06/04/2015
Thứ Hai Trong Tuần Bát
Nhật Lễ Phục Sinh
Bài
Ðọc I: Cv 2, 14. 22-32
"Thiên
Chúa đã cho Ðức Kitô phục sinh, và tất cả chúng tôi làm chứng về Người".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng:
"Hỡi các người Do-thái và tất cả những ai ở Giêrusalem, xin hãy biết điều
này và lắng nghe lời tôi! Hỡi những người Israel, xin hãy nghe những lời này:
"Ðức
Giêsu Nadarét là người đã được Thiên Chúa chứng nhận giữa anh em bằng những việc
vĩ đại, những điều kỳ diệu và những phép lạ, mà Thiên Chúa đã dùng Người để thực
hiện giữa anh em, như chính anh em đã biết. Theo như Thiên Chúa đã định và biết
trước, Người đã bị nộp, và anh em đã dùng tay kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi.
Nhưng Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ của cõi chết mà cho Người
phục sinh, vì không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong đó. Vì chưng, Ðavít
đã nói về Người rằng:
'Tôi
hằng chiêm ngưỡng Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu tôi, để tôi không nao
núng. Vì thế, lòng tôi hân hoan, miệng lưỡi tôi hát mừng, và xác tôi yên nghỉ
trong niềm cậy trông; vì Chúa không để linh hồn tôi trong cõi chết, và không để
Ðấng Thánh của Chúa thấy sự hư nát. Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống và
cho tôi tràn đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh Chúa'.
"Hỡi
anh em, xin cho phép tôi được bạo dạn nói với anh em về tổ phụ Ðavít rằng: ngài
đã băng hà, đã được an táng và lăng tẩm của ngài còn nằm giữa chúng ta cho đến
ngày nay. Nhưng vì ngài là tiên tri, và biết Thiên Chúa đã thề hứa với ngài sẽ
cho một người trong dòng dõi ngài ngồi trên ngai vàng của ngài, nên thấy trước,
ngài đã nói về việc Chúa Kitô phục sinh, vì Người không phải bị bỏ rơi trong
cõi chết, và xác Người không bị huỷ diệt. Ðức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống
lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11
Ðáp: Xin bảo toàn
con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa; con thưa cùng Chúa:
"Ngài là chúa tể con. Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính
Ngài nắm giữ vận mạng của con". - Ðáp.
2)
Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ,
cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên
hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.
3)
Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ: ngay cả đến xác thịt của con
cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng
không để thánh nhân của Ngài thấy sự hư nát. - Ðáp.
4)
Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên
nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Alleluia:
Tv 117, 24
Alleluia,
alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về
ngày đó. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 28, 8-15
"Hãy
đi nói với anh em đến Galilêa mà gặp Ta ở đó".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các
môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các
bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo:
"Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi
ở đó họ sẽ gặp Ta".
Ðang
khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng
tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và
sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: "Các anh hãy
nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông.
Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các
anh phải phiền hà đâu". Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn
chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Hãy Về Báo Tin Cho Các Anh Em Ta
Cách
đây hai thế kỷ, giả sử như có một lon bia hay có một lon thực phẩm tươi, chắc
chắn người ta vẫn không dám yên tâm thưởng thức những món ăn uống tiện dụng
này. Ngày nay, chúng ta yên tâm thưởng thức là nhờ công trình nghiên cứu của
ông Louis Paster, nhà ký sinh trùng học người Pháp sống vào thế kỷ XIX. Ông đã
nghiên cứu các vi sinh để rồi dùng chúng hoặc tiêu diệt chúng. Dùng vi sinh
trong việc tiêm các thuốc chủng ngừa, chữa bệnh chó dại, hoặc tiêu diệt chúng
trong các quá trình lên men trong đồ ăn, thức uống. Ðây là những đóng góp lớn
lao cho toàn thể gia đình nhân loại.
Tuy
nhiên, ông còn có các đóng góp khác ít được ai nhắc đến, đó là những đóng góp
cho niềm tin. Trong lúc các bạn đồng nghiệp nhìn vào kính hiển vi chỉ thấy có một
số tế bào liên kết với nhau, chẳng có gì hơn nữa, thì trái lại, khi nhìn vào
chiếc kính hiển vi, Louis Paster lại reo lên: "Thật kỳ diệu! Còn một điều
gì ẩn nấp ở đàng sau nữa: đó là Thượng Ðế".
Anh
chị em thân mến!
Qua
những khám phá nhà bác học thời danh Louis Paster đóng góp cho nhân loại, chúng
ta có thể rút ra được nhiều điều, đặc biệt là cách nhìn các diễn biến và thái độ
phải có trước các diễn biến ấy. Cùng một sự kiện, nhưng mỗi nhà bác học lại có
một cái nhìn khác nhau. Cùng một tìm tòi khám phá, những mỗi người lại đạt được
kết quả riêng biệt.
Bài
Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến hai thái độ khác nhau trước biến cố Chúa Kitô
Phục Sinh. Một bên là các phụ nữ và một bên là nhóm lính canh. Ðối diện với họ
đều là ngôi một trống. Với nhóm phụ nữ, ngôi một trống là dấu chỉ Tin Mừng Phục
Sinh và là khởi điểm cho niềm hy vọng. Tuy lo âu, nhưng họ vội vã đi báo tin
vui cho các môn đệ. Nhóm lính canh, họ cũng được nhìn thấy ngôi mộ trống và điều
đó không lạ gì đối với họ. Vì thế, ngôi mộ trống không là khởi điểm và tin tưởng
của niềm tin, mà còn khiến cho họ càng rời xa niềm tin, càng muốn khỏa lấp niềm
tin. Lời đồn đãi ấy vẫn còn vang dội đối với người Do Thái cho đến ngày nay.
Với
sự kiện Chúa sống lại, lời nói của nhóm lính canh là những chứng từ có thể đáng
tin cậy, vì họ là những người canh giữ mồ đêm hôm ấy. Nếu không vì sợ hãi quyền
lực của hội đường Do Thái hoặc không vì chút lợi lộc, tiền của thì chắc chắn họ
sẽ là sứ giả loan Tin Mừng Phục Sinh.
Trước
Tin Mừng Phục Sinh ai cũng vội vã: các bà thì loan tin cho các môn đệ, còn nhóm
lính canh thì vội vã báo tin cho hội đường Do Thái. Ai cũng vội vã, nhưng tùy
thái độ mỗi bên mà Tin Mừng Phục Sinh được công bố hay bị dập tắt. Người Kitô hữu
cũng là những người được đối diện với Tin Mừng Phục Sinh. Họ được trao cho nhiệm
vụ loan báo lại cho người khác biết tin vui này. Chắc chắn lời nói của họ là những
chứng từ giá trị, vì họ đã được đón nhận sức sống Phục Sinh của Ðức Kitô.
Tuy
nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước những áp lực trần thế, hoặc
vì sức quyến rũ của chức tước, lợi lộc... họ đành tâm phản bội Tin Mừng. Vì thế
cho đến hôm nay, họ còn hiểu biết lệch lạc về Chúa Kitô, về Giáo Hội.
Nguyện
xin Chúa Kitô Phục Sinh, Ðấng đã chiến thắng quyền lực của tội lỗi, ban cho mỗi
người chúng ta lòng tin yêu và can đảm. Tin yêu để chúng ta nhận biết được sự
hiện diện của Ngài qua các biến cố cuộc sống, dù cho có vẻ trống vắng, u buồn
như ngôi mồ trống của Ðức Kitô. Và khi nhận ra được Ngài, chúng ta sẽ can đảm
loan truyền Ðức Kitô cho tất cả mọi người, bất chấp mọi gian lao thử thách.
Lạy
Chúa, xin cho chúng con được bắt chước các tông đồ cũng như các phụ nữ nhiệt
thành tìm kiếm Chúa trong yêu mến và hăm hở ra đi rao truyền tin vui Phục Sinh của
Chúa Kitô. Amen.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần I BNPS
Bài đọc: Acts 2:14, 22-32; Mt
28:8-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy rao giảng Tin Mừng
“Chúa đã sống lại” khắp thế gian.
Để
tin một điều là sự thật, chúng ta có nhiều cách: hoặc chính chúng ta chứng kiến,
hoặc qua các chứng nhân, hoặc qua hậu quả mà nó để lại. Không ai nhìn thấy Chúa
sống lại từ mộ đi ra, nhưng các chứng nhân nhìn thấy Chúa sau khi Ngài sống lại.
Chúng ta nhờ những chứng nhân này, hậu quả của sự kiện Chúa sống lại trên con
người họ, và những lời Kinh Thánh để tin “Chúa đã sống lại thật.”
Các
Bài Đọc hôm nay xoay quanh biến cố Chúa Giêsu sống lại. Trong Bài Đọc I, thánh
Phêrô và các Tông đồ làm chứng Chúa sống lại qua những dữ kiện thực tế và lời
tiên tri của Vua David trong Thánh Vịnh 16. Trong Phúc Âm, sứ thần của Chúa làm
chứng Chúa Giêsu sống lại, và chính Chúa Giêsu xuất hiện với các phụ nữ và truyền
họ mang tin Ngài sống lại cho các Tông đồ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Thiên Chúa đã phác họa Kế hoạch Cứu Độ qua cái chết và sự sống lại của Đức
Kitô.
1.1/
Đức Kitô là Đấng Thiên Sai: Vấn đề cốt yếu mà Phêrô phải minh chứng cho người Do-thái là Đấng
Thiên Sai phải ngang qua con đường đau khổ, cái chết, và sống lại vinh quang;
vì người Do-thái mong muốn một Đấng Thiên Sai uy quyền, họ không thể chấp nhận
một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ. Phêrô chứng minh điều này đầu tiên bằng những
sự kiện thực tế đã xảy ra, sau đó ông chứng minh bằng lời Kinh Thánh.
Về
những sự kiện thực tế, ông nhắc lại những gì Đức Kitô đã làm giữa họ: “Đức
Giêsu Nazareth, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực
sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu
lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó.”
Thiên
Chúa đã tiền định cái chết và sống lại của Đức Kitô: “Theo kế hoạch Thiên Chúa
đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ
đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống
lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài
nào khống chế được Người mãi.”
1.2/
Vua David đã nói tiên tri về sự chết và sự sống lại của Đức Kitô: Việc Chúa
Giêsu sống lại làm trọn lời tiên báo của Vua David.
(1)
Thánh Vịnh 16:8-11: Tác giả TĐCV trích dẫn lời TV 16 như sau: “Tôi luôn nhìn thấy
Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm
hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong
niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty,
cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về
cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan.”
Câu
quan trọng là câu 10 của TV 16, các học giả tranh luận: Lời này áp dụng cho Vua
David hay Đức Kitô? Giải thóat cho khỏi cái chết bất tử và phục hồi sự liên hệ
thần linh hay giải thóat cho khỏi sự hư nát sau khi chết? Vì chữ “hư nát, shahat”
có thể dịch là sự hủy họai như bản LXX hay dịch đơn giản
là vực thẳm.
(2)
Phêrô cắt nghĩa lời Thánh Vịnh: Vua David là nhân vật có thật: “Thưa anh em,
xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ David rằng: người đã chết và được
mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay.” Đức Kitô là
giòng dõi Vua David: “Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với
người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người.” Đức Kitô
hòan thành lời tiên tri của Vua David khi Ngài sống lại từ cõi chết sống lại: “Người
đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát.”
“Chính
Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin
làm chứng.”
2/
Phúc Âm:
Chúa đã thực sự sống lại.
2.1/
Chúa Giêsu truyền các bà loan Tin Mừng cho các Tông-đồ.
(1)
Sứ thần loan báo Tin Mừng Phục Sinh: Những bà đồng hành với Chúa trong Cuộc
Thương Khó của Ngài ra mộ từ sáng sớm để niệm xác Chúa. Vừa tới nơi, họ thấy một
sự thể ngòai sức tưởng tượng: Tảng đá mà các thượng tế đã niêm phong đã được mở
ra dưới con mắt ngạc nhiên và run rẩy của các lính canh gác, một sứ thần của
Thiên Chúa trắng như tuyết đang ngồi trên tảng đá và nói với các bà: “Đừng sợ!
Tôi biết các bà đang tìm gì, Chúa Giêsu đã bị đóng đinh. Ngài không còn ở đây;
vì Ngài đã sống lại như lời Ngài đã nói. Hãy đến và nhìn nơi Ngài đã nằm. Hãy
đi ngay và nói cho các môn đệ biết: Ngài đã sống lại từ cõi chết. Và Ngài đi
trước các ông tới Galilee; tại đó họ sẽ gặp Ngài” (Mt 28:1-7). Các bà vội vã rời
khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức
Giêsu hay.
(2)
Chúa Giêsu hiện ra với các bà: Trên đường đi, bỗng Chúa Giêsu đón gặp các bà và
nói: "Chào chị em!" Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy
Người. Bấy giờ, Đức Giêsu nói với các bà: "Chị em đừng sợ! Về báo cho anh
em của Thầy để họ đến Galilee. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó."
Thương
yêu Chúa không phải giữ Chúa ở với mình, nhưng phải loan Tin Mừng của Chúa để mọi
người cùng tin vào Chúa. Chúng ta sẽ thấy điều quan trọng này được nhắc đi nhắc
lại trong những ngày tới. Mọi người cần được nghe Tin Mừng Phục Sinh: cuộc sống
không chỉ chấm dứt với cái chết ở đời này, nhưng mở rộng đến cuộc sống muôn đời
mai sau với Thiên Chúa.
2.2/
Kế hoạch bưng bít sự thật:
(1)
Trước khi Chúa sống lại: Người Do-thái đến gặp quan Philatô và yêu cầu ông sai
lính canh giữ mộ Chúa Giêsu cẩn thận, vì khi còn sống Chúa đã tuyên bố Ngài sẽ
sống lại sau ba ngày. Họ sợ các môn đệ của Chúa sẽ đến đánh cắp xác rồi phao
tin là Chúa đã sống lại; lúc đó họ sợ sự sai trá sẽ nguy hại hơn trước. Philatô
nói với họ: “Các ông có lính của Đền Thờ, hãy sai họ đi và canh chừng cẩn mật
như các ông có thể làm.” Họ đi và niêm phong tảng đá vào cửa, và đặt lính canh
giữ mộ (x/c Mt 27:62-66).
(2)
Sau khi Chúa sống lại: Trong khi các bà đi báo cho các môn đệ biết tin mừng
Chúa sống lại; có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng
tế biết mọi việc đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn
bạc, họ cho lính một số tiền lớn, và bảo quân lính: "Các anh hãy nói như
thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm
xác. Nếu sự việc này đến tai quan Tổng Trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với
quan và lo cho các anh được vô sự." Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy.
Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay.
Khi
con người đã làm điều sai trái, họ sẽ tiếp tục làm điều sai trái, sự sai trái
này sẽ kéo theo sự sai trái khác. Người Do-thái tìm lý do gian trá “Chúa phạm
thượng” để bắt Chúa, rồi lại tìm một cớ gian khác “Ông này xưng mình là Vua” để
xin Philatô buộc Chúa chống lại Caesar, giờ lại dùng tiền để bịt miệng lính
canh giữ mồ Chúa. Không phải họ không biết sự thật, nhưng họ cố tình ở trong sự
gian trá, vì ghen ghét và vì những lợi lộc họ đang được hưởng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
“Chúa đã thực sự sống lại.” Chúng ta phải tin điều này và loan báo cho mọi người
biết Tin Mừng Phục Sinh; đồng thời phải sống và làm chứng cho mọi người biết:
có cuộc sống đời sau.
-
Như mưu mô của các thượng tế trong trình thuật hôm nay, ma quỉ và thế gian vẫn
đang tìm các để bưng bít sự thật này bằng tiền của và hưởng thụ vật chất.
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
PHỤ CHÚ :
Tìm hiểu Ga 20,1-2: “Lúc sáng sớm, khi trời còn tối”, Ma-ri-a
Mác-đa-la ra mộ để làm gì?
Bản
văn Ga 20,1-2 (dịch sát theo bản Hy Lạp)
1 Vào ngày thứ nhất trong tuần, Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ lúc sáng sớm, khi trời còn tối, bà thấy tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ. 2 Bà liền chạy đến với Si-môn Phê-rô và người môn đệ khác – người Đức Giê-su thương mến –, bà nói với các ông: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.”
Nội dung
Dẫn nhập 1) Tại sao có chi tiết “trời còn tối”? 2) Tại sao không cho biết lý do ra mộ để làm gì? 3) Tại sao Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ một mình? 4) Tại sao thấy một đàng kể lại một nẻo? Kết luận
Dẫn nhập
Tam nhật vượt qua tưởng niệm biến cố Thương khó – Phục Sinh của Đức Giê-su. Sau khi được mai táng, Người rời khỏi sân khấu lịch sử, không ai thấy Người nữa. Ít lâu sau, các môn đệ xuất hiện loan báo Người đã Phục Sinh, Người là Chúa và ai tin vào Người thì được cứu. Đó là tin vui lớn lao cho nhân loại. Nhưng giữa hai biến cố lịch sử: “Đức Giê-su đã chết” và “các môn đệ khẳng định Người đã Phục Sinh”, điều gì đã xảy ra?
Các Tin Mừng thuật lại biến cố Phục Sinh xoay quanh ngôi mộ và những cuộc hiện ra của Người. Trình thuật Tin Mừng Gio-an kể lại những gì xảy ra vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần với những chi tiết lạ lùng. Xin chia sẻ đôi nét về nhân vật Ma-ri-a Mác-đa-la trong trình thuật Ga 20,1-2.
“Lúc sáng sớm, khi trời còn tối”, Ma-ri-a Mác-đa-la ra mộ để làm gì? Câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại không dễ trả lời, vì bản văn Ga 20,1-2 ngắn ngọn để lại đằng sau nhiều thắc mắc. Bản văn không cho biết Ma-ri-a Mác-đa-la ra mộ “để viếng xác” hay “để ướp xác” Đức Giê-su. Vậy, Ma-ri-a Mác-đa-la ra mộ để làm gì? Tại sao lại đi một mình? Tại sau không vào mộ? Và còn nhiều “tại sao” khác nữa. Đọc song song bốn Tin Mừng sẽ thấy cách trình bày độc đáo, ngắn ngọn và lạ thường của Tin Mừng Gio-an.
Mc 16,1-4 1 Ngày sa-bát vừa hết, Ma-ri-a Mác-đa-la, Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và Sa-lô-mê mua dầu thơm (arôma) để đến ướp xác (aleiphô) Người [Đức Giê-su]. 2 Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, các bà ra mộ lúc mặt trời mọc. 3 Các bà nói với nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ cho chúng ta đây?” 4 Và ngước mắt lên, các bà thấy tảng đá đã lăn ra, vì tảng đá ấy rất lớn.
Mt 28,1-2 1 Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng (theôrêsai) mộ (ton taphon). 2 Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên sứ của Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên…
Lc 24,1-2 1 Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm (arôma) đã chuẩn bị sẵn. 2 Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ.
Ga 20,1-2 1 Vào ngày thứ nhất trong tuần, Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ lúc sáng sớm, khi trời còn tối, bà thấy tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ. 2 Bà liền chạy đến với Si-môn Phê-rô và người môn đệ khác – người Đức Giê-su thương mến –, bà nói với các ông: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.”
Theo Tin Mừng Mác-cô, có ba bà đi ra mộ và có mục đích rõ ràng, họ đã “mua dầu thơm (arôma) để đến ướp xác (aleiphô) Đức Giê-su” (Mc 16,1). Theo Tin Mừng Mát-thêu, có hai bà ra mộ ra mộ và cũng có mục đích rõ ràng: “để viếng (theôrêsai) mộ (ton taphon)” (Mt 28,1). Động từ “theoreô” ở lối vô định, dịch sát: “để quan sát”, “để xem” mộ Đức Giê-su. Theo Tin Mừng Lu-ca, bản văn cho biết là “các bà” nhưng không cho biết tên của họ. Lc 23,55 nói đây là “những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê”. Các bà ra mộ “mang theo dầu thơm (arôma) đã chuẩn bị sẵn” (Lc 24,1), hiểu ngầm là để ướp xác Đức Giê-su. Nhưng Tin Mừng Lu-ca không nói ra điều này để đề cao việc “mang theo dầu thơm (arôma) đã chuẩn bị sẵn”. Dầu thơm này đã được các bà chuẩn bị ngay sau khi táng xác Đức Giê-su. Lc 23,56 kể: “Các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền”. Các Tin Mừng Mác-cô, Mát-thêu và Gio-an không có chi tiết chuẩn bị dầu thơm này.
So với các Tin Mừng khác, Tin Mừng Gio-an chỉ nói ngắn ngọn: “Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ (mêmeion)”. Có ba chi tiết mới so với các Tin Mừng Nhất Lãm: 1) Chi tiết về thời gian được làm rõ và nhấn mạnh: “Lúc sáng sớm, khi trời còn tối”. Cụm từ “khi trời còn tối” chỉ có trong Tin Mừng Gio-an. 2) Chỉ một mình Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ. 3) Không cho biết ra mộ để làm gì.
Ngoài ra còn một số chi tiết riêng của Tin Mừng Gio-an. Đó là sau khi thấy tảng đá đã lăn ra Ma-ri-a Mác-đa-la không vào mộ mà lại chạy đi nói với với Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.” Điều lạ là Ma-ri-a Mác-đa-la đã không nói “điều chị thấy” mà nói “điều chị nghĩ” (điều chị ấy giả thiết là thế). Tại sao ra mộ một mình (số ít) mà khi kể cho hai một đệ lại xưng là “chúng tôi” (số nhiều)?
Cách kể chuyện lạ lùng trong Ga 20,1-2 đặt ra cho độc giả nhiều câu hỏi, xin gợi ý giải đáp bốn câu hỏi sau: 1) Tại sao có chi tiết “trời còn tối”? 2) Tại sao không cho biết ra mộ để làm gì? 3) Tại sao Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ một mình? 4) Tại sao “thấy” một đàng “thuật lại” một nẻo?
1) Tại sao có chi tiết “trời còn tối”?
Bản văn nói rõ lúc Ma-ri-a Mác-đa-la đi ra mộ là “sáng sớm, khi trời còn tối”. Đã “sáng” nhưng vẫn còn “tối”. Chi tiết này cho biết là vào thời điểm rất sớm. Hình như Ma-ri-a thao thức, chờ trời sáng để đi ra mộ sớm bao nhiêu có thể được.
Đồng thời, bối cảnh trình thuật cho phép hiểu “trời còn tối” theo nghĩa biểu tượng. “Thời còn tối” gợi đến “bóng tối trong lòng” chị. Bóng đêm của sự chết vẫn còn đè nặng tâm hồn Ma-ri-a Mác-đa-la, lòng trí của chị vẫn còn ở trong bóng tối của biến cố Thương Khó. Đó là lý do khiến Ma-ri-a không nhận Đức Giê-su Phục Sinh trong trình thuật tiếp theo (Ga 20,11-18). Chị đã khóc và chỉ mong tìm lại xác Đức Giê-su vì nghĩ người ta lấy mất xác Chúa (Ga 20,11). Ở Ga 20,1, chi tiết “tối trời”, “tối lòng” cho thấy Ma-ri-a hoàn toàn ở về phía con người, biến cố Đức Giê-su chết đang ám ảnh lòng trí của chị. Thực ra, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối và lòng lòng Ma-ri-a cũng tối.
Tóm lại, chi tiết “trời còn tối” gợi lên hai điều độc đáo: 1) Lòng gắn bó của Ma-ri-a với Đức Giê-su, chị đi ra mộ rất sớm. Tất cả những gì chị làm đã bộc lộ lòng mến của chị dành cho Thầy. 2) Gợi ý đến bóng tối về cái chết của Thầy trong lòng chị, chị không nghĩ gì khác ngoài cái chết của Thầy.
2)
Tại sao không cho biết lý do ra mộ để làm gì?
Bản văn không cho biết Ma-ri-a ra mộ để làm gì. Ma-ri-a Mác-đa-la của Tin Mừng Gio-an không mang dầu thơm ra mộ để ướp xác Đức Giê-su như trong Tin Mừng Mác-cô hay Lu-ca. Theo thần học Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su đã được án táng đúng theo tục lệ chôn cất của người Do Thái: Thi hài Đức Giê-su đã được “quấn bằng băng vải tẩm thuốc thơm” (19,39) với một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương mà Ni-cô-đê-mô mang tới (19,40). Như thế, không cần “mang dầu thơm ra ướp xác Đức Giê-su” nữa vì đã làm ở Ga 19,39-40 rồi.
Bản văn cũng không nói Ma-ri-a “đi viếng mộ” như trong Tin Mừng Mát-thêu. Sự kiện Tin Mừng Gio-an thuật lại việc Ma-ri-a đến mộ mà không nói rõ lý do, giúp người đọc nhận ra một lý do sâu xa hơn. Mạch văn cho phép hiểu, Ma-ri-a ra mộ chỉ đơn giản là vì lòng mến, lòng gắn bó với Thầy, ước mong gặp lại Thầy, được ở bên cạnh Thầy, dù Thầy đã chết.
Bản văn không cho biết Ma-ri-a ra mộ để làm gì. Ma-ri-a Mác-đa-la của Tin Mừng Gio-an không mang dầu thơm ra mộ để ướp xác Đức Giê-su như trong Tin Mừng Mác-cô hay Lu-ca. Theo thần học Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su đã được án táng đúng theo tục lệ chôn cất của người Do Thái: Thi hài Đức Giê-su đã được “quấn bằng băng vải tẩm thuốc thơm” (19,39) với một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương mà Ni-cô-đê-mô mang tới (19,40). Như thế, không cần “mang dầu thơm ra ướp xác Đức Giê-su” nữa vì đã làm ở Ga 19,39-40 rồi.
Bản văn cũng không nói Ma-ri-a “đi viếng mộ” như trong Tin Mừng Mát-thêu. Sự kiện Tin Mừng Gio-an thuật lại việc Ma-ri-a đến mộ mà không nói rõ lý do, giúp người đọc nhận ra một lý do sâu xa hơn. Mạch văn cho phép hiểu, Ma-ri-a ra mộ chỉ đơn giản là vì lòng mến, lòng gắn bó với Thầy, ước mong gặp lại Thầy, được ở bên cạnh Thầy, dù Thầy đã chết.
3)
Tại sao Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ một mình?
Khác với trình thuật Nhất Lãm, theo Tin Mừng Gio-an chỉ có một mình Ma-ri-a Mác-đa-la đến mộ. Điều này ăn khớp với những điểm thần học mà Tin Mừng Gio-an muốn trình bày. Việc Ma-ri-a Mác-đa-la đến mộ một mình chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ và trao đổi riêng giữa Đức Giê-su Phục Sinh và Ma-ri-a Mác-đa-la trong đoạn văn tiếp theo (Ga 20,11-18). Đây là một đoạn văn quan trọng mô tả cách thức và điều kiện để con người có thể nhận ra Đấng Phục Sinh và cách thức Đấng Phục Sinh bày tỏ Người ra cho con người.
Như thế nhân vật Ma-ri-a Mác-đa-la trở thành nhân vật biểu tượng. Hành trình Ma-ri-a nhận ra Đấng Phục Sinh cũng là hành trình của độc giả qua mọi thời đại. Hai câu mở đầu Tin Mừng Phục Sinh theo Tin Mừng Gio-an (Ga 20,1-2) mời gọi độc giả cùng sống với tâm trạng của Ma-ri-a Mác-đa-la, mời gọi độc giả gắn bó với Đức Giê-su, bày tỏ lòng mến đối với Người cho dù lòng mình vẫn tối tăm mù mịt. “Lòng mến dành cho Thầy” là bước khởi đầu nền tảng để nhận ra Người mình yêu mến đã Phục Sinh.
Khác với trình thuật Nhất Lãm, theo Tin Mừng Gio-an chỉ có một mình Ma-ri-a Mác-đa-la đến mộ. Điều này ăn khớp với những điểm thần học mà Tin Mừng Gio-an muốn trình bày. Việc Ma-ri-a Mác-đa-la đến mộ một mình chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ và trao đổi riêng giữa Đức Giê-su Phục Sinh và Ma-ri-a Mác-đa-la trong đoạn văn tiếp theo (Ga 20,11-18). Đây là một đoạn văn quan trọng mô tả cách thức và điều kiện để con người có thể nhận ra Đấng Phục Sinh và cách thức Đấng Phục Sinh bày tỏ Người ra cho con người.
Như thế nhân vật Ma-ri-a Mác-đa-la trở thành nhân vật biểu tượng. Hành trình Ma-ri-a nhận ra Đấng Phục Sinh cũng là hành trình của độc giả qua mọi thời đại. Hai câu mở đầu Tin Mừng Phục Sinh theo Tin Mừng Gio-an (Ga 20,1-2) mời gọi độc giả cùng sống với tâm trạng của Ma-ri-a Mác-đa-la, mời gọi độc giả gắn bó với Đức Giê-su, bày tỏ lòng mến đối với Người cho dù lòng mình vẫn tối tăm mù mịt. “Lòng mến dành cho Thầy” là bước khởi đầu nền tảng để nhận ra Người mình yêu mến đã Phục Sinh.
4)
Tại sao thấy một đàng kể lại một nẻo?
Điều lạ lùng trong bản văn là Ma-ri-a Mác-đa-la “thấy tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ” (Ga 20,1b), nhưng chị không kể lại “điều mình thấy” mà kể lại “điều mình nghĩ”. Chị kể với Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.”
Lời này gợi lại trình thuật Mt 28,12-13: “Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn và bảo: ‘Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác’.”
Có thể nói cách hài hước rằng: Ý tưởng “lấy trộm xác Đức Giê-su” là của Ma-ri-a Mác-đa-la trong Tin Mừng Gio-an chứ không phải của các thượng tế và kỳ mục trong Tin Mừng Mát-thiêu. Điểm khác nhau là Ma-ri-a Mác-đa-la giả thiết là “Người ta” đã lấy Chúa khỏi mộ (Ga 20,2) còn giả thuyết của các thượng tế và kỳ mục là “các môn đệ của Đức Giê-su” đã lấy trộm xác Đức Giê-su (Mt 28,13).
Độc giả ngạc nhiên là chính Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã bày tỏ lòng mến và lòng gắn bó với Đức Giê-su mà lại đưa ra giả thuyết “bị lấy trộm xác”, trong khi điều chị thấy chỉ là “tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ”.
Điều này mang ý nghĩa thần học quan trọng về biến cố Đức Giê-su Phục Sinh. Thực vậy, không chỉ các thượng tế và kỳ mục là những người không tin, mà kể cả Ma-ri-a Mác-đa-la và các môn đệ, không ai có thể nghĩ đến việc Đức Giê-su đã Sống Lại. Điều mọi người có thể nghĩ tới khi đứng trước ngôi mộ trống là “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ.” Ma-ri-a Mác-đa-la tin vào giả thuyết của mình đến nỗi chị đã hỏi chính Đức Giê-su Phục Sinh về xác chết của Người, vì tưởng Đấng Phục Sinh là người làm vườn (Ga 20,15).
Như thế, nhận ra Đức Giê-su đã Phục Sinh là một ơn ban từ trên. Chính Đức Giê-su đã tỏ ra cho Ma-ri-a Mác-đa-la và các môn đệ biết Người đã sống lại, còn chính họ không thể tự mình nhận biết. Nhưng làm thế nào để có thể nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh, khi được Người bày tỏ cho biết? Đó là hãy sống những gì rất “người”, “rất nhân bản” như Ma-ri-a Mác-đa-la đã sống, đã làm, đã thấy, đã nghĩ và đã nói ra trong Ga 20,1-2, nhất là lòng mến, lòng gắn bó mà chị đã dành cho Đức Giê-su.
Điều lạ lùng trong bản văn là Ma-ri-a Mác-đa-la “thấy tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ” (Ga 20,1b), nhưng chị không kể lại “điều mình thấy” mà kể lại “điều mình nghĩ”. Chị kể với Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.”
Lời này gợi lại trình thuật Mt 28,12-13: “Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn và bảo: ‘Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác’.”
Có thể nói cách hài hước rằng: Ý tưởng “lấy trộm xác Đức Giê-su” là của Ma-ri-a Mác-đa-la trong Tin Mừng Gio-an chứ không phải của các thượng tế và kỳ mục trong Tin Mừng Mát-thiêu. Điểm khác nhau là Ma-ri-a Mác-đa-la giả thiết là “Người ta” đã lấy Chúa khỏi mộ (Ga 20,2) còn giả thuyết của các thượng tế và kỳ mục là “các môn đệ của Đức Giê-su” đã lấy trộm xác Đức Giê-su (Mt 28,13).
Độc giả ngạc nhiên là chính Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã bày tỏ lòng mến và lòng gắn bó với Đức Giê-su mà lại đưa ra giả thuyết “bị lấy trộm xác”, trong khi điều chị thấy chỉ là “tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ”.
Điều này mang ý nghĩa thần học quan trọng về biến cố Đức Giê-su Phục Sinh. Thực vậy, không chỉ các thượng tế và kỳ mục là những người không tin, mà kể cả Ma-ri-a Mác-đa-la và các môn đệ, không ai có thể nghĩ đến việc Đức Giê-su đã Sống Lại. Điều mọi người có thể nghĩ tới khi đứng trước ngôi mộ trống là “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ.” Ma-ri-a Mác-đa-la tin vào giả thuyết của mình đến nỗi chị đã hỏi chính Đức Giê-su Phục Sinh về xác chết của Người, vì tưởng Đấng Phục Sinh là người làm vườn (Ga 20,15).
Như thế, nhận ra Đức Giê-su đã Phục Sinh là một ơn ban từ trên. Chính Đức Giê-su đã tỏ ra cho Ma-ri-a Mác-đa-la và các môn đệ biết Người đã sống lại, còn chính họ không thể tự mình nhận biết. Nhưng làm thế nào để có thể nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh, khi được Người bày tỏ cho biết? Đó là hãy sống những gì rất “người”, “rất nhân bản” như Ma-ri-a Mác-đa-la đã sống, đã làm, đã thấy, đã nghĩ và đã nói ra trong Ga 20,1-2, nhất là lòng mến, lòng gắn bó mà chị đã dành cho Đức Giê-su.
Kết luận
Những phân tích trên cho thấy nhiều điểm độc đáo của bản văn Gio-an cũng như những hàm ẩn thần học phong phú. Chúng ta không đi tìm thực tế lịch sử đã xảy ra như thế nào, vì điều này vượt khỏi khả năng chủ quan (không phải là nhà sử học) và khách quan (không có tài liệu lịch sử đúng nghĩa về biến cố), điều chúng ta có là “ý nghĩa của biến cố” hay “cách hiểu biến cố” mà các bản văn Tin Mừng thuật lại cho chúng ta. Mỗi Tin Mừng thuật lại một cách khác nhau để chuyển tải ý nghĩa mặc khải của biến cố đã xảy ra, điều này cho thấy sự phong phú về ý nghĩa của biến cố. Nhiệm vụ của độc giả là đọc ra được ý nghĩa của trình thuật muốn nhắn gửi cho độc giả qua cách thức kể chuyện trong bản văn. Có thể tóm kết gợi ý trả lời bốn câu hỏi trên như sau:
1) Tin Mừng Gio-an đưa vào chi tiết “trời còn tối” vừa để cho độc giả thấy sự gắn bó và lòng mến của Ma-ri-a Mác-đa-la dành cho Đức Giê-su, vừa thoáng cho thấy chị đang bị bóng tốt của sự chết đè nặng trong lòng.
2) Bản văn không cho biết lý do rõ ràng của việc Ma-ri-a Mác-đa-la để độc giả nhận ra một lý do sâu xa hơn: Tình yêu dành cho Thầy và ước mong được hiện diện với Thầy. Qua nhân vật Ma-ri-a, bản văn mời gọi độc giả cũng sống như thế để có cơ may nhận ra Đức Giê-su đã Sống Lại.
3) Ma-ri-a Mác-đa-la đến mộ một mình, trước hết là để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ riêng với Đức Giê-su trong đoạn văn sau (Ga 20,11-18), thứ đến là khi “ra mộ một mình”, nhân vật Ma-ri-a Mác-đa-la trở thành biểu tượng cho cuộc gặp gỡ giữa độc giả và Đức Giê-su Phục Sinh. Có thể chính độc giả cũng nghĩ đến giả thuyết: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ” chứ làm gì có chuyện Sống Lại. Độc giả được mời gọi đến với Đức Giê-su đã chết với tấm lòng của một con người, muốn hiện diện với Người dù trên bình diện lịch sử Nguời đã thất bại và đã chết. Chỉ khi sống bằng lòng mến như Ma-ri-a Mác-đa-la, độc giả mới có cơ may nhận ra Đấng Phục Sinh, khi được Người tỏ cho biết.
4) Ma-ri-a Mác-đa-la thấy “tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ” nhưng lại nói: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ” để làm lộ ra biến cố Đức Giê-su Phục Sinh là biến cố “vượt ra ngoài”, “vượt lên trên” lịch sử. Không ai dám nghĩ tới, cho dù trong Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su đã báo trước ba lần biến cố Phục Sinh này cho các môn đệ.
Như thế tự nó, biến cố Phục Sinh không để lại dấu vết trong lịch sử. Không ai có bằng chứng hiển nhiên về biến cố Đức Giê-su đã Phục Sinh. Mãi mãi biến cố Đức Giê-su Sống Lại là biến cố của lòng tin. Người Ki-tô hữu tin Đức Giê-su đã Sống lại là nhờ lời chứng của các Tông Đồ và nhờ lời chứng của Hội Thánh thuật lại trong các sách Tin Mừng. Đến lượt người tin qua mọi thời đại, họ được mời gọi sống và làm chứng như thế nào đó, để người khác nhìn vào thì có thể tin là Đức Giê-su đã Sống Lại, tin là Người đang sống, đang ở với và đang hoạt động trong người tin và trong Hội Thánh.
Những gợi ý trả lời cho bốn câu hỏi trên đây chỉ là những đề nghị, những định hướng để độc giả tiếp tục suy tư và đọc bản văn, nhờ đó rút ra từ bản văn những điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, nghĩa là đọc lại chuyện ngày xưa để thêm sức sống cho ngày nay.
Xem phân tích đoạn văn tiếp theo (Ga 20,3-9) trong bài tìm hiểu về “thấy” và “tin” của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến:
Những phân tích trên cho thấy nhiều điểm độc đáo của bản văn Gio-an cũng như những hàm ẩn thần học phong phú. Chúng ta không đi tìm thực tế lịch sử đã xảy ra như thế nào, vì điều này vượt khỏi khả năng chủ quan (không phải là nhà sử học) và khách quan (không có tài liệu lịch sử đúng nghĩa về biến cố), điều chúng ta có là “ý nghĩa của biến cố” hay “cách hiểu biến cố” mà các bản văn Tin Mừng thuật lại cho chúng ta. Mỗi Tin Mừng thuật lại một cách khác nhau để chuyển tải ý nghĩa mặc khải của biến cố đã xảy ra, điều này cho thấy sự phong phú về ý nghĩa của biến cố. Nhiệm vụ của độc giả là đọc ra được ý nghĩa của trình thuật muốn nhắn gửi cho độc giả qua cách thức kể chuyện trong bản văn. Có thể tóm kết gợi ý trả lời bốn câu hỏi trên như sau:
1) Tin Mừng Gio-an đưa vào chi tiết “trời còn tối” vừa để cho độc giả thấy sự gắn bó và lòng mến của Ma-ri-a Mác-đa-la dành cho Đức Giê-su, vừa thoáng cho thấy chị đang bị bóng tốt của sự chết đè nặng trong lòng.
2) Bản văn không cho biết lý do rõ ràng của việc Ma-ri-a Mác-đa-la để độc giả nhận ra một lý do sâu xa hơn: Tình yêu dành cho Thầy và ước mong được hiện diện với Thầy. Qua nhân vật Ma-ri-a, bản văn mời gọi độc giả cũng sống như thế để có cơ may nhận ra Đức Giê-su đã Sống Lại.
3) Ma-ri-a Mác-đa-la đến mộ một mình, trước hết là để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ riêng với Đức Giê-su trong đoạn văn sau (Ga 20,11-18), thứ đến là khi “ra mộ một mình”, nhân vật Ma-ri-a Mác-đa-la trở thành biểu tượng cho cuộc gặp gỡ giữa độc giả và Đức Giê-su Phục Sinh. Có thể chính độc giả cũng nghĩ đến giả thuyết: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ” chứ làm gì có chuyện Sống Lại. Độc giả được mời gọi đến với Đức Giê-su đã chết với tấm lòng của một con người, muốn hiện diện với Người dù trên bình diện lịch sử Nguời đã thất bại và đã chết. Chỉ khi sống bằng lòng mến như Ma-ri-a Mác-đa-la, độc giả mới có cơ may nhận ra Đấng Phục Sinh, khi được Người tỏ cho biết.
4) Ma-ri-a Mác-đa-la thấy “tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ” nhưng lại nói: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ” để làm lộ ra biến cố Đức Giê-su Phục Sinh là biến cố “vượt ra ngoài”, “vượt lên trên” lịch sử. Không ai dám nghĩ tới, cho dù trong Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su đã báo trước ba lần biến cố Phục Sinh này cho các môn đệ.
Như thế tự nó, biến cố Phục Sinh không để lại dấu vết trong lịch sử. Không ai có bằng chứng hiển nhiên về biến cố Đức Giê-su đã Phục Sinh. Mãi mãi biến cố Đức Giê-su Sống Lại là biến cố của lòng tin. Người Ki-tô hữu tin Đức Giê-su đã Sống lại là nhờ lời chứng của các Tông Đồ và nhờ lời chứng của Hội Thánh thuật lại trong các sách Tin Mừng. Đến lượt người tin qua mọi thời đại, họ được mời gọi sống và làm chứng như thế nào đó, để người khác nhìn vào thì có thể tin là Đức Giê-su đã Sống Lại, tin là Người đang sống, đang ở với và đang hoạt động trong người tin và trong Hội Thánh.
Những gợi ý trả lời cho bốn câu hỏi trên đây chỉ là những đề nghị, những định hướng để độc giả tiếp tục suy tư và đọc bản văn, nhờ đó rút ra từ bản văn những điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, nghĩa là đọc lại chuyện ngày xưa để thêm sức sống cho ngày nay.
Xem phân tích đoạn văn tiếp theo (Ga 20,3-9) trong bài tìm hiểu về “thấy” và “tin” của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến:
“Ông đã thấy và đã tin”. Ai thấy?
Thấy gì? Tin gì?
Mừng Lễ Chúa Phục Sinh, ngày 24 tháng 04 năm 2011 Giu-se Lê Minh Thông, O.P.http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/ - email: josleminhthong@gmail.com
Mừng Lễ Chúa Phục Sinh, ngày 24 tháng 04 năm 2011 Giu-se Lê Minh Thông, O.P.http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/ - email: josleminhthong@gmail.com
06/04/15 THỨ HAI TUẦN BÁT NHẬT PS
Mt 28,8-15
Mt 28,8-15
Suy niệm: Các
phụ nữ đi ướp thuốc thơm cho một xác chết, nhưng lại được gặp một Đấng Phục
Sinh. Nỗi buồn bỗng trở thành niềm vui, một niềm vui không phải chỉ dành riêng
cho mình, vì họ lãnh nhiệm vụ đi loan báo cho các Tông đồ. Niềm vui Phục sinh
ấy bắt đầu lan tỏa, từ người này qua người khác, trong cộng đoàn những người
theo Đức Giê-su. Trong khi ấy, một tin thất thiệt về Ngài cũng bắt đầu lan rộng
nơi cộng đoàn người Do Thái nhằm dập tắt sự thật mà họ không muốn đón nhận. Thế
nhưng, họ đã thất bại, không một sức mạnh nào có thể bưng bít sự thật vĩ đại
ấy. Một khi nỗi sợ hãi đã biến thành niềm vui, một khi xác tín được giải thoát
khỏi bóng tối tử thần để sống lại với Thầy, các môn đệ Ngài có thể vượt qua mọi
nỗi sợ, để đưa Tin Mừng Phục sinh đến tận chân trời góc bể.
Mời Bạn: Chúa
Phục Sinh có phải là niềm vui bền vững, chi phối cuộc đời bạn, hay chỉ là niềm
vui nhất thời, kéo dài được vài ngày? Có khi còn thua niềm vui được thăng chức,
‘trúng mánh’? Bạn tin vào Thiên Chúa, vâng giữ điều răn mến Chúa yêu người,
chấp nhận vác thập giá cuộc đời.... vì dựa trên niềm tin vào việc Chúa Phục
Sinh.
Sống Lời Chúa: Tôi
quan tâm chia sẻ niềm vui Chúa Phục sinh cho những người tôi tiếp xúc mỗi ngày,
nhất là người đang đau khổ, bệnh tật... để giúp họ vượt qua nỗi buồn và sợ hãi
ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Phục Sinh, niềm vui Phục sinh đã đem lại sự biến đổi sâu
xa cho những ai đón nhận Tin mừng. Xin cho con cũng để niềm vui ấy chi phối,
ảnh hưởng đến cách suy nghĩ và hành xử của cuộc đời con. Amen.
Lectio Divina: Mátthêu
28:8-15
Thứ Hai, 6 Tháng 4, 2015
Thứ Hai trong Tuần Bát Nhật Phục
Sinh
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Thiên Chúa hằng sống của chúng con,
Tâm hồn chúng con vui mừng và hân hoan
Và chúng con cảm thấy an bình trong đức tin
của chúng con
Rằng chúng con có một Đấng hằng sống để tin
tưởng vào, đó là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết.
Xin hãy để Người chỉ cho chúng con đường sự
sống,
Xin hãy để chúng con sống trong niềm hân hoan
vì sự hiện diện của Người
Và ban cho chúng con ân sủng để làm chứng
nhân,
Để cho chúng con có thể công bố với cả cuộc
đời chúng con
Rằng Chúa Giêsu đã sống lại, là Thiên Chúa
hằng sống của chúng con
Bây giờ và muôn đời.
2. Bài Đọc Tin Mừng – Mátthêu 28:8-15
Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ hãi vừa hớn hở vui mừng,
chạy báo tin cho các nhóm môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các
bà, Người nói: “Chào các bà”. Các bà liền lại gần ôm chân
Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: “Các bà đừng
sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó
họ sẽ gặp Ta.”
Đang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo
tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế
liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và
bảo rằng: “Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi
đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai
tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà
đâu”. Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn
chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do Thái cho đến
ngày nay.
3. Suy Niệm
- Chúa Phục Sinh! Bài Tin Mừng hôm nay mô
tả kinh nghiệm về Sự Phục Sinh mà các môn đệ của Chúa Giêsu đã trải
qua. Trong phần mở đầu sách Tin Mừng của mình, Mátthêu đã nói rằng
Chúa Giêsu là Đấng Êmmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt
1:23). Giờ đây, tại phần kết, tác giả thông tri và làm gia tăng điều
chắc chắn này về đức tin, vì ông tuyên xưng rằng Đức Giêsu đã sống lại (Mt
28:6) và Người sẽ ở với chúng ta luôn mãi, cho đến ngày tận thế! (Mt
28:20). Trong các mâu thuẫn của đời sống, sự thật này đã bị nghi
ngờ, tranh cãi rất nhiều. Phe đối lập không phải là
thiếu. Những kẻ thù, các thượng tế Do Thái, tự bào chữa cho mình
chống phá Tin Mừng Phục Sinh và đánh tiếng rằng thi thể Chúa đã bị các môn đệ
đánh cắp (Mt 28:11-13). Điều này cũng đang xảy ra ngày
nay. Một mặt, nỗ lực của nhiều người sống và làm chứng cho sự sống
lại. Mặt khác, có rất nhiều kẻ ác nhân chống phá sự sống lại và
chống lại sự sống.
- Trong sách Tin Mừng Mátthêu, sự thật về việc Phục
Sinh của Chúa Giêsu được kể lại qua ngôn ngữ tượng trưng, trong đó mặc khải ý
nghĩa tiềm ẩn của sự kiện. Thánh sử Mátthêu nói về mặt đất rung chuyển, về
tia chớp lóe ra và các thiên sứ công bố việc chiến thắng sự chết của Chúa Giêsu
(Mt 24). Đó là ngôn ngữ khải huyền, rất phổ biến vào thời ấy, để loan
báo rằng thế gian cuối cùng đã được biến đổi bởi quyền năng của Thiên
Chúa! Niềm hy vọng của người nghèo khổ, những người được tái khẳng
định đức tin của họ, đã được ứng nghiệm: “Chúa đang sống giữa chúng
ta!”
- Mt 28:8: Niềm vui mừng Chúa Phục Sinh đã
lấn át nỗi sợ hãi. Vào sáng sớm Chúa Nhật, ngày thứ nhất trong tuần,
hai người phụ nữ đã đi viếng mộ, bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giacôbê,
cũng được gọi là bà Maria kia. Đột nhiên mặt đất rung chuyển dữ dội
và một thiên thần hiện ra như lằn chớp. Các lính canh là những người
đang gác mộ cũng đã run lên vì sợ hãi đến nỗi chết ngất đi. Các
người phụ nữ đã hốt hoảng nhưng thiên thần đã trấn an các bà, loan báo sự chiến
thắng cái chết của Chúa Giêsu và sai họ đi gặp các môn đệ Chúa Giêsu tại
Galilêa. Và tại Galilêa, họ sẽ có thể được thấy Người lần
nữa. Mọi việc bắt đầu từ đó; họ đã nhận được sự mặc khải lớn lao về
Chúa Phục Sinh. Niềm hân hoan của sự Sống Lại đã bắt đầu lấn át nỗi
sợ hãi. Vì thế, lời loan báo sự sống và sự sống lại bắt đầu theo
cách này.
- Mt 28:9-10: Chúa Giêsu hiện ra với các
phụ nữ. Các bà ra đi ngay lập tức. Trong lòng các bà, sự sợ hãi
trộn lẫn với hân hoan. Đây là những tình cảm điển hình của những
người đã có một kinh nghiệm sâu sắc về Mầu Nhiệm Thiên Chúa. Đột nhiên,
Chúa Giêsu đã đón gặp các bà và nói với họ: “Hãy vui mừng
lên!” Và các bà liền ôm lấy chân Người và phục lạy
Người. Đó là thái độ của người tin tưởng và chấp nhận sự hiện diện
của Thiên Chúa, ngay cả khi ngạc nhiên và điều vượt quá khả năng hiểu biết của
loài người. Bây giờ, Chúa Giêsu ra lệnh cho các bà đi báo với các
anh em tại Galilêa: “Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho
các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta.”
- Mt 28:11-15: Óc tinh ranh hoặc lừa đảo
của những kẻ thù của Tin Mừng. Phe chống đối mà Chúa Giêsu đã phải
đối mặt trong cuộc sống của Người, bây giờ lại dấy lên một lần nữa sau khi Chúa
Phục Sinh. Các thượng tế gặp và cho tiền các lính
canh. Họ phải loan tin rằng các môn đệ đã lấy trộm xác của Chúa
Giêsu, và điều này để làm vô hiệu tất cả mọi lời nói về sự sống
lại. Các thượng tế không chấp nhận Tin Mừng Phục Sinh. Họ
ưa tin rằng đó là sự bịa đặt từ phía các môn đệ - nam cũng như nữ - của Chúa
Giêsu.
- Sự quan trọng của lời chứng của các
bà. Sự hiện diện của những người phụ nữ tại lúc chết, lúc mai táng
và tại lúc sống lại của Chúa Giêsu thì quan trọng. Họ là những nhân
chứng về cái chết của Chúa Giêsu (Mt 27:54-56). Tại lúc mai táng,
các bà vẫn còn ngồi trước mộ và vì thế, các bà có thể làm chứng về địa điểm mà
Chúa đã được mai táng (Mt 27:61). Giờ đây, vào sáng Chúa Nhật, các
bà lại có mặt ở đó lần nữa. Các bà biết rằng ngôi mộ trống thực sự
là ngôi mộ của Chúa Giêsu! Kinh nghiệm sâu sắc về cái chết và sự
sống lại mà các bà có, đã biến đổi đời sống các bà. Chính các bà đã
trở thành những nhân chứng có đủ tư cách về sự Phục Sinh trong các Cộng Đoàn
Kitô hữu. Đây là lý do tại sao họ nhận được lệnh phải đi thông
báo: “Chúa Giêsu đang sống! Người đã sống lại từ cõi
chết!”
4. Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy
gẫm cá nhân
- Kinh nghiệm về sự sống lại mà tôi có trong đời tôi
là gì? Ở trong tôi đã có một lực nào mà cố gắng chống lại kinh
nghiệm về sự sống lại không? Tôi đã phản ứng ra sao?
- Ngày nay, sứ vụ của cộng đoàn chúng ta, của chúng ta, các
môn đệ của Chúa Giêsu là gì? Chúng ta có thể rút ra được sức lực,
sức mạnh và lòng can đảm từ nơi nào để hoàn thành sứ vụ của mình?
5. Lời nguyện kết
Con chúc tụng CHÚA hằng thương chỉ dạy,
Ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con.
Con luôn nhớ có Ngài trước mặt,
Được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ.
(Tv 16:7-8)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét