05/04/2015
Chúa Nhật Lễ Phục Sinh
(phần I)
Bài
Ðọc I: Cv 10, 34a. 37-43
"Chúng
tôi đã ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
những ngày ấy, Phêrô lên tiếng nói rằng: "Như anh em biết điều đã xảy ra trong
toàn cõi Giuđêa, khởi đầu từ Galilêa, sau khi Gioan rao giảng phép rửa: ấy là
Chúa Giêsu thành Nadarét. Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu
cho Người. Người đi khắp nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi
vì Thiên Chúa ở cùng Người. Và chúng tôi, chúng tôi là chứng nhân tất cả những
gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Ðấng người ta
đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống
lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên
Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ
cõi chết sống lại. Và Người đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và
làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và
kẻ chết. Mọi tiên tri đều làm chứng về Người rằng: Tất cả những ai tin vào Người,
thì nhờ danh Người mà được tha tội".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 22-23
Ðáp: Ðây là ngày Chúa đã lập
ra, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó (c. 24).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà
Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.
2)
Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi
không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3)
Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó
đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: Cl 3, 1-4
"Anh
em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh
em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên
trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời,
chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn
giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy
giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang.
Ðó
là lời Chúa.
Hoặc
đọc: 1 Cr 5, 6b-8
"Anh
em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh
em thân mến, anh em không biết sao?: chỉ một tí men là đã đủ làm dậy men cả khối
bột! Anh em hãy tẩy trừ men cũ để nên bột mới anh em là bánh không men. Vì
Chiên Vượt Qua của ta, là Ðức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng
với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh
tuyền và chân thật.
Ðó
là lời Chúa.
Ca
Tiếp Liên
(Ðọc
trong Chúa Nhật Phục Sinh, còn các ngày khác trong tuần Bát nhật thì không buộc
đọc)
Các
Kitô hữu hãy tiến dâng
lời
khen ngợi hy lễ Vượt Qua.
Chiên
con đã cứu chuộc đoàn chiên mẹ:
Ðức
Kitô vô tội đã hoà giải tội nhân với Chúa Cha.
Sống
và chết hai bên song đấu cách diệu kỳ,
tướng
lãnh sự sống đã chết đi, nhưng vẫn sống mà cai trị.
Hỡi
Maria, hãy nói cho chúng tôi nghe
bà
đã thấy gì trên quãng đường đi?
Tôi
đã thấy mồ Ðức Kitô đang sống
và
vinh quang của Ðấng Phục Sinh,
thấy
các thiên thần làm chứng,
thấy
khăn liệm và y phục.
Ðức
Kitô là hy vọng của tôi đã phục sinh,
Người
đi trước chư vị tới xứ Galilêa.
Chúng
tôi biết Ðức Kitô đã sống lại thật từ cõi chết!
Lạy
Chúa, Vua chiến thắng, xin thương xót chúng con.
Alleluia:
1 Cr 5, 7b-8a
Alleluia,
alleluia! - Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế vậy chúng ta hãy mừng
lễ trong Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 20, 1-9
"Người
phải sống lại từ cõi chết".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày
đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng
đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia
được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy
khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn
đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô,
và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không
vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những
dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn
với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù
ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng,
theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Phục Sinh: Một Bí Quyết Của Thiên Chúa
Suy
niệm:
"Vì
loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi:
Người
đã từ trời xuống thế�
Người
chịu đóng đinh vào Thập giá vì chúng tôi�
Ngày
thứ ba,
Người
sống lại như lời Thánh Kinh�".
Ðó
là những điểm trọng yếu nhất của đức tin Kitô giáo mà ta tuyên xưng trong Kinh
Tin Kính tông truyền.
Nghĩa
là:
vì
ta, Người đã nhập thể,
vì
ta, Người đã chịu chết,
vì
ta, Người đã sống lại.
Nhưng
mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, ta phải hiểu làm sao? Mầu nhiệm đó ảnh hưởng
trên đời ta thế nào?
1.
Tranh Tối, Tranh Sáng, Quanh Một Biến Cố Ðịnh Ðoạt
Các
sự kiện xảy đến trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh đã tạo ra nơi các môn đệ một tâm
trạng buồn thảm, chán ngán và hầu như thất vọng. Cứ quan sát nét mặt ủ dột của
hai môn đệ trên đường Emmau (Lc 24,17) và lắng nghe giọng nói trầm buồn của họ
trong câu chuyện trao đổi với người khách lạ mặt (Lc 24,19-24) thì người ta có
thể thấy được nét thất vọng ê chề của họ sau cái chết bi đát của vị tiên tri
thành Nadarét mà họ đã từng ngưỡng mộ; đồng thời đọc được vẻ hoang mang của họ
trước câu chuyện mồ trống mà mấy người phụ nữ và các môn đệ khác đã chứng kiến.
Họ tự hỏi: Chẳng biết có nên tin hay không? Và cuối cùng Ðức Yêsu đích thực là
ai?
Sau
ngày thứ Sáu Tuần Thánh, biết bao tín hữu ở khắp nơi đã phải chạm trán với những
vấn nạn tương tự như hai môn đệ trên đường Emmau. Họ cũng mang một tâm trạng
băn khoăn lưỡng lự như hai ông. Nhưng vấn đề quyết định là: liệu họ có biết lắng
tai và mở mắt để nhìn ra Người? Có mở lòng để đón nhận Người qua lời Thánh Kinh
và qua nghi lễ bẻ bánh? Có gắn bó và tin tưởng vào Người như hai ông khi đối diện
với Ðấng vô hình (Lc 24,27-32)? Nói cách khác: liệu họ có tin vào Ðấng Phục
sinh hay không? Họ có tin rằng vì Người đã sống lại, nên họ cũng sẽ được sống lại
như Người? Tất cả vấn đề là ở đó. Một vấn đề căn bản mà thánh Phaolô đã thẳng
thắn đặt ra cho cộng đoàn Kitô hữu tại Côrintô (1C 15,12-34).
Về
biến cố Phục sinh, các chứng tích duy nhất ta có thể tra cứu đều nằm trong Tân
Ước. Theo đó, khi được nghe loan báo về cuộc Phục sinh, cũng như khi được tiếp
xúc với chính Ðấng Phục sinh, ban đầu các môn đệ đã có những phản ứng bán tín
bán nghi (Lc 24,11.39-41), nửa mừng nửa sợ (Mt 28,8; Mc 16,8), và phải nói: hoài
nghi và hoảng sợ nhiều hơn là tin tưởng và vui mừng. Tiêu biểu nhất cho thái độ
hoài nghi ấy là tông đồ Tôma mà tất cả chúng ta đều biết chuyện (Yn 20,24-29).
Tựu trung, đó là một phản ứng rất tự nhiên của con người, khi tiếp xúc với những
gì là thiêng thánh hoặc những thực tại thần linh. Mầu nhiệm Phục sinh là một
trong những thực tại đó.
2.
Phục Sinh: Một Bí Quyết Của Thiên Chúa
Ngay
từ đầu, trong các bản tuyên tín kỳ cựu, cộng đoàn Kitô hữu đã lần lượt kể liên
tiếp nhau: việc Chúa Yêsu chịu chết trên Thập giá, chịu táng xác trong mồ, và
ngày thứ ba sống lại như Lời Thánh Kinh, sau đó Người hiện ra với Phêrô, rồi với
nhóm Mười Hai tông đồ... (1C 15,3-7). Ðó là những sự kiện đã xảy ra trong không
gian và thời gian. Tuy nhiên, trong lúc đám tang Ðức Yêsu diễn ra giữa thanh
thiên bạch nhật, trước mắt nhiều người gồm cả bạn lẫn thù, thì chính việc Phục
sinh của Người lại là một bí mật� Không một người
nào đã có mặt tại đó để xem sự việc xảy ra làm sao, cũng giống như khi Thiên
Chúa dựng nên muôn loài từ nguyên thủy: thì lúc ấy cũng chẳng có ai đã đứng xem
việc Người làm. Trong cả hai trường hợp, ta đều đụng tới một bí quyết của Thiên
Chúa. Cả hai trường hợp đều là những hành động sáng tạo của Người hướng về nhân
loại và lịch sử thế giới, để lập nên một trật tự mới mẻ.
Các
tài liệu Kinh Thánh liên quan tới biến cố Phục sinh, tựu trung phản ảnh lại hai
truyền thống: Truyền thống về ngôi mộ trống và truyền thống về các cuộc hiện ra
của Ðấng Phục sinh. Ngôi mộ trống là một tang chứng vật chất, mà mọi người bấy
giờ có thể kiểm chứng. Quả thật, theo thánh sử Matthêu, toán lính canh mồ đã thấy
mồ trống, đã gặp các phụ nữ đến viếng mồ mà không còn thấy Chúa Yêsu nữa (Mt
28,2-15). Nhưng ngôi mộ trống ấy không phải là một bằng cớ hiển nhiên và có giá
trị minh chứng tuyệt đối cho việc Phục sinh của Chúa Yêsu. Ngôi mộ trống tự nó
có thể giải thích nhiều cách, trong đó có cả giả thuyết cho rằng các môn đệ đã
đến lấy trộm xác Người ban đêm, như chính người Dothái đã tung ra, để khích bác
cộng đoàn Kitô hữu (Mt 28,11-15). Chúng ta phải hiểu đúng ý nghĩa của hai truyền
thống ấy. Ðó là những truyền thống đức tin của cộng đoàn tiên khởi: cộng đoàn
tuyên xưng đức tin trong các buổi họp mừng phụng vụ và các giờ giảng dạy giáo
lý.
Chính
các tông đồ và những chứng nhân khác đã chia sẻ cho cộng đoàn kinh nghiệm đức
tin của mình, sau khi họ được gặp gỡ Ðấng Phục sinh xuất hiện. Làm như thế các
ông kêu mời và tạo điều kiện cho người khác tới gặp gỡ Ðấng Phục sinh đang hiện
diện trong cộng đoàn tín hữu, qua lời Thánh Kinh và nghi thức bẻ bánh, mà cộng
đoàn chia sẻ với nhau trong tình huynh đệ. Việc Ðấng Phục sinh tự tỏ mình ra với
những người đã được Thiên Chúa chọn trước làm nhân chứng như thế (Cv 10,41) quả
là một ân huệ do sáng kiến của chính Người từ bên ngoài ban cho họ, chứ không
phải là một hiện tượng tâm lý do những mong chờ chủ quan tưởng tượng ra. Thực
thế, sau ngày thứ Sáu Tuần Thánh, các môn đệ của Ðức Yêsu không còn chờ mong về
ước vọng gì nữa cả (Lc 24,21). Thảm bại của Thập giá trên Núi Sọ đã làm cho họ
hoàn toàn vỡ mộng và thất vọng ê chề. Chính Ðức Yêsu và sự nghiệp của Người
đáng lẽ ra cũng đã bị lịch sử chôn vùi trong quên lãng, hay cùng lắm cũng chỉ được
nhắc lại như một trong muôn vàn sự việc thông thường khác, nếu sau ngày thứ Sáu
Tuần Thánh, Người không được Thiên Chúa cho sống lại vinh hiển.
Quả
thực, đã xảy ra một cái gì rất hệ trọng, làm đảo ngược tình thế, tạo ra một
hoàn cảnh mới cho thân thế và sự nghiệp Ðức Yêsu, gây được niềm tin mới cho các
môn đệ Người. Các bản văn Thánh Kinh ta đọc trong mùa Phục sinh, chính là những
lời tuyên xưng đức tin ấy, những bài công bố Tin Mừng về những hành động ngược
đời và bất ngờ của Thiên Chúa. Người ta không thể coi đó như những biên bản của
cảnh sát lấy khẩu cung cho tòa án, hay những tài liệu thông thường để viết sử.
Nếu là sử liệu, thì đó chính là chất liệu để viết nên lịch sử cứu độ làm nguồn
mạch diễn nghĩa và định hướng cho lịch sử loài người. Lịch sử cứu độ bao hàm
nhiều bí quyết của Thiên Chúa, trong đó biến cố Phục sinh là bí quyết hệ trọng
nhất, mà ta phải đọc với cặp mắt đức tin, để khai triển ra các ý nghĩa bằng những
suy tư thần học. Vậy mầu nhiệm Phục sinh hàm chứa những ý nghĩa nào?
3.
Người Ðã Sống Lại Vì Ta
Trước
tiên, đối với bản thân Ðức Yêsu, Phục sinh có nghĩa là trở lại nếp sống cũ, như
Người đã sống cho đến ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Chính Người, lúc bình sinh, đã
làm cho con gái ông Yairô (Mc 5,35-43), con trai bà góa thành Naim (Lc 7,11-17)
và Lazarô, em trai của hai bà Matta, Maria ở làng Bêthania, sống lại như thế. Họ
đã chết, nhưng đã được Người dùng lời nói toàn năng kêu gọi chỗi dậy và trả lại
cho nếp sống cũ. Sau đó, họ lại chết như mọi người. Cuộc Phục sinh của Ðức Yêsu
khác hẳn. Chính Thần Khi của Chúa Cha và sức mạnh vô biên của tình yêu Chúa Con
đối với Cha mình, khi Người tự nguyện chịu chết để tuân hành thánh ý Chúa Cha
và chuộc tội thế gian, đã làm cho thân xác Người từ cõi chết sống lại và đã tạo
nên một hoàn cảnh mới cho Người. Người đã vượt qua từ thân phận tôi đòi trong
kiếp sống trần thế đến thiên chức Chúa Tê, được siêu thăng để bá chủ muôn loài,
hầu làm rạng rỡ Chúa Cha (Ph 2,7-11). Thân xác Người chính là thân xác loài người
chúng ta được thần linh hóa, được nâng lên, được tái tạo. Phục sinh là một cuộc
tạo dựng mới nơi con người Ðức Yêsu và từ đó lan tràn sang chính chúng ta và cả
thế giới.
Hoàn
cảnh mới có những định luật mới và đòi hỏi những quan hệ mới. Ðức Kitô ngày
Chúa nhật Phục sinh và Ðức Yêsu ngày thứ Sáu Tuần Thánh vẫn là một. Thân xác
còn mang thương tích tuy lành rồi đã giúp các môn đệ nhận ra Người (Yn 20,27).
Nhưng thân xác ấy đã được thần-trí-hóa, không còn bị chi phối bởi các định luật
vật lý thông thường nữa, nhưng từ nay được thấm nhiễm Thần Khí tự do. Từ nay,
phải tiếp xúc với Người một cách khác và mới mẻ. Khi nghe Chúa gọi tên mình,
Maria Mađalêna đã nhận ra Người, và thưa lại: "Rabboni, lạy Thầy!" và
muốn ôm chân Người mà hôn kính (Yn 20,16-17; Mt 28,9). Nhưng Ðấng Phục sinh đã
nói gì với nàng? - "Con đừng giữ Ta lại cho con nữa, vì Ta chưa lên với
Cha Ta; nhưng hãy đi đến với anh em Ta và nói với họ: Này Ta lên với Cha Ta và
cũng là Cha các con..." (Yn 20,17); "... hãy đi loan báo cho các anh
em Ta và bảo họ: hãy đến gặp Ta tại Galilêa" (Mt 28,10). Qua mầu nhiệm Phục
sinh, Người được siêu thăng lên với Chúa Cha, nhưng Người cũng đi đến với các
môn đệ. Thân xác Người đã được thần-trí-hóa, nên có thể hiện diện một cách sâu
xa mật thiết trong lòng mọi người tín hữu và ở giữa mọi nhóm nhân danh Người họp
nhau lại (Mt 18,20). Ngoài ra, Người còn có thể hiện ra một cách phổ cập khắp mọi
nơi, trong mọi thời với Giáo Hội cho đến tận thế (Mt 28,20b). Từ nay ai muốn gặp
Chúa Phục sinh thì phải đến với anh em Người trong Giáo Hội, nhất là khi cộng
đoàn tín hữu cử hành bí tích và phụng vụ Lời Chúa. Và ai đã gặp Chúa nơi đó rồi,
đều có sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục sinh cho anh em như Maria Mađalêna đã
làm. "Tôi đã thấy Chúa" (Yn 20,17-18), tôi đã được cảm nghiệm Người.
Người
đã phục sinh để lên với Chúa Cha, nhưng cũng là để ở gần với ta hơn trong thế
giới này. Vì thế, Giáo Hội tuyên xưng rằng: "Người đã sống lại vì
ta", sau lời tuyên xưng: "Vì ta, Người đã chịu chết; vì ta, Người đã
nhập thể". Thật vậy, khi Con Thiên Chúa mặc lấy xác phàm, thì mọi thực tại
trần gian đã được liên kết mật thiết với Thiên Chúa, để Người lôi kéo tất cả
lên với Người. Ðức Kitô được siêu thăng trong mầu nhiệm Phục sinh, là để siêu
thăng nhân loại lên hàng con cái Thiên Chúa. Chỉ sau khi Phục sinh, Người mới bắt
đầu gọi các môn đệ là anh em mình (Yn 20,17; Mt 28,10) theo một nghĩa sâu đậm
và phong phú, vì từ đó, Người gọi Thiên Chúa là Cha mình và Cha của các môn đệ
cùng một trật. Thánh Phaolô và thánh Yoan gọi Ðức Kitô Phục sinh là Trưởng tử mọi
loài thọ sinh, là Anh Cả của một đoàn em (Rm 8,29; 1C 15,20; Co 1,18; Kh 1,5);
nghĩa là Người sống lại đầu tiên như bông hoa đầu mùa nở giữa vườn nhân loại
đang chờ ngày phục sinh. Người là Thủ lãnh Giáo hội (Ep 1,22-23; Co 1,15-20)
thì cũng trở thành nguyên lý làm cho vạn vật được siêu thăng, đúng như lời đã
nói: "Khi bị kéo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ lôi tất cả lên cùng Ta" (Yn
12,32). Với một trực giác thần học sâu sắc, thánh Yoan cũng như thánh Phaolô đã
hiểu rằng: chết và sống lại là hai mặt của một mầu nhiệm duy nhất: mầu nhiệm Vượt
qua, mầu nhiệm của Con Thiên Chúa tự nguyện đi xuống đáy sâu của hư vô, khốn khổ
và ô nhục, để từ đó vươn lên đỉnh cao của vinh quang và sức sống thần linh (Ph
2,6-11). Bản tính thần linh của Ðức Yêsu được biểu lộ ra trên thập giá (Yn
8,28), khi Người dùng cái chết tự nguyện để minh chứng tình yêu tột độ đối với
Chúa Cha và anh em loài người. Thiên Chúa chính là tình yêu (1Yn 4,8-16), vì thế
tình yêu mang tính chất thần linh mà Ðức Kitô biểu lộ trên thập giá, không thể
tàn lụi và trở thành hư vô, nhưng chứa trong mình mầm mống vinh quang và sức sống
vô tận, là những thực tại đã bừng lên và trào ra trong biến cố Phục sinh. Vì thế,
Phục sinh là trạng thái Khải huyền xán lạn của Thập giá. Thập giá mà ta mang
trong tâm hồn và bóng nó bao trùm khắp vũ trụ, đang lập loè ánh lửa Phục sinh.
Ðức
Kitô đã sống lại vì ta, để ở lại với ta luôn mãi (Mt 28,20). Ðặc biệt tác động
của Người quy hướng về Giáo hội. Những lần xuất hiện giữa các môn đệ, Người muốn
khơi dậy niềm tin nơi các ông. Ðấy là một niềm tin mới mẻ. Từ ngày thứ Sáu Tuần
Thánh, niềm tin của các ông như kẻ đã chết: vì kẻ thì đã phản bội, người thì bỏ
trốn đi, và tất cả đều thất vọng ê chề (Lc 24,17-24). Những lần tiếp xúc đầu
tiên với Ðấng Phục sinh hoặc những khi được nghe nói về việc Người sống lại,
các ông còn hoài nghi, sợ sệt và do dự. Chính Ðấng Phục sinh đã tác động cách
nhiệm mầu trên tâm hồn các ông, để làm cho các ông tin vào Người. Ðó là đức tin
Phục sinh, vì chẳng những lòng tin của các ông được phục hồi và tái tạo, mà còn
vì một lý do hệ trọng khác: từ nay đối tượng và nội dung của đức tin Kitô hữu
chính là mầu nhiệm Phục sinh. Vì Thiên Chúa mà người Cựu Ước tin nhận là Cha của
Ðức Yêsu Kitô, đã làm cho Người sống lại từ cõi chết nhờ năng lực Thánh Thần
(Rm 4,24; 6,4; 8,11; Co 2,12; 1P 1,21). Qua biến cố Phục sinh, Ðức Yêsu thành
Nadarét mà dân chúng cũng như các môn đệ ngưỡng mộ như một vị tiên tri có uy
tín (Lc 24,24) nay lại xuất hiện biểu dương trước mắt trần gian như Con Thiên
Chúa, như Chúa Tể và như Ðấng Thiên Sai Cứu thế mang bản chất thần linh (Rm 1,3-4;
Cv 2,32-36). Người là trung tâm điểm của lịch sử, là tột đỉnh của mạc khải (Hr
1,2), là nguồn phát xuất ơn cứu độ nhân trần. Trong Kinh Tin Kính tông truyền,
mầu nhiệm Phục sinh sẽ là hệ điểm chủ yếu cho các tín điều khác.
Chúa
Kitô Phục sinh đã gây dựng đức tin cho các tông đồ, thì chính Người cũng sẽ tiếp
tục khơi động lên niềm tin mới, niềm tin Phục sinh trong lòng những kẻ nghe các
ông rao giảng về Người, vì đức tin bắt nguồn và chớm nở từ chỗ nghe dân chúng
nói về Ðấng Phục sinh (Rm 10,17). Do đó, mọi người hôm nay được ban cho ơn đức
tin qua trung gian của Giáo hội tông truyền. Ðấng Phục sinh đã sáng tạo ra Giáo
hội, thì cũng chính Người nuôi dưỡng Giáo hội bằng Lời Người và Thánh Thể, là
"bí tích đức tin" tuyệt hảo.
4.
Sống Niềm Tin Phục Sinh Hôm Nay
Ðức
tin và đời sống Kitô hữu bắt nguồn từ biến cố Phục sinh. Biến cố ấy đã làm xuất
hiện một mẫu người mới trong những tương quan mới với Thiên Chúa và anh em đồng
loại. Quả thật, đây là một cuộc tái tạo nơi con người Ðức Yêsu và từ đó lan
tràn sang chúng ta và cả thế giới. Thánh Phaolô viết: "Anh em đã chết, và
đời sống mới của anh em gắn liền với Ðức Kitô và được bao bọc bởi mầu nhiệm
Thiên Chúa (Co 3,3). "Anh em đã được thanh tẩy trong Ðức Kitô, nghĩa là chịu
mai táng với Người qua nghi thức tượng trưng dìm anh em trong cái chết, để từ
đó anh em nhô đầu vươn lên nếp sống mới, tương tự như Ðức Kitô đã được quyền
năng của Chúa Cha làm cho sống lại" (Rm 6,4). Quả thật, chúng ta đã được
Chúa Cha tái sinh trong Nước Rửa tội, được ơn Chúa Thánh Thần thêm sức củng cố,
và được Lời và Mình, Mát Chúa Yêsu nuôi dưỡng. Chúng ta đang hiệp thông với
nhau trong Giáo hội như một dấu chỉ giữa thế giới loài người.
Ðối
với ta, sống niềm tin Phục sinh hôm nay, có nghĩa là để cho Thiên Chúa tiếp tục
làm những điều bất ngờ và mới mẻ. Các môn đệ ngày xưa đâu có ngờ rằng Thiên
Chúa sẽ làm cho Ðức Yêsu sống lại sau ngày thứ Sáu Tuần Thánh.
Có
những lúc ta gặp thất bại và tủi nhục đến muốn chết, có những lúc ta bị dồn vào
bước đường cùng không thể làm gì được nữa� nếu lúc đó, ta ngước
mắt nhìn lên Thập giá Chúa Kitô và nhớ lại rằng: từ cơn thảm hại ấy, Thiên Chúa
đã làm phát sinh ra sự sống mới và niềm hy vọng mới..., thì chính lúc đó ánh
sáng Phục sinh sẽ len lỏi vào cõi lòng trống rỗng và cô quạnh của ta. Ta tưởng
như đã hết rồi, nhưng thực sự, bên kia bờ giới hạn của ta, còn có Thiên Chúa,
còn có tất cả. Người là Ðấng có khả năng hoàn sinh kẻ chết và gọi cái có từ cõi
không (Rm 4,17). Chính lúc đó, tia sáng Phục sinh làm nổi dậy trong lòng ta niềm
hy vọng, khi ta không còn gì để hy vọng nữa (Rm 4,18). Ðó là một hy vọng hoàn
toàn mới mẻ, một niềm tin Phục sinh từ cõi lòng héo khô tuyệt vọng.
Có
những lúc ta bị kềm kẹp trong tội lỗi và thói hư tật xấu, ta đã chết trong tâm
hồn. Nhưng, khi ta quyết tâm đứng dậy, để vươn tới một đời sống thanh cao,
thánh thiện hơn, thì chính lúc đó mầu nhiệm Phục sinh đang tái diễn trong ta.
Tâm tình thống hối ăn năn là một ơn Phục sinh, làm cho ta sống lại trong ân sủng
và thanh luyện tâm hồn ta cho sạch mọi vết nhơ.
Có
những lúc ta bị vu oan, giáng họa, và bị đối xử tàn tệ; ta bị ghét, nhưng không
ghét lại kẻ thù ta. Những lúc ấy, ta đang sống tinh thần Phục sinh, vì ta chứng
minh cho mọi người thấy rằng: tình yêu mạnh hơn hận thù, tình yêu mạnh hơn cái
chết, giống như Chúa Kitô đã yêu thương tột độ đến chịu chết và còn tha cho kẻ
giết mình, nên được Thiên Chúa làm cho sống lại vinh hiển.
Có
những lúc ta đối diện với những kẻ tội lỗi hoặc không cùng chia sẻ một niềm
tin..., ta tưởng như họ hoàn toàn hư hỏng, hoàn toàn xa lạ. Nếu ta nghĩ được rằng:
họ cũng là anh em, họ có thể thay đổi, -thế nào và lúc nào, ta không biết, vì
Thiên Chúa hành động bất ngờ- thì lúc đó, ta đang sống niềm tin Phục sinh,
tuyên xưng rằng Thiên Chúa có khả năng hoàn sinh kẻ đã chết - chết trong thể
xác hay chết trong tâm hồn.
Mầu
nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô cũng đã mạc khải cho ta bản chất sâu xa của con
người, gồm cả cái nhục lẫn cái vinh, cả sự thấp hèn lẫn điều cao trọng. Con người
mang trong mình một hình ảnh thần linh, nhưng lại không có khả năng sống tương
xứng với hình ảnh ấy, ta phải nhìn nhận sự bất lực đó, để khỏi kiêu căng vô lối,
đồng thời ý thức về định hướng cao cả của đời mình để không bao giờ thất vọng.
Biến cố Phục sinh đã chứng tỏ cho ta: yếu tố thần linh có thể thắng và biến cái
bất lực thành sức mạnh vô song.
Bởi
đó, niềm tin Phục sinh đem lại cho ta một cái nhìn lạc quan, một thái độ sống
phấn khởi và hòa đồng, vì Chúa Kitô đã sống lại, đã toàn thắng tội lỗi để ban
hòa giải cho mọi người.
Giảng Lễ
Làm
thế nào để tất cả chúng ta ý thức được tầm mức quan trọng của việc Chúa sống lại,
đó là mục đích của Phụng vụ hôm nay và của mùa Phục sinh này. Không ý thức được
tầm quan trọng đó, chúng ta sẽ không tha thiết với việc kết hợp cùng Ðức Kitô
Phục sinh. Và không kết hợp với Người, chúng ta không có đời sống mới; cuộc đời
của ta sẽ hoàn toàn vô ích về phương diện tôn giáo. Chính thánh Phaolô đã viết:
nếu Ðức Kitô đã không sống lại, đức tin của anh em trở thành hão huyền và chúng
ta thật là những người dại dột nhất. Nói cách khác: vì đạo của chúng ta xây
trên nền tảng niềm tin Chúa sống lại, nên chúng ta phải chắc chắn về niềm tin
này mới hy vọng xây dựng được một đời sống đạo đức vững vàng. Vậy chúng ta hãy
theo Phụng vụ của Giáo hội để thêm ý thức về niềm tin ở việc Chúa Phục sinh.
Trước
hết, Phụng vụ lần lượt trích dẫn các đoạn văn Kinh Thánh nói về việc Chúa sống
lại. Ba bài đọc hôm nay đều nói về việc đó. Bài Phúc Âm trình bày việc Chúa Phục
sinh là một biến cố rõ ràng nhưng quá bất ngờ đối với tất cả mọi người, đặc biệt
đối với những người tin Chúa. Chúa đã khẳng định cách công khai và không úp mở
cho biết Người sẽ bị nộp, bị đánh, bị treo trên Thập giá, và ngày thứ ba sẽ sống
lại. Nhưng Phêrô chỉ để ý đến đoạn đầu. Ông khăng khăng xin Chúa đừng làm như vậy,
đừng để mình bị bắt. Ông không để ý đến câu cuối nói rằng ngày thứ Ba Người sẽ
sống lại. Các tông đồ khác cũng chẳng để ý hơn. Họ có nghe nói, nhưng không
tin. Nói đúng hơn, họ không muốn tin. Nên vừa thấy Chúa bị bắt, họ đã bỏ Chúa,
chối Chúa, muốn trở về làng cũ, chấm dứt lý tưởng theo Chúa. Ít nhất, họ cũng
đã rút lui vào nhà, đóng kín cửa, không dám ló mặt ra. Họ chỉ nhớ Ðức Kitô chịu
chết: người Dothái có thể sắp bắt đến họ. Lời Chúa nói rằng Người sẽ Phục sinh
không còn ở trong đầu óc họ một tí nào nữa. Phúc Âm hôm nay nói rõ: các ông
chưa hiểu rằng Người phải sống lại từ cõi chết.
Kẻ
thù của Chúa cẩn thận hơn. Họ nhớ như vậy nên xin Philatô cho đặt lính gác mồ.
Họ tưởng rằng có thể ngăn chặn không cho Chúa phục sinh. Nhưng Chúa đã làm việc
thật kỳ diệu trước mắt thiên hạ, cả những kẻ tin cũng như không tin Người. Người
làm việc thật ngoạn mục để ai tin thì được thấm thía tình Người yêu thương họ
và để ai không tin phải bàng hoàng khiếp sợ.
Việc
Chúa phục sinh vì thế không phải là chuyện mấy tông đồ bịa đặt ra. Họ không còn
đầu óc để nhớ lại Lời Chúa nói trước, thì làm sao có được trí tưởng tượng xếp đặt
khéo léo câu chuyện sống lại. Cả Phêrô, cả Yoan đã nhận được tin Thầy sống lại.
Họ được Mađalêna báo cho biết xác Thầy không còn ở trong mồ nữa. Hai ông đã ra
đi, người đi chậm, người chạy nhanh. Nhưng cả hai đều đã quan sát rõ ràng và tỉ
mỉ; các khăn liệm còn đó, nhưng Chúa thì ở đâu? Phải đợi khi nhận được nhiều bằng
chứng khác, thêm vào bằng chứng mồ trống, và nhất là, như lời Phêrô nói hôm
nay, khi được Chúa sống lại hiện ra trò chuyện, ăn uống, dạy dỗ thêm cho mình,
và môn đệ mới thật sự tin Chúa sống lại. Như vậy, niềm tin của các tông đồ
không những đã căn cứ vào Lời Chúa báo trước, nhưng nhất là vào các sự kiện và
bằng chứng rõ ràng của nhiều người và của nhiều nhóm người khác nhau. Ðức tin
đó sáng suốt vững vàng đến nỗi có thể nói tất cả đã bằng lòng chịu chết để làm
chứng Chúa đã sống lại.
Chúng
ta không đặt nặng vấn đề này. Tin Chúa từ bé, chúng ta thuộc lòng Kinh Tin Kính
và năm nào cũng mừng lễ Phục sinh; nên chẳng bao giờ đặt vấn đề Chúa sống lại.
Hôm nay có nhắc lại sự kiện lịch sử ấy, chẳng qua là để như lời thánh Phêrô
nói, sẵn sàng có thể trả lời cho người khác về niềm tin của mình. Ðối với chúng
ta, công việc quan trọng hơn là tìm ra liên lạc giữa việc Chúa sống lại và đời
sống đạo đức của ta. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cho ta một ý tưởng có
thể trở thành ánh sáng, giúp ta suy niệm thích hợp. Người viết: sự sống của
chúng ta ẩn giấu với Ðức Kitô ở trong Thiên Chúa.
Ta
biết Ðức Kitô đã sống lại. Người đang sống trong Thiên Chúa. Và Ðức Kitô vừa là
người vừa là Chúa. Nơi Người có cả bản tính Thiên Chúa lẫn bản tính loài người.
Người là Ngôi Hai nhập thể để là người ở giữa chúng ta. Hơn nữa, Người đã mang
lấy tất cả tội lỗi của loài người vào thân mình để đem theo lên cây Thánh giá;
Người chịu đóng đinh thân thể và chết đi như vậy, là để tiêu diệt bản tính tội
lỗi loài người của ta, để khi sống lại, Người đổi mới bản tính ấy để bây giờ nó
được ở nơi vinh hiển phục sinh. Khi thánh Phaolô viết: chúng ta bây giờ được ẩn
giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa, là có ý nói đến điều ấy. Thánh nhân muốn
chúng ta hiểu rằng Ðức Kitô Phục sinh đã mang theo bản tính loài người lên ở với
mình trong Thiên Chúa. Và như vậy, ai kết hợp với thân thể Ðức Kitô, thì cũng
được ở với Người trong Thiên Chúa. Ðó là điểm then chốt, độc đáo của đạo ta.
Kitô giáo không phải là tôn giáo ở đó mỗi người trực tiếp giao thiệp với Thiên
Chúa mà thôi; nhưng còn là đạo để ai nấy có thể kết hợp với Ðức Kitô, hầu ở
trong Ðức Kitô người ta mới gặp được Thiên Chúa, giao thiệp được với Người và
làm đẹp lòng Người. Mà Ðức Kitô làm sao để mọi người mọi thời có thể kết hợp được
với mình, nếu thân thể Người vẫn chỉ là một thân thể sống ở một nơi và trong một
thời? Không ai có thể ở trong người nào, khi hai người đang còn sống trong xác thịt.
Nhưng bây giờ thân xác Ðức Kitô đã phục sinh, đã trở thành thân thể mầu nhiệm,
nên bây giờ ta đã có thể ở trong Người bằng tinh thần, chờ ngày được ở trong
Người bằng cả xác thịt sống lại nữa.
Mầu
nhiệm Phục sinh vì thế là nền tảng của đạo mới. Thân thể Chúa Phục sinh là đền
thờ mới, dựng nên sau ba ngày đền thờ cũ đã bị phá hủy. Chính Ðức Kitô đã tuyên
bố khi Người đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ Yêrusalem. Người khẳng định:
sau ngày Người sống lại, chẳng đền thờ bằng gạch, bằng đá, bằng sắt nào có giá
trị nữa. Ai muốn thờ phượng Thiên Chúa Cha, phải ẩn náu ở trong thân thể phục
sinh của Người, là đền thờ đạo mới. Và như vậy thật phải, vì chúng ta có thể
nào đẹp lòng Thiên Chúa được, nếu không ở trong Con Người phục sinh của Ðức
Kitô? Vì chỉ ở nơi đó mới có ơn tha tội và cứu độ. Ðồng thời, thân xác phục
sinh của Ðức Kitô bảo đảm cho sự sống lại của thân xác chúng ta sau này, nếu
ngay bây giờ ta đã bắt đầu sống kết hợp với Chúa Phục sinh.
Vấn
đề phải đặt ra trước mắt là phải làm thế nào để kết hợp được với Ðức Kitô phục
sinh, để hiện tại đời sống đạo của ta có giá trị trước mặt Chúa và để sau này
thân xác chúng ta cũng được phục sinh? Chỉ có một cách là biết vượt qua như Ðức
Kitô, là tham dự vào mầu nhiệm vượt qua của Người. Mà vượt qua có nghĩa là chế
ngự xác thịt, tội lỗi và thế gian để vươn lên cùng Thiên Chúa. Lễ Phục sinh là
lễ Vượt qua mới. Người dự lễ Phục sinh phải chấm dứt đời sống lầm than, tội lỗi
và bắt đầu cuộc đời mới chân thành và thánh thiện. Chúng ta xem gương các môn đệ:
sau khi tin Thầy đã sống lại, họ đã thay đổi như thế nào, để trở thành những
con người xây dựng một nếp sống mới và một thế giới mới. Dĩ nhiên, họ đã phải
chờ Thần Trí của Chúa Phục sinh nhập vào mình để trở nên những con người mới
như vậy. Chúng ta cũng sẽ nhận được Thánh Thể ban Thần Trí của Ðức Kitô Phục
sinh.
Vậy
hôm nay và từ nay chúng ta hãy đem tinh thần và cảm nghĩ mới vào tất cả đời sống,
để đổi mới đời ta, đổi mới xã hội bằng tinh thần của Ðức Kitô Phục sinh. Như vậy
lễ Phục sinh hằng năm phải như là lễ Phục sinh của các tông đồ ngày trước: hay
tin Chúa sống lại các môn đệ đã nhớ lại Lời Người và gương Người đã sống để dần
dần thay đổi tất cả tâm tư, nếp sống và xã hội của mình. Ước gì hôm nay chúng
ta cũng lãnh nhận được ơn Phục sinh mạnh mẽ như vậy!
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ
Nhật Phục Sinh, Năm ABC
Bài
đọc: Acts 10:34, 37-43; Col 3:1-4; Jn 20:1-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa
Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
Để
hiểu niềm vui của Tin Mừng Phục Sinh, chúng ta cần so sánh hai thái độ của các
tông đồ: nỗi thất vọng của các ông khi phải đối diện với Cuộc Thương Khó và cái
chết của Chúa Giêsu; các ông đã sợ hãi và bỏ trốn hết vì sợ liên lụy: Chúa chết
hết truyện. Nhưng nỗi thất vọng của các ông được bừng lên thành niềm hy vọng của
Ngày Phục Sinh: vì Chúa sống lại, mọi biến cố của quá khứ cùng sống lại, được
nhìn và mang ý nghĩa với Chúa Phục Sinh.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung vào các nhân chứng của Mầu Nhiệm Phục Sinh và Tin Mừng
họ làm chứng và rao giảng. Trong Bài Đọc I, Phêrô, từ một con người chối từ
Chúa 3 lần trong Cuộc Thương Khó của Ngài, giờ can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu
trước mặt mọi người. Điều đã cải biến ông là Tin Mừng Phục Sinh: Nếu Chúa Giêsu
đã chết và đã sống lại, quyền lực thế gian đã không thắng nổi quyền lực Thiên
Chúa, chẳng còn gì để sợ hãi nữa. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Côlossê nhắc nhở
cho các tín hữu biết hậu quả của Mầu Nhiệm Phục Sinh mang lại: Họ mang trong
mình mầm sống của Đức Kitô Phục Sinh; mầm sống này đòi hỏi họ phải luôn biết
tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời, đừng chỉ bằng lòng với những giá
trị của hạ giới là của thế gian này. Họ phải sống làm sao để có ngày được cùng
sống lại với Chúa Kitô phục sinh. Trong Phúc Âm, Bà Maria Magdala ra thăm mộ
Chúa từ sáng sớm khi trời còn tối; Bà không tìm thấy xác Chúa nên vội chạy về
báo cho các môn đệ biết. Phêrô và Gioan, khi biết được, đã vội vã chạy đến mộ.
Các ông thấy và các ông đã tin những gì Chúa tiên báo trước khi Ngài chịu chết.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Tin Mừng về Chúa
Giêsu.
Trình
thuật của Sách Tông Đồ Công Vụ chỉ tập trung trong những biến cố chính của cuộc
đời Chúa Giêsu; một phần có lẽ vì rao giảng cho thế hệ cùng thời với Chúa, một
phần vì bản tính đơn sơ, chất phác của Phêrô.
1.1/
Ông Phêrô làm chứng cho Chúa Giêsu.
(1)
Về cuộc đời của Ngài: Ông Phêrô nhắc lại những gì khán giả biết về Chúa Giêsu:
-
Gioan Tẩy Giả là Tiền Hô của Thiên Chúa: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra
trong toàn cõi Judah, bắt đầu từ miền Galilee, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng.”
Phêrô chỉ nhắc lại cuộc đời công khai rao giảng của Chúa.
-
Phêrô muốn nhắc lại cho khán giả cuộc đời Chúa Giêsu cách tổng quát: lai lịch,
biến cố Rửa Tội tại sông Jordan, các phép lạ chứng tỏ uy quyền của Ngài. “Quý vị
biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền
năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó,
và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.”
(2)
Về cái chết và sự sống lại của Ngài:
-
Phêrô làm chứng cho sự chết của Đức Kitô trên Thập Giá: “Còn chúng tôi đây xin
làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính
Jerusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi.”
-
Phêrô làm chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô: “Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm
cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn
dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là
chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi
chết sống lại.”
1.2/
Bổn phận của các Tông-đồ:
Chúa chọn các ông là cho một sứ vụ; giờ đây đã đến lúc các ông phải thay Ngài để
rao truyền Tin Mừng cho muôn dân. Hai bổn phận chính của các Tông-đồ:
(1)
Phải rao giảng: “Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân.”
(2)
Phải long trọng làm chứng hai điều:
-
Chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
-
Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã loan báo: “Tất cả các ngôn sứ đều
làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà
được ơn tha tội." Lời của tiên tri Isaiah trong các Bài ca về Người Tôi
Trung của Thiên Chúa mà chúng ta nghe trong Tuần Thánh là căn bản của lời chứng
này.
2/
Bài đọc II: Nguyên lý của đời sống
mới: kết hợp với Đức Kitô phục sinh.
2.1/
Thượng giới và hạ giới: “Anh
em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng
giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những
gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới.”
-
Thượng giới là Thiên Đàng nơi Đức Kitô đang sống với Thiên Chúa; hạ giới là trần
gian nơi con người chúng ta đang sinh sống. Chúa Giêsu cũng đã đề cập đến sự
cách biệt này khi tranh luận với người Do-thái: "Các ông bởi hạ giới; còn
tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc
về thế gian này. Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết.
Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình
mà chết."
-
Vấn đề của con người hiện đại là đang quá chú tâm đến hạ giới: nhà cửa sang trọng,
xe cộ mắc tiền, hưởng thụ các thú vui vật chất … Dĩ nhiên, con người cần phải
chú tâm đến các vấn đề ăn, uống, ở … nhưng không đến nỗi gạt bỏ hay không chút
quan tâm đến các giá trị của thượng giới.
2.2/
Sự sống mới của Đức Kitô đang tiềm tàng nơi các tín hữu: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự
sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức
Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và
cùng Người hưởng phúc vinh quang.”
Làm
sao biết có sự sống mới này đang tiềm tàng nơi con người? Thứ nhất, qua tấm áo
trắng của Bí-tích Rửa Tội, người Kitô hữu được “mặc lấy” toàn thể Đức Kitô: cả
sự chết lẫn sự phục sinh của Ngài. Thứ đến, qua Bí-tích Thánh Thể, người Kitô hữu
được tháp nhập vào thân thể của Ngài. Vì có sự sống mới này trong người, các
Kitô hữu phải từ bỏ nếp sống cũ với các tội lỗi của nó, để sống đời sống mới, đời
sống ân sủng và nhân đức như Đức Kitô. Khi con người sống kết hợp với Đức Kitô,
họ có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, mà là
chính Đức Kitô sống trong tôi.”
3/
Phúc Âm: Ngôi mộ trống
3.1/
Sức mạnh của tình yêu:
Tác giả Sách Diễm Ca ca tụng tình yêu: “Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu,
sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp. Ai đem hết gia tài sự nghiệp mà đổi lấy tình
yêu,
ắt sẽ bị người đời khinh dể.”
ắt sẽ bị người đời khinh dể.”
(1)
Chúa Giêsu yêu Mary Magdala: Bà là người được Chúa Giêsu chữa cho khỏi bảy quỉ.
Đối với con người, chẳng có gì là đáng yêu trong người đàn bà này; nhưng đối với
Thiên Chúa, Ngài thương con cái mình bị ma quỉ xiềng xích. Từ lúc được lành bệnh,
Bà luôn theo Chúa Giêsu, và đứng dưới chân Thập Giá khi Ngài hấp hối.
(2)
Bà Mary Magdala yêu Chúa Giêsu: Bà là người đã khóc công khai để lấy nước mắt rửa
chân, lấy tóc lau chân, và lấy dầu đắt tiền xức chân Chúa. Ngay cả cái chết
cũng không dập tắt nổi tình yêu của Bà Mary Magdala dành cho Chúa Giêsu. Một
người có thể nói Bà là người sống tình yêu với Chúa hơn ai hết qua sự kiện Bà
chỉ chờ khi bắt đầu ngày mới (3-6 giờ sáng), là người đầu tiên lên đường ra mộ
tìm Chúa. Tình yêu dành cho Chúa Giêsu làm Bà vượt qua nhiều sự sợ hãi: quân
lính Rôma, người Do-thái, bóng tối, ma quỉ, lạnh lẽo, lười biếng …
Khi
đến nơi và thấy tảng đá lớn đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô
và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi
mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu."
3.2/
Hai ông Phêrô và Gioan ra thăm mộ: Các
môn đệ không dám xuất hiện trước công chúng vì họ sợ sẽ bị truy tố như Thầy
mình. Các ông chắc cũng thất vọng vì Chúa Giêsu không hoàn thành ước mơ của các
ông. Khi được Mary Magdala cho biết tin ngôi mộ trống, ông Phêrô và môn đệ kia
liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô
và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng
không vào.
(1)
Ngôi mộ trống: Ông Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ,
thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với
các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Hai câu hỏi được nêu ra từ
trình thuật này:
-
Tại sao người môn đệ chạy tới trước không vào lại chờ cho Phêrô tới và vào trước?
Phải chăng vì ông sợ? Phải chăng vì ông muốn tôn trọng quyền bính của Phêrô?
Tuy Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng ông luôn là người đứng đầu Nhóm Mười Hai.
Chính Chúa Giêsu đã đặt Phêrô vào địa vị này.
-
Vì các ông không ngờ là Chúa đã sống lại, nên chỉ còn giả thuyết là người ta đã
đánh cắp xác Chúa; nhưng điều làm các ông ngạc nhiên là tại sao lấy xác mà
không lấy khăn niệm, lại còn cuộn lại cẩn thận và xếp gọn lại một nơi!
(2)
Ông đã thấy và ông đã tin: “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng
đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo
Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.” Bản dịch của NPVCGK dịch
không chính xác, phải dịch: “Ông đã thấy và đã tin; dù chưa hiểu theo Kinh
Thánh Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết.” Thánh sử Gioan muốn phân biệt hai
niềm tin:
-
Thấy và tin: Đây là niềm tin thực nghiệm.
-
Theo Kinh Thánh: Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Đây là niềm tin dựa vào
uy thế của Sách Thánh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Biến cố Chúa Giêsu phục sinh chứng tỏ rõ ràng cho chúng ta một điều quan trọng:
chết không hết. Chúa Giêsu đi trước để dọn đường, và Ngài sẽ kéo mọi người
chúng ta lên với Ngài. Vì thế, chúng ta không được sống như không có đời sau.
-
Chúa Giêsu đã gánh chịu mọi đau khổ để đền thay tội lỗi của chúng ta, và Ngài
đã phục sinh vinh hiển để chuẩn bị cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Còn
ai yêu thương và lo lắng cho chúng ta hơn Chúa Giêsu? Hãy dành trọn vẹn tình
yêu cho Ngài.
-
Hãy làm hết sức cho có được tình yêu với Chúa Giêsu như Mary Magdala. Một khi
có được tình yêu như thế, chúng ta sẽ vượt qua mọi trở ngại để trung thành với
Thiên Chúa và làm chứng cho Thiên Chúa bằng cách yêu thương mọi người.
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
05/04/15 CHÚA NHẬT PHỤC
SINH – B
Ga 20,1-9
Ga 20,1-9
Suy niệm: Nhiều
người đã “mục sở thị” ngôi mộ trống, nhưng phản ứng của họ trước dấu chỉ này
rất khác nhau. Ma-ri-a Mác-đa-la ban đầu bối rối, hốt hoảng và nghĩ rằng:“Người ta đã đem Chúa đi khỏi
mộ” (c.
2). Còn các thượng tế và lính canh mồ, do động cơ chính trị và lợi lộc tiền
bạc, nên đã bóp méo sự thật bằng những lời bịa đặt: “Ban đêm, lúc chúng tôi đang ngủ, các môn đệ
của hắn đã đến lấy trộm hắn đi” (Mt
28,13). Duy chỉ Gio-an, người ‘môn đệ Chúa yêu’ nhìn thấy ngôi mộ trống và tin
rằng Chúa đã phục sinh. Với đôi mắt của người yêu Chúa nồng nàn, Gio-an đã thấy
điều mà đôi mắt thể lý không thể thấy được. “Ông đã thấy và đã tin” vì tình yêu đầy tràn trong trái tim người môn
đệ Chúa Giê-su yêu này.
Mời Bạn: Dù
không nhìn thấy ngôi mộ trống như những môn đệ năm xưa, nhưng chúng ta vẫn có
vô vàn cơ hội để khám phá sự hiện diện của Chúa Giê-su Phục Sinh. Thật vậy,
Ngài vẫn đang tỏ mình cho chúng ta qua rất nhiều dấu chỉ khác nhau: công trình
tạo dựng, các biến cố trong cuộc sống thường ngày, các cử hành phụng vụ… Muốn thấy
được sự hiện diện của Ngài, chúng ta cần có đôi mắt tin yêu của một người môn
đệ đích thực để nhận ra những gì vượt lên trên dáng vẻ bề ngoài.
Sống Lời Chúa: Chiêm
ngắm Chúa Ki-tô chịu đóng đinh và xin ơn nhận ra vinh quang phục sinh của Ngài
trên cây thập giá.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh, Chúa đã sống lại thật để đem lại niềm hy
vọng cứu độ cho nhân loại. Xin giúp chúng con luôn nhận ra sự hiện diện yêu
thương của Chúa trong cuộc sống. Amen.
Phục
Sinh
Làm
thế nào để mỗi người chúng ta ý thức được tầm mức quan trọng của việc Chúa sống
lại, đó chính là mục đích của phụng vụ hôm nay và của mùa Phục Sinh.
Thực
vậy, nếu không ý thức được tầm mức quan trọng đó, chúng ta sẽ không tha thiết với
việc kết hợp cùng Đức Kitô phục sinh. Và nếu không kết hiệp với Ngài thì chúng
ta cũng chẳng có đời sống mới. Cuộc đời của chúng ta sẽ hoàn toàn vô ích về
phương diện tôn giáo, chính thánh Phaolô đã viết: Nếu Đức Kitô không sống lại,
thì đức tin của anh em trở thành hão huyền và chúng ta quả là những kẻ dại dột
nhất. Nói cách khác, vì đạo của chúng ta xây dựng trên nền tảng niềm tin Chúa sống
lại, nên chúng ta phải xác tín, phải chắc chắn về niềm tin ấy, thì mới hy vọng
xây dựng được một đời sống đạo đức vững vàng. Vậy chúng ta hãy theo phụng vụ của
Giáo Hội để thêm ý thức về niềm tin ấy.
Trước
hết phụng vụ lần lượt trích dẫn các đoạn văn Kinh Thánh nói về việc Chúa sống lại.
Qua đó chúng ta thấy việc Chúa sống lại là một biến cố rõ ràng, nhưng quá bất
ngờ đối với tất cả mọi người, đặc biệt đối với những người tin Chúa. Mặc dù
Ngài đã khẳng định một cách công khai và không úp mở rằng Ngài sẽ bị nộp, bị
đánh, bị treo trên thập giá và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Thế nhưng Phêrô chỉ
để ý đến đoạn đầu mà thôi. Ông khăng khăng xin Chúa đừng làm như vậy, đừng để
mình bị bắt. Ông không để ý đến câu cuối cùng nói rằng: Ngày thứ ba Ngài sẽ sống
lại.
Các
tông đồ khác cũng chẳng để ý hơn. Họ có nghe nói nhưng không tin. Nói đúng hơn
là họ không muốn tin. Nên vừa thấy Chúa bị bắt, là họ đã bỏ Chúa, chối Chúa, muốn
trở về làng cũ và chấm dứt lý tưởng theo Chúa. Hay họ đã rút lui vào nhà, đóng
kín cửa, không dám ló mặt ra. Họ chỉ nhớ Đức Kitô chịu chết. Người Do Thái có
thể sắp đến bắt họ.
Kẻ
thù của Chúa thì cẩn thận hơn. Họ đã nghe Chúa nói đến việc Ngài sẽ sống lại. Họ
nhớ vậy nên xin Philatô cho đặt lính gác mồ. Họ tưởng rằng có thể ngăn chặn
không cho Chúa phục sinh.
Nhưng
Chúa đã làm một việc kỳ diệu trước mắt thiên hạ, cả những kẻ tin cũng như không
tin. Ngài làm một việc thật ngoạn mục, để ai tin thì được thấm thía tình Ngài
yêu thương họ, còn ai không tin thì phải bàng hoàng khiếp sợ.
Việc
Chúa phục sinh vì thế không phải là chuyện do mấy tông đồ bịa đặt ra. Họ không
còn đầu óc nào, để nhớ lại lời Chúa nói trước, thì làm sao có được trí tưởng tượng
xếp đặt khéo léo cho câu chuyện. Cả Phêrô lẫn Gioan đều nhận được tin Thầy sống
lại và được Madalêna cho hay xác Thầy không còn ở trong mồ nữa. Hai ông đã ra
đi, người đi chậm kẻ chạy nhanh. Nhưng cả hai đều đã quan sát rõ ràng và tỉ mỉ:
Các khăn liệm còn đó nhưng Chúa Giêsu thì ở đâu? Phải đợi đến khi nhận được nhiều
bằng chứng khác thêm vào bằng chứng mồ rỗng và nhất là khi được Chúa hiện ra
trò chuyện, ăn uống và dạy dỗ thêm, thì các ông mới thật sự tin rằng Chúa đã sống
lại.
Như
vậy, niềm tin của các tông đồ không những đã căn cứ vào lời Chúa báo trước, mà
còn vào các sự kiện, các bằng chứng rõ ràng của nhiều người khác nhau. Đức tin ấy
sáng suốt và vững vàng đến nỗi tất cả đã bằng lòng chịu chết để làm chứng cho
việc Chúa đã sống lại. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã sống như thế nào và đã
làm được những gì, để niềm tin Chúa sống lại nơi chúng ta được chiếu toả cho những
người chung quanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét