07/04/2015
Thứ Ba Trong Tuần Bát
Nhật Lễ Phục Sinh
Bài
Ðọc I: Cv 2, 36-41
"Anh
em hãy ăn năn sám hối và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức
Kitô".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô nói với những người Do-thái rằng: "Xin toàn thể
nhà Israel hãy nhận biết rằng: Thiên Chúa đã tôn Ðức Giêsu mà anh em đã đóng
đinh, lên làm Chúa và làm Ðấng Kitô". Nghe những lời nói trên, họ đau đớn
trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: "Thưa các ông, chúng
tôi phải làm gì?" Phêrô nói với họ: "Anh em hãy ăn năn sắm hối, và mỗi
người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội;
và anh em sẽ nhận lãnh Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái
anh em và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi
đến!"
Phêrô
còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ rằng: "Anh em hãy
cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này". Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng
đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 32, 4-5. 18-19. 20 và 22
Ðáp: Ðịa cầu đầy
ân sủng Chúa (c. 5b).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu
chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.
2)
Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Ngài, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng
của Ngài, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.
- Ðáp.
3)
Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Ðấng phù trợ và che chở chúng
con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy
ở nơi Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 14, 8
Alleluia,
alleluia! - Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ
khác, để ở cùng các con luôn mãi. - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 20, 11-18
"Tôi
đã trông thấy và Người đã phán với tôi những điều ấy".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc. Nhìn vào trong mồ, bà thấy
hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi
phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà
khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết
người ta đã để Người ở đâu?" Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa
Giêsu đã đứng đó, nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: "Bà
kia, sao mà khóc, bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa:
"Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt
Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria".
Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni!" (nghĩa là "Lạy Thầy!").
Chúa Giêsu bảo bà: "Ðừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy
đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha
các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con".
Maria
Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa
đã phán với tôi những điều ấy".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Tôi Ðã Xem Thấy Chúa Phục Sinh
Trong
thời gian sống tại thành phố Paris, thi sĩ Viler Maria thường có thói quen đi
bách bộ vào mỗi buổi chiều. Dọc theo lối đi của thi sĩ có một bà già ngày ngày
ngồi ăn xin. Bà ta ngồi đó âm thầm câm nín, dáng vẻ trơ trơ không cảm xúc, ngay
cả khi nhận quà bố thí bà cũng chẳng biểu lộ một dấu hiệu biết ơn nào.
Ngày
kia, thi sĩ đi bách bộ với người bạn gái trẻ, cô ta quá đỗi ngạc nhiên khi thấy
thi sĩ đi ngang qua chỗ ngồi của bà già ăn xin mà chẳng cho bà chút gì. Ðọc được
tư tưởng của bạn gái, nhà thơ trả lời: "Quà tặng phải đưa vào tận con tim,
chứ không phải chỉ đưa bằng đôi tay".
Qua
ngày hôm sau, thi sĩ đến chỗ hẹn với đóa hồng vừa hé nở trên tay. Dĩ nhiên cô
gái nghĩ rằng đóa hồng đó dành riêng cho cô, lòng cô rộn lên với tư tưởng:
"Ôi! Thi sĩ quá quan tâm đến mình biết bao". Nhưng không. Thi sĩ đã đến
trao đóa hồng đó vào đôi tay gầy guộc của bà già ăn xin và rồi sự lạ đã xảy ra
là bà già bấy lâu trơ trơ như khúc gỗ giờ đây đã hồi sinh. Bà vội vàng đứng dậy,
bước tới cầm tay thi sĩ và hôn lên đôi tay của thi sĩ. Rồi với cử chỉ nâng niu,
bà ôm chặt lấy đóa hoa hồng vào lòng và thanh thản bước đi.
Suốt
một tuần qua đi, bà mới trở lại chỗ ngồi ăn xin hằng ngày cùng với vẻ câm nín
và vô hồn như trước kia. Người bạn gái hỏi thi sĩ xem suốt tuần qua không xin
ăn thì bà sống bằng gì. Thi sĩ trả lời: "Bà sống bằng đóa hoa hồng".
Anh
chị em thân mến!
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan cũng thuật lại cho chúng ta câu truyện của
một người đàn bà đang u buồn tuyệt vọng, nhưng bỗng nhiên nhận được món quà
trao tận con tim, một niềm vui không gì đo lường được, đó là niềm vui của Tin Mừng
Phục Sinh.
Ðọc
lại đoạn Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy sự tuyệt vọng của Maria Madalena lúc này đến
mức nào. Theo Chúa Giêsu và các môn đệ trên đường rao giảng Tin Mừng, chắc chắn
bà đã nghe nói, đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa Giêsu đã làm, từ việc chữa
lành bệnh tật cho đến việc làm cho kẻ chết sống lại, từ việc khiến gió biển im
lặng cho đến chuyện hóa bánh ra nhiều.
Thế
nhưng, tất cả đều sụp đổ khi bà đếm từng vết máu và mồ hôi loang vãi trên đường
tử nạn, khi theo dõi từng hơi thở thoi thóp của Chúa Giêsu trên Thập Giá, hay
khi xác Ngài được mai táng trong mồ, và hôm nay cả đến thân xác cũng bị đánh cắp
mất, chẳng còn gì hy vọng nữa. Như vậy, tất cả chỉ là tuyệt vọng, Nhưng chính
trong tận cùng của sự tuyệt vọng ấy, chính trong thử thách mịt mù ấy, bà đã được
tặng ban một món quà không phải trên đôi tay, nhưng món quà ấy được trao tặng
vào chính con tim của bà. Ðó là bà được thấy Chúa Kitô Phục Sinh và Ngài đã gọi
tên bà một cách thân mật, ngọt ngào.
"Gọi
tên" đó là một dấu chỉ thân mật giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, giữa những
người mục tử tốt lành và đoàn chiên. Người mục tử tốt lành nhận biết từng con
chiên của mình, và Ngài gọi tên từng con chiên một và cho chúng vào hưởng niềm
no thỏa trong đồng cỏ xanh tươi. Không chỉ riêng Madalena, nhưng mỗi người Kitô
hữu đều được tặng ban món quà này. Lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy là họ đã được gọi
tên, được đổi mới, được nâng lên hàng con cái dấu yêu của Thiên Chúa, được
thông phần vào sức sống Phục Sinh trong nhiệm thể Ðức Kitô.
Sư
sống Phục Sinh này không phải chỉ là một đóa hồng tạm bợ, chỉ hồi sinh con người
trong thời gian ngắn ngủi, nhưng là đóa hồng vĩnh cửu có thể cho con người sống
đúng địa vị làm người, làm con Thiên Chúa đến muôn đời. Con người chỉ trở nên
buồn thảm, câm nín là vô hồn khi họ không biết nâng niu, quí chuộng mà bỏ xa sự
sống Phục Sinh của Ðức Kitô.
Lạy
Chúa, nếu tội lỗi làm cho con vô cảm, u buồn, tuyệt vọng, thì xin cho con được
luôn nhớ rằng: Chúa đang đứng bên con và đang gọi tên con. Con không nhận thấy,
không nghe biết vì con không nhiệt tâm yêu mến, tìm kiếm như thánh nữ Maria
Madalena. Biết kiếm tìm trong tinh thần yêu mến chắc chắn con sẽ không thất vọng
vì Chúa đang ở bên con, đang đợi chờ con.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần I BNPS
Bài đọc: Acts 2:36-41; Jn
20:11-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tôi đã tìm thấy
Chúa.
Đã
mang thân phận con người, ai cũng có lầm lỡ. Thiên Chúa biết điều đó; vì thế,
Ngài không chấp tội con người. Ngài không muốn con người phải chết trong tội, nhưng
muốn họ ăn năn sám hối và được sống. Điều quan trọng là con người phải nhận ra
những lầm lỡ của mình; đồng thời phải biết làm gì để đền bù những tội lỗi đó.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc đi tìm và nhận ra Chúa. Trong Bài Đọc I,
nhờ sự rao giảng của Phêrô, 3,000 người Do-thái đã nhận ra tội lỗi của mình và
trở về với Thiên Chúa qua việc lãnh nhận Phép Rửa. Trong Phúc Âm, Bà Mary
Magdala, người đã tìm thấy Chúa khi Ngài còn sống; và đã tìm thấy Chúa sau khi
Ngài sống lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Chúng tôi phải làm gì?
1.1/
Thiên Chúa không chấp tội con người: Giết người vô tội đã là tội nặng, giết Con Thiên
Chúa, Đấng yêu thương và lo lắng cho con người, là tội vô cùng nặng nề. Phêrô mở
mắt cho người Do-thái nhận ra họ đã lầm khi kết án Chúa Giêsu Kitô: “Vậy toàn
thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên Thập
Giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.”
Thiên
Chúa sẽ đối xử thế nào với những ai vào hùa giết con của Ngài? Đây là câu hỏi mà
chính Chúa Giêsu đã đặt ra cho họ trong ví dụ các tá điền được cho mướn đất làm
vườn nho. Họ trả lời: “Ông chủ sẽ tru diệt chúng và giao vườn nho cho những ai
biết sinh lợi.” Khi nhận ra tội của mình, người Do-thái đau đớn trong lòng, và
hỏi ông Phêrô cùng các Tông Đồ khác: "Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm
gì?"
1.2/
Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng: Đối với loài người, sẽ không có cơ hội thứ hai cho
những người giết con Thiên Chúa. Đối với Thiên Chúa, Ngài cho họ có cơ hội thứ
hai như Phêrô tuyên bố hôm nay: Họ phải làm hai việc:
(1)
Lãnh nhận Phép Rửa: "Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu Phép Rửa
nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là
Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con
cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên
Chúa chúng ta sẽ kêu gọi."
(2)
Tránh xa thế hệ gian tà: Ông Phêrô khuyên nhủ họ: "Anh em hãy tránh xa thế
hệ gian tà này để được cứu độ." Để bước theo đường lối của Thiên Chúa, con
người cần tránh xa những sự sai lầm, giả trá, và biết sống theo sự thật. Chính
sự sai lầm và không sống theo sự thật, những nhà lãnh đạo Do-thái đã luận tội
Con Thiên Chúa.
2/
Phúc Âm:
Cuộc hội ngộ giữa Chúa Giêsu và Bà Mary Magdala
2.1/
Mary Magdala tiếp tục tìm xác Chúa: Trình thuật này tiếp tục trình thuật Bà chạy về báo
tin cho các môn đệ, và Phêrô cùng Gioan đã chạy ra mộ và chạy về. Bà vẫn quanh
quẩn bên mộ Chúa vì thương mến, và có lẽ vì tội nghiệp Chúa đã phải chịu cái chết
đau khổ như thế, mà giờ đây vẫn chưa hết đau khổ, vì con người vẫn chưa tha cho
xác chết của Ngài.
(1)
Mary thấy sứ thần Thiên Chúa, nhưng không nhận ra họ: Bà đứng ở ngoài, gần bên
mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần
mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị
ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: "Này bà, sao bà khóc?" Bà thưa:
"Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở
đâu!"
(2)
Mary nghe tiếng Chúa và nhìn thấy Chúa, nhưng không nhận ra Chúa: Đức Giêsu nói
với bà: "Này Bà! sao bà khóc? Bà tìm ai?" Bà tưởng Chúa là người làm
vườn, và nghĩ có thể ông đã lấy xác Chúa, liền nói với ông: “Thưa ông, nếu ông
đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người
về.”
2.2/
Mary Magdala nhận ra Chúa Giêsu.
(1)
Nhận ra Thiên Chúa không bằng những gì nghe và thấy bên ngoài, vì Bà đã nghe và
thấy Chúa như trình bày ở trên; nhưng bằng sự rung động từ trong trí óc và con
tim. Thánh sử Gioan mô tả phút giây hội ngộ giữa Chúa Giêsu và Mary Magdala thật
ngắn ngủi, nhưng vô cùng tuyệt vời. Đức Giêsu gọi bà: "Mary!" Bà quay
lại và nói bằng tiếng Do-thái: "Rabbouni!" Chỉ có hai con tim đang
yêu mới hiểu được ý nghĩa tuyệt vời của hai tiếng gọi này. Sự kiện Chúa gọi tên
Bà gợi lại cho bà nhiều điều: Chúa đang sống, Ngài nhận ra Bà, Ngài hiểu sự đau
khổ của Bà, và Ngài yêu thương Bà. Nhận ra tiếng gọi thân thương của người mình
yêu mến trong khi đang tuyệt vọng đi tìm, còn gì xúc động và vui mừng hơn, Bà
quay lại để nhìn Chúa. Khi nhận ra Chúa, bà chạy đến, gieo mình xuống ôm chân
Ngài, và sung sướng kêu lên “Thầy của con.”
(2)
Yêu Chúa không phải giữ chặt Chúa, nhưng làm theo những gì Ngài muốn: Hành động
của Mary Magdala như thầm nói với Chúa: “Con sẽ không để Thầy xa con nữa.”
Nhưng Đức Giêsu bảo bà: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng
Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: "Thầy lên cùng Cha của
Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa
của anh em.""
Khác
với tình yêu con người, khi con người yêu ai, họ muốn giữ người họ yêu làm của
riêng cho mình; tình yêu Thiên Chúa đòi con người tiếp tục cho Chúa đi, chứ
không giữ Chúa lại làm của riêng cho mình. Con người tìm thấy niềm vui khi nhìn
thấy mọi người yêu Chúa. Chúa Giêsu muốn bảo Mary: Nếu con thương Thầy, hãy làm
cho nhiều người nhận biết Thầy! Thầy còn nhiều anh, chị, em mà con phải mang
tin mừng đến cho họ.
(3)
Bà Mary Magdala đi báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa!" và bà kể lại
những điều Người đã nói với bà. Một khi đã tìm thấy và cảm nhận được tình yêu
Thiên Chúa, con người trở thành kẻ hát rong, ca ngợi tình yêu Thiên Chúa cho mọi
người được biết. Cuộc đời không còn gì lôi cuốn được người có tình yêu Thiên
Chúa; họ sẽ không đánh đổi tình yêu này cho bất cứ điều gì. Chỉ có tình yêu này
mới có sức mạnh đủ để họ làm chứng cho Chúa giữa bao nghịch cảnh: bắt bớ, roi
đòn, tù đày, gươm giáo, và ngay cả cái chết.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Hãy tìm Chúa! Ngài sẽ cho gặp; nhưng gặp lúc nào và khi nào là hoàn toàn do ý của
Thiên Chúa.
-
Thiên Chúa ở ngay trong tâm hồn con người, như thánh Augustine thú nhận: “Ngài
luôn ở bên con, thế mà con vất vả tìm Ngài khắp nơi.”
-
Khi đã tìm được Chúa, chúng ta không thể ích kỷ giữ Ngài cho mình chúng ta;
nhưng phải chia sẻ cho mọi người để tất cả đều tìm thấy và tin tưởng nơi Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
07/04/15 THỨ BA TUẦN
BÁT NHẬT PS
Thánh Gioan B. Lasan
Ga 20,11-18
Thánh Gioan B. Lasan
Ga 20,11-18
Suy niệm: Lòng
yêu mến đã hối thúc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đến mộ Chúa từ sáng sớm khi trời còn
tối. Lòng yêu mến thúc đẩy bà chạy tìm các môn đệ, và bây giờ sau khi các
ông ra về, lòng yêu mến ấy níu chân bà lại bên ngôi mộ trống. Buổi sáng hôm đó,
bà đã trải qua bốn tâm trạng khác nhau: lo lắng làm thế nào lăn tảng đá lấp cửa mồ để ướp thuốc
thơm cho xác của Thầy, đau buồn vì nghĩ người ta đã lấy xác Thầy, vui mừng vì nhận ra Thầy, và cuối cùng, vinh dự được là người đầu tiên đưa Tin Mừng Phục sinh
cho các Tông đồ. Những giọt nước mắt đau buồn đã biến thành niềm vui vỡ òa.
Niềm vui ấy không thể giữ riêng trong tim, ghi trong trí, nhưng phải được loan
đi, truyền lại cho mọi người: “Tôi đã thấy Chúa!”
Mời Bạn: Với
bà Ma-ri-a, Đức Giê-su là tất cả; cuộc đời bà xoay quanh trục mang tênGiê-su.
Tâm trạng của bà: vui hay buồn, sướng hay khổ, hạnh phúc hay bất hạnh là tùy
việc có Ngài trong cuộc đời, thi hành sứ vụ Ngài giao hay không. Còn đối với
bạn thì sao? Đức Giê-su chiếm địa vị thế nào trong đời bạn, trong sinh hoạt của
bạn?
Sống Lời Chúa: Tôi
tập kết hiệp với Chúa suốt ngày qua các bổn phận của mình, bằng cách dâng
lên Chúa một lời nguyện tắt trước mỗi công việc, xin Chúa chúc lành cho công
việc ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin Chúa đã sống lại thật! Ha-lê-lu-i-a! Xin cho
niềm vui Phục sinh chan hòa trong cuộc sống của con, nhờ mối tương giao thân
thiết và kinh nghiệm gặp gỡ Chúa qua Lời, qua các bí tích con nhận lãnh, cũng
như qua việc con kết hiệp với Chúa từng giây phút cuộc đời con. Amen.
Tôi đã thấy Chúa
Chúng ta không thể nào làm chứng cho Chúa Giêsu nếu
không có kinh nghiệm này: Thấy Chúa và nghe được Chúa nói - đó là ước mơ của
chúng ta trong cầu nguyện.
Suy niệm:
Maria Mácđala là con người
yêu mến.
Theo Tin Mừng Gioan, bà đã
theo Thầy Giêsu đến tận Đồi Sọ,
đã đứng gần thập giá và
chứng kiến cái chết của Thầy (Ga 19, 25).
Hầu chắc bà đã tham dự cuộc
mai táng Thầy và biết vị trí của ngôi mộ.
Hơn nữa, bà là nguời ra mộ
sớm nhất vào ngày thứ nhất trong tuần.
Rồi bà chạy về báo tin cho
các môn đệ về chuyện xác Thầy không còn đó (20, 1-2).
Bài Tin Mừng hôm nay cho
thấy bà lại có mặt ở ngoài mộ lần nữa (c. 11).
Ngôi mộ như có sức giữ chân
bà.
Chỉ tình yêu mới giải thích
được điều đó.
Maria là con người tìm kiếm.
Đấng phục sinh hỏi bà: “Bà
tìm ai?” (c. 15).
Bà chỉ có một mối quan tâm
duy nhất, đó là tìm lại được xác Chúa của bà.
Bà đã nói với Phêrô: “Người
ta đã đem Chúa đi khỏi mộ,
và chúng tôi chẳng biết họ
để Người ở đâu” (20, 2).
Bà đã nói với vị thiên thần
ngồi trong mộ điệp khúc tương tự:
“Người ta đã lấy mất Chúa
tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu” (c. 13).
Khi gặp Thầy Giêsu, bà tưởng
là người làm vườn, nên cũng nói:
“Nếu ông đã đem Người đi,
thì xin nói cho tôi biết
ông để Người ở đâu, tôi sẽ
đem Người về (c. 15).
Đối với Maria, mất xác Thầy
là mất chính Thầy,
nên bà cứ bị ám ảnh bởi
chuyện người ta để Người ở đâu.
Maria là con người đau khổ.
Bà đã khóc nhiều từ khi xác
Thầy không còn đó.
Cả thiên thần và Đức Giêsu
đều hỏi bà cùng một câu hỏi: “Tại sao bà khóc?”
Ai sẽ là người lau khô nước
mắt của bà Maria Macđala?
Ai sẽ là người giúp bà tìm
thấy điều bà tìm kiếm?
Đức Giêsu phục sinh đến gặp
bà dưới dạng một người làm vườn.
Thậm chí bà nghi ngờ ông này
có dính dáng đến chuyện mất xác Thầy.
“Maria”: Đức Giêsu gọi tên
bà với một cung giọng quen thuộc.
Bây giờ bà mới nhận ra Thầy
và reo lên: “Rabbouni!”
Có những lời của Đức Giêsu
được thực hiện.
“Ai tìm thì sẽ thấy”, “Ai
khóc lóc sẽ được vui cười”.
Maria đi tìm xác Thầy, nhưng
bà đã gặp được một điều quý hơn nhiều,
đó là chính Thầy đang sống.
Maria đã khóc lóc, nhưng
niềm vui bà gặp được lớn hơn nhiều.
Chẳng có giọt nước mắt nào
là vô ích trước mặt Thiên Chúa.
Hãy nếm niềm vui bất ngờ của
Maria.
Bà được Chúa sai đến với các
môn đệ, cũng là anh em của Ngài.
Bà gói ghém kinh nghiệm bà
mới trải qua trong một câu đơn giản:
“Tôi đã thấy Chúa!” và Chúa
đã nói với tôi (c. 18).
Chúng ta không thể nào làm
chứng cho Chúa Giêsu nếu không có kinh nghiệm này.
Thấy Chúa và nghe được Chúa
nói: đó là ước mơ của chúng ta trong cầu nguyện.
Nhưng đừng quên Maria đã yêu
cách nồng nhiệt và can đảm
và đã đau khổ tìm kiếm Thầy
Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
xin ban cho con sự sống của
Chúa,
sự sống làm đời con mãi mãi
xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa,
bình an làm con vững tâm
giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa,
niềm vui làm khuôn mặt con
luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa,
hy vọng làm con lại hăng hái
lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7
THÁNG TƯ
Được
In Dấu Ấn Sự Sống
Chúng
ta hãy cảm tạ vì cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su Kitô. Chúng ta hãy cảm tạ vì
Chúa Cha đã tôn vinh Người. Người là Đấng đã hủy mình ra không, “trở thành vâng
phục cho đến chết, chết trên Thập Giá” (Pl 2,8).
Vâng,
công cuộc cứu chuộc thế giới được hoàn tất trong cuộc Phục Sinh của Người. Dấu ấn
của sự chết đã được tháo gỡ khỏi ngôi mộ đá lạnh lùng. Và dấu ấn sự sống đã được
đóng vào trái tim của những người tin. “Đức Kitô đã chịu hiến tế để làm chiên lễ
Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5,7).
Chúng
ta hãy cảm tạ vì hy tế của Đức Giêsu – hy tế đã đạt tới chính ngai tòa của Chúa
Cha. Chúng ta hãy cảm tạ vì tình yêu của Chúa Cha – tình yêu đã được mạc khải
nơi cuộc Phục Sinh của Chúa Con.
Chúng
ta hãy cảm tạ vì hơi thở của Chúa Thánh Thần Đấng trao ban sự sống. Hơi thở này
được đón nhận bởi các Tông Đồ, qui tụ tại căn gác thượng theo chỉ thị của Đức
Giêsu. Đức Kitô sẽ đến giữa họ, ngay cả xuyên qua những cánh cửa đóng kín. Người
sẽ nói với họ: “Anh em hãy nhận lãnh Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì tội
người ấy được tha… “ (Ga 20,22-23).
Chính
từ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu mà chúng ta nhận được ơn tha thứ tội lỗi của
chúng ta. Cuộc hoán cải của chúng ta xảy ra nơi chính Thập Giá của Người. Và
nơi cuộc Phục Sinh của Người, chúng ta chiến thắng trên tội lỗi của mình. Người
đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Người đã trao cho
chúng ta chính sự sống của Người, Người mở lối cho chúng ta bước vào sự sống
vĩnh cửu bất diệt.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
07- 4
Thứ
Ba Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh.
Cv
2,36-41; Ga 20, 11-18.
LỜI
SUY NIỆM: “Bà Maria Mác-đa-la đi báo tin cho các môn đệ:
“Tôi đã thấy Chúa” Và bà kể lại những điều Người đã nói với bà”
Bà
Maria Mác-đa-la người phụ nữ diễm phúc gặp được Chúa Giêsu Phục Sinh trước hết
mọi người, và bà cũng chính là người đầu tiên loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh
cho các môn đệ thân yêu của Chúa. Điều này không phải là một ngẫu nhiên mà được;
bà được như vậy, bởi vì một tình yêu mến chân thật của bà đối với Chúa, chính
tình yêu nồng cháy đã đốt lên trong lòng bà, bà chỉ mong được phục vụ Chúa như
lòng bà ao ước.
Lạy
Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con được ơn yêu mến
Chúa nồng cháy như bà Maria Mác-đa-la, luôn hướng về Chúa và sẵn sàng hy sinh để
phục vụ Chúa vì lợi ích của các linh hồn.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
07-4
Thánh
GIOAN LASAN
Linh
Mục (1651 - 1719)
Thánh
Gioan Lasan là bổn mạng của các nhà giáo dục, Ngài được thành công trong việc
cung ứng một hệ thống giáo dục cho quảng đại quân chúng vào thời mà dân nghèo
như bị bỏ rơi hoàn toàn. Nỗ lực của Ngài không phải chỉ trong việc mở trường mà
là việc tạo lập nên một đoàn thể những nhà giáo dục được đào tạo chu đáo. Chính
nỗ lực này đặt nền tảng bảo đảm cho sự thành công trong việc giáo dục.
Không
phải khuynh hướng tự nhiên được đưa Ngài tới việc thực hiện công trình này. Thật
vậy, hoàn cảnh gia đình với sự đào luyện từ thuở nhỏ khó có thể coi được là một
chuẩn bị cho Ngài làm giáo dục. Sinh tại Reims ngày 30 tháng 4 năm 1651, Gioan
Baotixita, là con trưởng trong một gia đình quý phái và được thừa hưởng địa vị
lẫn gia tài của cha mẹ để lại. Những thứ này là vực ngăn cách Ngài với đám đông
dân chúng nghèo khổ.
Vào
tuổi 16, khi đang theo học ở Học viện dành cho trẻ em ưu tú (College des Bons
enfants), thánh nhân được đặt làm kinh sĩ ở Reims. Sau đó Ngài tiếp tục theo học
tại chủng viện Xuân Bích và đại học Sorbonne để làm linh mục. Ngài thụ phong
linh mục năm 27 tuổi.
Cho
đến lúc này, chưa có một yếu tố nào cho thấy rõ sứ mệnh tương lai của Ngài.
Nhưng ít lâu sau, Ngài được chỉ định giúp vào việc lập trường ngay tại quê
hương xứ sở mình. Việc này đặt Ngài và trách nhiệm săn sóc các giáo viên, dẫn
Ngài tới chỗ đưa họ về nhà mình và đào luyện họ. Dần dần, Ngài hiểu rằng: Chúa
quan phòng định cho Ngài làm dụng cụ kiến tạo một hệ thống giáo dục dành cho
dân nghèo, lớp dân bị xỉ nhục trong "thế kỷ huy hoàng" vì sự hư dốn
và ngu dốt của họ.
Chọn
thánh ý Thiên Chúa làm nguyên tắc hứơng dẫn đời sống, Ngài quyết định hiến mình
trọn vẹn cho công tác này. Ngài từ chức kinh sĩ, phân phát gia tài để mang lấy
cũng một địa vị như các giáo viên Ngài chung sống. Làm như vậy Ngài làm cho những
người đồng hương nặng đầu óc giai cấp tức giận. Nhưng điều ấy không thay đổi được
quyết định của Ngài.
Năm
1684, Ngài biến đổi nhóm giáo viên của mình để thành một cộng đoàn an sĩ với
danh hiệu Sư huynh. Các trường công giáo. Đây là nguồn gốc của hội dòng ngày
nay, phổ biến rộng rãi khắp thế giới. Để giới hạn hội dòng riêng cho nỗ lực
giáo dục, Ngài nhận định rằng: sư huynh nào làm linh mục, cũng như không nhận một
linh mục nào vào dòng. Luật này ngày nay vẫn còn được áp dụng.
Những
năm đầu, hội dòng rất nghèo khổ và cực nhọc. Tuy nhiên thánh nhân vẫn kiên quyết
chịu đựng và vững tin ở Chúa quan phòng. Người nói với những người lo âu : - Tại
sao mà không tin tưởng ? Chúa thà làm phép lạ còn hơn để cho chúng ta phải thiếu
thốn.
Mối
quan tâm chính của Ngài là đào luyện đạo đức và nghiệp vụ cho anh em. Nhưng, thấy
không thể thỏa mãn được mọi đòi hỏi của giáo viên nếu không huấn luyện giáo
viên, năm 1678 Ngài lập ở Reims một học viện cho khoảng 40 trẻ. Lần đầu tiên
trong lịch sử giáo dục có một cơ sở giáo dục như vậy.
Sau
khi lập trường ở những thành phố lân cận, năm 1683, Ngài coi sóc một trường ở xứ
Thánh Xuân Bích (Sulpice), là nơi Ngài đặt bản doanh của mình. Tại thủ đô công
trình lan rộng mau lẹ. Ngài lập thêm một trường đào tạo nữa với một trường miễn
phí cho các bạn trẻ đã đi làm việc. Khi vua Giacôbê III trao phó cho Ngài săn
sóc các thiếu niên Ai Nhĩ Lan, Ngài đã dành cho họ các giảng khoá đặc biệt theo
nhu cầu của họ.
Mục
đích tốt đẹp của Ngài bị chống đối bởi những giáo viên trường nhỏ, vì mất học
sinh và học phí. Họ kiện cáo Ngài. Trường của Ngài bị cướp phá. Ngài bị kết án
và bị cấm không được mở trường đào luyện miễn phí ở phạm vi Paris. Dĩ nhiên
Ngài cũng bị trục xuất khỏi thủ đô một thời. Nhưng công trình của Ngài đã lan rộng
sang nhiều nơi khác và những cấm đoán kia không thể phá hủy nổi.
Ở
Rouen, Ngài đã lập hai cơ sở quan trọng: một trường nội trú phải trả học phí,
cho học sinh miền quê muốn hiến thân, và một trường phục hồi cho những trẻ em bụi
đời. Cả hai đều rất thành công. Cha Gioan Baotixita trải qua những năm cuối đời
ở Rouen để kiện toàn thành tổ chức, viết luật dòng chờ các sư huynh và hai tác
phẩm Meditations (nguyện ngắm), Methode de la prière mentale (Phương pháp thực
hành tâm nguyện)
Ngài
từ trần ngày thứ sáu tuần thánh 09 tháng 04 năm 1719.
(daminhvn.net)
07
Tháng Tư
Bình An Trong Tâm Hồn
Purna,
một môn đệ của Ðức Thích Ca, xin thầy được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng
còn bán khai để tiếp tục tu luyện và truyền đạo. Nhân lời xin này, người ta ghi
lại cuộc đối thoại giữa hai thầy trò như sau: Ðức Thích Ca cho biết ý kiến:
"Nhân dân vùng Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn
ác. Bẩm tính của họ là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm
hại kẻ khác. Lúc đến đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu,
mắng chửi và vu khống con, con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Nếu thật
sự xảy ra như vậy, thì con nghĩ là: dân chúng tại đây thật tốt lành và thân thiện,
vì họ chỉ lăng mạ con chứ không dùng vũ lực, không đánh đập hay ném đá
con". Ðức Thích Ca tiếp lời: "Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném
con, thì con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Trong trường hợp đó, con
vẫn nghĩ dân chúng vùng Sronapa-Ranta thật tốt lành và thân thiện, vì họ không
cột con vào cột để đánh đòn và không dùng khí giới sắc bén để sát hại
con".
Nghe
môn đệ xác quyết như thế, Ðức Phật không khỏi ngạc nhiên; Ngài hỏi tiếp:
"Nhưng nếu họ thật sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt
lìa đời?". Không cần suy nghĩ lâu, Purna đáp: "Nếu họ hại đến tính mạng
con, con vẫn nghĩ họ là những người tốt lành và thân thiện, vì họ muốn giải
thoát con khỏi thân xác hay hư nát này". Nghe đến đây, Ðức Thích Ca bảo:
"Purna, con đã tu tâm dưỡng tính đến nơi đến chốn để có được sự ôn hòa,
kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con có thể sinh sống và truyền đạo cho dân
Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần dần giải thoát khỏi bẩm tính hiếu chiến
và bất nhân như chính con đã tự giải thoát mình khỏi những thiên kiến và những
ý nghĩ hận thù, ghen ghét".
Thiết
nghĩ tự tạo cho mình sự bình an trong tâm hồn là bổn phận của Kitô hữu chúng
ta. Và theo kinh nghiệm của tu sĩ Purna trong câu chuyện trên, để tạo cho mình
nền hòa bình này, chúng ta phải cố gắng tự giải thoát mình khỏi mọi thiên kiến,
nghi kỵ cũng như hằng ngày phải thanh luyện tâm hồn khỏi những ý nghĩ hận thù,
ghen ghét.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét