủng hộ vị vua bị truất ngôi. Casimiro vui mừng vì bản tin này và gửi đại diện về cho cha xin bãi bỏ sự việc.
(daminhvn.net)
03
Tháng Tư
Giỗ Tổ Hùng Vương
Ngày
mùng 10 tháng 3 Âm Lịch là ngày giỗ tổ Hùng Vương...
Theo
tục truyền, vua Ðế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến
núi Ngũ Linh (nay thuộc tỉnh Hà Nam) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra một người
con gọi là Lộc Tục. Sau, Ðế Minh truyền ngôi cho con trưởng làm vua phương Nam
xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Ranh
giới nước Xích Quỷ lúc bấy giờ phía Bắc giáp Ðộng Ðình Hồ (tức Hồ Nam), phía
Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục, phía Ðông giáp bể Nam Hải.
Kinh
Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm Tuất (Tức là năm 2879 trước
Tây Lịch) và lấy con gái Ðộng Ðình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm
vua, gọi là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Ðế Lai tên là Âu Cơ đẻ ra một lần 100 con trai. Sau này, Lạc Long Quân chia cho nàng 50 con để dắt lên núi, còn 50 con, ông đưa về hướng biển Nam Hải.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Ðế Lai tên là Âu Cơ đẻ ra một lần 100 con trai. Sau này, Lạc Long Quân chia cho nàng 50 con để dắt lên núi, còn 50 con, ông đưa về hướng biển Nam Hải.
Lạc
Long Quân phong cho người con trai trưởng sang làm vua nước Văn Lang, xưng là
Hùng Vương, sáng lập ra nước Việt Nam sau này...
"Vật
đổi sao rời, phúc tổ vẫn lưu nền cổ tích
Nước
nguồn cây cối, đạo người nên nhớ đạo Hùng Vương".
Hai
câu thơ khuyết danh này như muốn nhắc nhở chúng ta về công đức của tổ tiên.
Ngày 10 tháng 3 Âm Lịch, chúng ta không biết là ngày húy nhật của vua Hùng
Vương nào, chỉ biết rằng người xưa đã biết chọn một ngày để con cháu về sau
muôn đời có dịp tụ họp nhau lại mà nhớ đến tổ tiên, nhớ đến công đức của người
đã sáng lập ra dòng họ, nhất là sáng lập ra quốc gia.
Cách
đây vài năm, tổng thống Rigan của Hoa Kỳ đã về thăm Ái Nhĩ Lan. Ông muốn nói
lên mối dây liên kết giữa ông, những người da trắng đang sinh sống tại Bắc Mỹ
và tổ tiên của họ... Là người, ai cũng thấy cần có một tổ quốc, một quê hương
trong đó cả một dòng giống được phát sinh và liên kết với nhau.
Cũng
như tất cả những người tha hương, những người Việt Nam đang sống ở hải ngoại
lúc nào cũng hướng về quê hương của họ. Quê hương là một cái gì vô cùng cao quý
và thiêng liêng mà chỉ khi nào mất đi người ta mới cảm thấy luyến nhớ. Nhưng
nói đến quê hương không có nghĩa là gợi lại một mảnh đất, một phong cảnh, một
dòng sông... Nói đến quê hương là nói đến những người cùng bởi một ông tổ mà
ra, những người cùng nói chung một thứ tiếng, những người có cùng một màu da,
hay nói như người Việt Nam chúng ta, những người đồng bào, nghĩa là những người
cùng chung một cái bọc mà sinh ra... Ðó là ý nghĩa của huyền thoại 100 cái trứng,
trong câu chuyện lập quốc của chúng ta.
Nhưng
những người công giáo không chỉ ý thức về tình máu mủ ruột thịt của những người
cùng một dân tộc, họ còn có một gia đình rộng rãi hơn: đó là gia đình nhân loại.
Nhà
vô thần Voltaire đã nói: nếu Thiên Chúa không có thì chúng ta phải tạo ra
Ngài... Vì sao thế? Thưa, để cuộc đời chúng ta có một ý nghĩa, để chúng ta biết
chúng ta có chung một người Cha, và tất cả mọi người, dù không đồng một ngôn ngữ,
dù không đồng một màu da, tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Và kết luận tất
yếu của chân lý đó là: chúng ta phải thương yêu nhau.
Người
trong cùng một nước, có cùng một ông tổ phải thương yêu nhau vượt lên trên tất
cả mọi khác biệt về địa lý, về tôn giáo, về quan điểm chính trị.
Ðó
là tất cả ý nghĩa của ngày giỗ tổ Hùng Vương mà chúng ta cử hành hằng năm. Ngày
giỗ tổ ấy cũng còn mời gọi chúng ta đi xa hơn nữa để nhìn nhận mọi người đều là
con cái Chúa và đều là anh em với nhau.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét