Chúa Nhật IV Mùa Chay Năm B
Bài Ðọc
I: 2 Sb 36, 14-16. 19-23
"Cơn
thịnh nộ và lòng từ bi của Chúa được tỏ bày qua sự lưu đày và giải phóng của
dân tộc".
Trích sách
Sử Biên Niên quyển thứ hai.
Trong những
ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những
sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá
tại Giêrusalem.
Chúa là
Thiên Chúa tổ phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ, vì Người
thương xót dân Người và đền thờ của Người. Nhưng họ nhạo báng các sứ giả Chúa,
coi thường lời Chúa, và nhạo báng các tiên tri, đến nỗi, sau hết, cơn thịnh nộ
của Chúa đã đổ lên dân Người, và vô phương cứu chữa. Quân thù đã đốt đền thờ
Chúa, phá huỷ tường thành Giêrusalem, phóng hoả tất cả các lâu đài và thiêu huỷ
mọi đồ vật quý giá. Nếu có ai thoát khỏi lưỡi gươm, thì bị dẫn về Babylon để
làm nô lệ nhà vua và con cái vua, cho đến thời vua nước Ba-tư thống trị; như thế
ứng nghiệm lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia mà phán, cho đến khi đất nước
được mừng ngày Sabbat; vì trong tất cả những ngày xáo trộn, họ sẽ không giữ được
ngày Sabbat trọn bảy mươi năm trường.
Năm thứ nhất
triều đại Cyrô, vua xứ Ba-tư, để lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia phán trước
được thực hiện, thì Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua
ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: "Ðây hoàng đế
Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước
trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở
Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở
với nó, và nó hãy tiến lên".
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 136, 1-2. 3. 4-5. 6
Ðáp: Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi
(c. 6a).
Xướng: 1)
Trên bờ sông Babylon ,
chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu
miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi. - Ðáp.
2) Vì nơi
này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng:
"Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion!". - Ðáp.
3) Lẽ nào
chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem,
nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét. - Ðáp.
4) Lưỡi
tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi. Nếu tôi không đặt
Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: Ep 2, 4-10
"Anh
em chết bởi tội và được cứu rỗi bởi ân sủng".
Trích thư
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em
thân mến, Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người
đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người
làm cho chúng ta sống lại trong Ðức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi;
Người đã cho chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị trên nước trời
trong Ðức Giêsu Kitô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn
Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô? Vì chưng,
bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Ðiều đó không phải do anh em, vì
đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải do việc làm, để không ai được tự phụ. Vì
chúng ta là thụ tạo của Người, đã được tạo thành trong Ðức Giêsu Kitô, để làm
các việc lành mà Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành.
Ðó là lời
Chúa.
Câu Xướng
Trước Phúc Âm: Ga 3, 16
Thiên Chúa
đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Mình, để tất cả những ai tin Con Ngài, sẽ
được sống đời đời.
Phúc Âm:
Ga 3, 14-21
"Thiên
Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy,
Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc
thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở
Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải
hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần
để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin
Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì
không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế
gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa.
Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ
những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến
cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên
Chúa".
Ðó là lời
Chúa.
Suy Niệm:
Bài Tin Mừng
hôm nay mạc khải cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Tình
yêu ấy sẽ không bao giờ phai nhạt dù cho cuộc đời có đổi thay. Tình yêu của
Thiên Chúa vẫn như mưa tưới gội trên mọi người: cả người lành cũng như kẻ ác.
Ngài không áp đặt con người phải theo Ngài. Trái lại, Ngài cho họ được quyền tự
do lựa chọn hạnh phúc cho chính mình. Vì thế, kẻ tin theo Chúa, đặt tin tưởng
vào Chúa thì đã được cứu. Còn kẻ không tin, thì tự họ, họ đã tìm đến cõi diệt
vong.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa
Giêsu, từ muôn thuở Chúa đã yêu thương và muốn cứu chuộc chúng con. Nhưng Chúa
không thể cứu được con nếu chúng con không muốn. Xin cho chúng con biết dùng tự
do của mình để chọn con đường dẫn đến phúc trường sinh. Con đường đó chính là Ðức
Giêsu. Tin vào Ðức Giêsu chắc chắn chúng con sẽ được hạnh phúc muôn đời. Amen.
Suy Niệm:
Chúa Nhật 4 Mùa Chay Năm B
2Ký sự 36,14-16.19-23; Êphêsô 2,4-10; Yoan 3,14-21
Suy niệm: Tội Lỗi Và Tình Thương
Lịch
sử Dân Chúa là một lịch sử của ân sủng và tội lỗi, trung thành và bất tín, đón
nhận và từ chối, ánh sáng và bóng đen. Ðó là lịch sử một tình thương hải hà,
nhưng vô cùng mầu nhiệm.
Sách
Khởi nguyên cho biết con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và sống
trong tình thương yêu thân thiện của Người. Nhưng ngay từ những bước đầu, tội lỗi
đã xâm nhập vào thế gian. Con người đã phản bội Chúa. Do hành vi phản bội
nguyên thủy này, tội lỗi bắt đầu thống trị. Tội phân lìa con người ra khỏi
Chúa, đẩy con người xa quỹ đạo sự sống và tình thương, biến cuộc sống con người
thành một xung khắc triền miên với bản thân, với anh em và với thế giới. Lịch sử
con người trở nên một lịch sử hận thù đầy chém giết, tham lam và tranh chấp.
Bị
dục vọng đè nén, con người không làm nổi điều thiện mình muốn, trái lại cứ lao
đầu vào hố sâu của tội ác.
Tội
lỗi mãnh liệt như một quyền lực cứ luôn đè bẹp và cầm tù con người.
Lịch
sử con cháu Ađam cho thấy tội lỗi như một vết dầu loang bao trùm cả thế giới và
vũ trụ, khiến mỗi người sinh ra trong tội (Tv 51,7).
Tội
lỗi gieo rắc mầm mống sự chết khắp nơi và biến đổi thế giới sự sống thành thế
giới u sầu tang tóc.
Nếu
chỉ dừng lại ở đây, chúng ta sẽ bi quan và thất vọng. Cuộc đời sẽ hoàn toàn vô
nghĩa và con người thà đừng sinh ra thì hơn (Yb 3,1-26).
Quả
thật tội lỗi đã khiến hình ảnh Thiên Chúa trong con người bị hoen ố. Con người
đánh mất hết những vẻ diễm lệ yêu kiều, trở nên một tạo vật xấu xí trần trụi;
thân thể đầm đìa máu me và vết tích.
Không
ai trong chúng ta có thể tự hào là đáng yêu, vì mỗi người đều đắm chìm trong tội.
Nhưng,
tình thương của Thiên Chúa thật nhiệm mầu. Người đã yêu thương ta, khi ta còn
là những kẻ có tội. Người khiến ta là những kẻ đã chết bởi sa ngã phạm tội, được
cùng hồi sinh với Ðức Kitô (Ep 2,5).
Tiên
tri Êzêkiel ví Thiên Chúa như một người qua đường thấy dân mình quằn quại trong
vũng máu, quyết đưa về tắm rửa và trang điểm, biến thành như một thiếu nữ mỹ miều
xinh đẹp (Ez 16,6-14).
Thiên
Chúa chăm sóc và nuôi dưỡng dân Người. Người để ý từng đường đi nước bước của họ.
Người trìu mến như người cha, dỗ dành như người mẹ, âu yếm như người chồng. Nhưng
dân Người lại là những kẻ tình nghĩa nhạt như nước ốc, lòng dạ bạc như vôi.
Tiên
tri Hôsê ví dân Chúa như một người vợ được chiều chuộng đủ điều, nhưng vẫn quen
thói thất trung, thích chạy theo khách mới. Thiên Chúa phải làm mọi cách cho
người vợ ấy trở về (Hs 2).
Sách
Ký sự cho thấy mọi thành phần dân Chúa đều bất tín, từ đầu mục tư tế cho đến thứ
dân đã chạy theo những ngẫu tượng của ngoại bang. Họ làm hoen ố đền thờ Chúa và
xúc phạm Danh Thánh Người.
Thiên
Chúa giàu lòng yêu thương đã sai nhiều sứ giả đến với họ, nhưng họ vẫn giả điếc
làm ngơ, và hơn thế nữa, họ còn nhạo báng, hành hạ và giết chết các tiên tri.
Thiên
Chúa, dù là Ðấng nhân ái từ bi, đã buộc lòng phải trừng phạt vì chạm trán với
lòng con người chai đá. Người cho dân đi lưu đày, mất quê hương, mất đền thờ, mất
tất cả, để từ đó họ khám phá lại những hồng ân lớn lao của Thiên Chúa.
Và
đến ngày đã định, Thiên Chúa lại đưa dân về sau khi thanh luyện họ bằng những
biến cố xảy ra trong đời họ.
Thánh
Phaolô ý thức sâu xa về thực trạng tội lỗi. Người đã kinh nghiệm về hoạt động của
tội trong chính bản thân, trong môi trường người sống và những nơi người đến
rao giảng.
Về
bản thân, người đã thốt lên những lời chua xót:
Tôi
thuộc về xác thịt, bị bán làm tôi sự tội (Rm 7,14).
Không
phải tôi hành động, nhưng chính là tội lỗi cư ngụ trong tôi (Rm 7,17).
Mọi
thứ luật khác chi phối chi thể tôi, giam cầm tôi trong tội (Rm 7,23).
Về
nhân loại nói chung, người đưa ra một ý tưởng còn táo bạo hơn nữa.
Thiên
Chúa đã đón mọi người vào đàng bất tuân, ngõ hầu dủ lòng thương hết mọi người
(Rm 11,32).
Thánh
Phaolô thấy rõ tội lỗi của riêng mình và của toàn thể nhân loại, nhưng người
cũng nhận thức được tình yêu và thượng trí của Thiên Chúa. O�i thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan và thượng trí của
Thiên Chúa (Rm 11,33).
Thiên
Chúa là Chúa của hồng ân, và "tội lỗi phát sinh càng nhiều, ân sủng càng dồi
dào gấp bội" (Rm 5,30).
Chính
Ðức Yêsu Kitô là hồng ân trọn vẹn của Thiên Chúa. Người là dấu hiệu của tình
thương. Người là chính tình thương sâu thẳm bao la của Thiên Chúa.
Tình
thương của Chúa Cha đã nhiều lần trở nên hữu hình trong lịch sử nhân loại. Tình
thương đã được tỏ bày nhờ nhiều sứ giả và qua nhiều biến cố. Và cuối cùng, tình
thương đã hoàn toàn biểu lộ trong một người, một gương mặt. Ðó là Yêsu Kitô.
"Thiên
Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình... để thế gian nhờ Người
mà được cứu độ..." (Yn 3,16).
"Thiên
Chúa đã không dung tha chính Con mình, nhưng lại trao phó Người cho tất cả
chúng ta" (Rm 8,32).
Chúa
Cha đã biểu lộ tình thương đối với loài người đến mức tối đa trong Ðức Yêsu
Kitô, Con của Người. Và chính Ðức Yêsu Kitô cũng đã yêu thương chúng ta đến
cùng độ:
"Không
có tình thương nào lớn hơn tình thương của người chịu chết vì kẻ mình yêu
thương" (Yn 15,13).
Ðức
Yêsu chấp nhận chịu treo trên Thập giá để sức mạnh tình yêu có thể kéo mọi người
lên với mình, nhưng với điều kiện là con người phải nhìn lên Thập giá và tin
vào Người.
Tình
thương không bao giờ cưỡng bách, nhưng đòi hỏi một thái độ rõ rệt đón nhận hay
khước từ.
Ðức
Yêsu Kitô đến, không để luận phạt thế gian, nhưng để cho thế gian được cứu rỗi.
Ai
tin, nghĩa là đón nhận tình thương, thì được sống; ai không tin thì tự hủy diệt
mình vì đã từ chối sự thật và ánh sáng.
Ðức
Yêsu Kitô là dấu chỉ trọn vẹn tình thương của Chúa Cha, nên chỉ một mình Người
có quyền đòi hỏi thái độ dứt khoát:
"Ai không theo Ta là chống lại
Ta".
Ai không chọn yêu thương thì không ở
trong Thiên Chúa, nhưng sa lầy trong tội.
Ðối với Người, chúng ta không có con
đường thứ ba.
Giảng Lễ
"Thiên Chúa đã sai Con Một Người
xuống thế, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người mà được cứu
rỗi".
Ðó là nội dung Tin Mừng của Chúa nhật
hôm nay. Tin Mừng đó đã được chuẩn bị từ thời Cựu Ước, nhưng chỉ được thực hiện
từ thời Ðức Kitô.
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng
nhiều người, nhiều cách để loan báo ơn cứu độ mà Người sẽ thực hiện ở nơi Con Một
là Ðức Yêsu Kitô. Người đã tỏ rõ ý chí của Người thương yêu nhân loại, không muốn
thấy nhân loại chết đi như trong vụ đại hồng thủy nữa, nên đã ký kết một giao ước
tình thương với gia tộc Noe, như ta đã nghe đọc trong Chúa nhật thứ nhất mùa
Chay. Nhưng con cháu Noe đã không trung thành sống theo giao ước. Thiên Chúa
không vì vậy mà bỏ kế hoạch tình thương. Người chọn một ngành trong gia tộc Noe
để thực thi ý định. Abraham đã được chọn như Chúa nhật II mùa Chay còn nhắc lại.
Và đến khi con cái Abraham đã trở nên đông đúc, Thiên Chúa quy tụ họ lại thành
dân tộc, gọi là Dân riêng của Chúa. Và Chúa nhật III mùa Chay cho ta thấy Người
ban hiến pháp giao ước cho dân tộc ấy. Tình thương của Người cứ bị họ lạm dụng.
Ngay cả hàng tư tế trong dân cũng làm đủ điều ghê tởm, khiến chính đền thờ
Yêrusalem đã trở nên ô uế. Nếp sống đồi trụy ấy dĩ nhiên đã mở đường cho địch
quân xông vào tàn phá vườn nho của Chúa. Nhưng Chúa vẫn không quên lời giao ước.
Bài đọc I hôm nay cho ta thấy Người dùng Cyrus khôi phục lại thánh đường
Yêrusalem và dựng lại nước Israel. Cyrus, Môsê, Abraham, Noe chẳng qua chỉ là
những hình ảnh báo trước việc chính Con Một Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc
nhân loại. Và lần này phải dứt khoát và vĩnh viễn. Thế nên trong bữa tiệc ly
chúng ta cử hành bây giờ qua thánh lễ, Ðức Kitô Cứu thế đã tuyên bố: Chén Máu
Ngài cầm trong tay là chén Tân Ước vĩnh cửu, là Giao ước mới mẻ và vĩnh viễn.
Chúng ta cử hành thánh lễ, là kỷ niệm và đúc kết lại tất cả con đường lịch sử cứu
chuộc mà Thiên Chúa đã đi để cứu vớt loài người, hầu đưa họ vào tình thân mật
thánh thiện, làm nên hạnh phúc cho chính họ. Ý thức nội dung của thánh lễ như vậy,
chúng ta phải cố gắng để cử hành cho thật trang trọng và sâu xa. Và chỉ có một
cách cử hành tốt, là đón nhận Ðức Kitô và kết hợp hoàn toàn với Người trong mầu
nhiệm cứu thế.
Thế mà như lời Phúc Âm hôm nay viết:
có nhiều người không đón nhận Ðức Kitô là Cứu thế, vì họ sợ ánh sáng, sợ công
việc tối tăm của họ bị lộ tẩy khi tiếp xúc với ánh sáng. Họ muốn trốn ánh sáng,
nhưng không thể trốn nổi, vì ánh sáng đã đến trong thế gian. Chúa đã đem lời
Phúc Âm từ trời xuống; và lời Phúc Âm đã được rao giảng đến tai họ. Họ càng nhắm
mắt lại, ánh sáng của Lời Chúa càng chiếu soi trong lòng họ, khiến họ phải nhận
ra mình đang còn nhiều nết xấu, còn nhiều điều lệch lạc và phải canh tân sửa
mình. Nhiều người sợ ánh sáng của Chúa chiếu soi lương tâm, nên tìm cách lo
nghĩ những công việc thế tục hầu để lương tâm mình nằm yên trong tối tăm. Những
người ấy không đón nhận ánh sáng, không đón nhận Chúa Yêsu. Họ dự lễ, rước lễ
như để Chúa ở bên ngoài tâm hồn và đời sống. Ra khỏi nhà thờ, họ quên ngay những
lời Thánh Kinh đã nghe và không còn nhớ Chúa ở trong tâm hồn mình nữa. Họ sẽ chạy
theo hết mọi tiêu chuẩn của thế gian, khiến họ có đạo cũng dường như không có.
Nhưng ai đón nhận ánh sáng thì khác hẳn. Họ sẽ đưa lời Kinh Thánh vừa nghe đọc
vào trong mình; họ sẽ nhờ Chúa Thánh Thể đã ngự vào lòng họ. Sự hiện diện của Lời
Chúa và của Thánh Thể sẽ soi sáng lương tâm. Tối tăm sẽ dần dần dẹp đi và tâm hồn
sẽ trong sáng, đời sống họ sẽ trong sạch. Ðàng rằng ánh sáng của Chúa luôn cho
ta thấy mình còn tội lỗi và khuyết điểm. Nhưng đó là thứ ánh sáng chữa lành mọi
vết thương, giống như những người Dothái ngày trước nhìn vào con rắn đồng, đều
được cứu sống. Bởi vì khi ánh sáng của Chúa soi cho lương tâm biết tội lỗi của
mình, thì đồng thời nó cũng cho ta thấy những tội lỗi ấy có thể được đóng đinh
trên thập giá Chúa Kitô. Và như vậy tự nhiên ta sẽ cầu xin Ðức Kitô ở trên thập
giá tiêu diệt giúp tội lỗi cho ta và ta sẽ cảm thấy được lành mạnh.
Mùa
Chay đang đi dần vào tuần Thương khó. Phụng vụ muốn ta chiêm ngưỡng thập giá
Chúa Kitô. Như Môsê đã treo con rắn đồng lên để người Dothái nhìn vào hầu được
cứu sống; thánh giá ngày này là nguồn ơn cứu độ mọi người, miễn là người ta thấy
cần và muốn được cứu rỗi. Chúng ta không thể hưởng nhờ mọi ân phúc của mùa
Chay, nếu không nhìn lên thánh giá như những người đang đau đớn vì tội lỗi. Việc
xưng tội trong mùa Chay cần là vì thế. Việc kiểm điểm đời sống để chừa bỏ nết xấu
là cùng chết với Ðức Kitô trong mầu nhiệm thương khó, hầu được sống lại với Người.
Chúng ta đừng làm công việc thống hối, ăn năn với sức lực của mình. Bài thơ
Phaolô đã nói rõ. Ơn cứu độ không đến với chúng ta qua sự nghiệp của ta đâu,
nhưng qua niềm tin, tin vào lòng lân tuất của Chúa đã cứu ta qua mầu nhiệm tử nạn
của Con Ngài. Chính đường lối cứu chuộc này khiến việc xét tội, ăn năn của ta
không còn phải chỉ là một công việc nặng nề và tiêu cực. Nhưng khi xét tội ăn
năn mà nhớ tới lòng Chúa đã rộng rãi với ta qua sự chết của Con Ngài, sẽ khiến
công việc diệt tội của ta đã được nâng đỡ bằng mầu nhiệm Phục sinh rồi. Nói như
vậy không phải để chúng ta làm công việc xét tội, ăn năn, dốc lòng một cách hời
hợt. Ngược lại, nhìn vào thánh giá Ðức Kitô như nơi phải đóng đinh tội lỗi,
chúng ta biết phải ăn năn thống hối thế nào mới được kết quả. Người muốn được
ơn tha thứ và trở nên thánh thiện, phải đặt tất cả niềm tin vào thập giá Ðức Kitô
và như vậy phải muốn tiêu diệt tội lỗi như Người. Người chấp nhận đóng đinh
trong tình yêu mến Chúa Cha và thương xót loài người. Chúng ta cũng phải tiêu
diệt tội lỗi với ý hướng mến Chúa và thương yêu đồng loại hơn. Nỗ lực canh tân
đời sống, có nằm trong chiều hướng cứu thế, mới đóng góp, tham dự vào mầu nhiệm
thánh giá và mới đưa tới việc tham dự vào mầu nhiệm Phục sinh.
Thế
nên ta phải gia tăng lòng mến để đi vào các tuần thương khó. Ta phải chia sẻ
lòng Chúa Cha thương yêu muốn cho loài người được hạnh phúc, để bằng lòng kết hợp
với Ðức Kitô trong mầu nhiệm chết cho tội lỗi.
Mầu
nhiệm này ta sắp cử hành nơi bàn thờ. Thánh lễ hôm nay cũng như mọi thánh lễ,
kêu gọi ta nhìn vào mầu nhiệm thánh giá như bằng chứng Chúa thương yêu loài người
nên chịu chết cho loài người, để ta tham dự vào tình yêu ấy mà muốn canh tân đời
sống để thế giới được hạnh phúc và thánh thiện hơn.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Thiên Chúa yêu thế gian đến
nỗi đã ban Con Một (Ga 3,16)
Suy niệm:
Chân lý gây xúc động
sâu xa nhất mà Giáo Hội hằng rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu
thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín vững chắc
rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế giới đau khổ bệnh tật này qua con người
Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin Mừng. Không có đoạn
văn nào trong Kinh Thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Chúa Giêsu nói với ông
cụ Nicôđêmô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một mình,
ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sự sống vinh cửu."
Tình yêu chúng ta đối
với tha nhân không phát xuất từ đâu khác hơn là tình yêu Thiên Chúa đối với
chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa dành cho thế gian này bao la bát ngát đến nỗi
Ngài hiến tặng mạng sống mình cho tất cả, chẳng loại trừ ai... Thiên Chúa yêu
thương từng người trong chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu
thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời,
và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đi đó ai nấy đều an toàn trở về
mái ấm gia đình.
Chính khi nhìn vào thập
tự giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm
bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình
yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen
ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất,
trên ngọn đồi Canvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương
khó và tử nạn của Chúa Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng
cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của
tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới.
Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
Bài đọc thứ nhất cho
chúng ta biết dân Do Thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc tình yêu của Thiên
Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền
thờ và thành thánh. Nhiều ngôn sứ đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi
cách sống, nhưng vẫn hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những
giờ phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài
nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa. Lịch sử dân Do
thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta biết những gì sẽ xảy ra mỗi
khi chúng ta phũ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho
chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta cũng phải đối diện với việc chọn lựa đón nhận
hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào
một tình thế nguy hiểm là sống chia lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng
tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược
với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như
quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng với tình yêu của Thiên
Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
Hôm nay chúng ta đã
đi được nửa con đường mùa Chay. Đây là lúc chúng ta duyệt xét lại những dốc
lòng hồi đầu mùa Chay, và tự hỏi cuộc sống chúng ta đã hân hoan đáp lại tình
yêu Thiên Chúa chưa? Tình yêu của Ngài có tìm được cách diễn tả qua nếp sống
chúng ta chưa? Chúng ta đang làm gì để mang tình yêu của Ngài vào cuộc đời của
bạn bè chúng ta? Mùa Chay là một lời mời gọi chúng ta bước ra khỏi nơi tối tăm
của tội lỗi mà bước vào ánh sáng kỳ diệu của Đức Kitô.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho mỗi
người chúng con biết dùng thời gian thuận lợi của Mùa Chay này để cảm nghiệm hồng
ân cứu độ mà Ðức Giêsu đã mang đến cho tất cả mọi người và tin tưởng vào Người
để được sống đời đời.
Suy Niệm
Cúp điện bất ngờ là điều gây khó chịu.
Trong bóng tối, người ta đi tìm hộp quẹt, tìm ánh sáng
để thắp lên một ngọn nến, một cái đèn dầu.
Nói chung chẳng ai thích bóng tối,
vì bóng tối là dấu hiệu của lạc hậu, thiếu văn minh.
Ấy thế mà cũng có những người mê bóng tối.
Bóng tối của quán bia ôm, của Karaokê, của sàn nhảy…
Phải bỏ tiền ra để mua được bóng tối.
Bóng tối đồng lõa, che đậy, lấp liếm, làm mặt nạ.
Bóng tối trong tâm hồn cần có bóng tối ở ngoài.
Nó sợ ánh sáng làm lộ chân tướng.
“Ánh sáng đã đến thế gian,
nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng,
vì các việc họ làm đều xấu xa.”
Ghét ánh sáng, chuộng bóng tối:
đó là thảm kịch nơi lòng con người,
bởi lẽ con người được sinh ra để sống cho ánh sáng.
Trong bóng tối, người ta đi tìm hộp quẹt, tìm ánh sáng
để thắp lên một ngọn nến, một cái đèn dầu.
Nói chung chẳng ai thích bóng tối,
vì bóng tối là dấu hiệu của lạc hậu, thiếu văn minh.
Ấy thế mà cũng có những người mê bóng tối.
Bóng tối của quán bia ôm, của Karaokê, của sàn nhảy…
Phải bỏ tiền ra để mua được bóng tối.
Bóng tối đồng lõa, che đậy, lấp liếm, làm mặt nạ.
Bóng tối trong tâm hồn cần có bóng tối ở ngoài.
Nó sợ ánh sáng làm lộ chân tướng.
“Ánh sáng đã đến thế gian,
nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng,
vì các việc họ làm đều xấu xa.”
Ghét ánh sáng, chuộng bóng tối:
đó là thảm kịch nơi lòng con người,
bởi lẽ con người được sinh ra để sống cho ánh sáng.
Lắm khi người ta từ chối tin vào Ðức Kitô,
từ chối đến với ánh sáng và sự thật,
chỉ vì đời họ chìm trong bóng tối và giả trá.
Những lý do biện minh cho sự từ chối này
thường đến sau khi đã chọn lựa.
Cần thay đổi cuộc sống để tin hơn vào Thiên Chúa,
nhưng cũng cần can đảm đến với ánh sáng
dù biết mình đang chìm trong bóng tối;
hay đúng hơn, vì biết mình nô lệ cho bóng tối
mà ta khao khát vươn tới ánh sáng.
Ðừng trốn chạy ánh sáng như Ađam, Evà.
Hãy để cho ánh sáng vén mở chính mình,
bắt ta đối diện với sự thật trần trụi về mình,
để rồi ta được rực rỡ trong niềm vui.
Chỉ có một cách ra khỏi bóng tối
đó là trở lại với ánh sáng,
bằng cách ngước nhìn lên…
Dân Do Thái xưa trong sa mạc đã được chữa lành
nhờ tin tưởng nhìn lên con rắn đồng treo trên cây gỗ.
Ngày nay, chúng ta được cứu độ, được sự sống đời đời
nhờ tin tưởng nhìn lên Ðức Giêsu bị treo trên thập giá.
Thập giá là tột cùng của nhục nhã đớn đau,
nhưng cũng là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu.
Kitô hữu không phải là người tôn thờ đau khổ,
nhưng là người say mê tình yêu:
tình yêu của Cha khi trao ban người Con yêu dấu,
tình yêu của Con khi hiến tặng mạng sống mình.
Nhiều nơi đã đặt tượng Chúa phục sinh trên thập giá,
nhờ đó bầu khí nhà thờ tươi vui hơn.
Nhưng ta vẫn không được quên nhìn lên
thân xác bầm tím nát tan của Ðức Giêsu trên Núi Sọ.
từ chối đến với ánh sáng và sự thật,
chỉ vì đời họ chìm trong bóng tối và giả trá.
Những lý do biện minh cho sự từ chối này
thường đến sau khi đã chọn lựa.
Cần thay đổi cuộc sống để tin hơn vào Thiên Chúa,
nhưng cũng cần can đảm đến với ánh sáng
dù biết mình đang chìm trong bóng tối;
hay đúng hơn, vì biết mình nô lệ cho bóng tối
mà ta khao khát vươn tới ánh sáng.
Ðừng trốn chạy ánh sáng như Ađam, Evà.
Hãy để cho ánh sáng vén mở chính mình,
bắt ta đối diện với sự thật trần trụi về mình,
để rồi ta được rực rỡ trong niềm vui.
Chỉ có một cách ra khỏi bóng tối
đó là trở lại với ánh sáng,
bằng cách ngước nhìn lên…
Dân Do Thái xưa trong sa mạc đã được chữa lành
nhờ tin tưởng nhìn lên con rắn đồng treo trên cây gỗ.
Ngày nay, chúng ta được cứu độ, được sự sống đời đời
nhờ tin tưởng nhìn lên Ðức Giêsu bị treo trên thập giá.
Thập giá là tột cùng của nhục nhã đớn đau,
nhưng cũng là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu.
Kitô hữu không phải là người tôn thờ đau khổ,
nhưng là người say mê tình yêu:
tình yêu của Cha khi trao ban người Con yêu dấu,
tình yêu của Con khi hiến tặng mạng sống mình.
Nhiều nơi đã đặt tượng Chúa phục sinh trên thập giá,
nhờ đó bầu khí nhà thờ tươi vui hơn.
Nhưng ta vẫn không được quên nhìn lên
thân xác bầm tím nát tan của Ðức Giêsu trên Núi Sọ.
Ước gì tôi biết nhìn lên tình yêu bị treo
và trở lại với ánh sáng
để ánh sáng đưa tôi vào sâu hơn trong tình yêu.
và trở lại với ánh sáng
để ánh sáng đưa tôi vào sâu hơn trong tình yêu.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
tạ ơn Chúa đã cho chúng con
ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
tạ ơn Chúa đã cho chúng con
ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa
vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng/
Ðó là vinh dự
và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng/
Ðó là vinh dự
và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối
của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất vọng.
của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi sáng của Chúa
qua từng giây phút của cuộc sống.
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi sáng của Chúa
qua từng giây phút của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn
trên thế giới và trong lòng chúng con.
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn
trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con
đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
18/03/2012
CHÚA NHẬT TUẦN 4 MC – B
Ga 3,14-21
Ga 3,14-21
CÓ MỘT
TÌNH YÊU NHƯ THẾ!
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người... được sống muôn đời.” (Ga 3,17)
Suy niệm: Khi yêu thương đạt đến mức tuyệt đỉnh, người ta không còn dè giữ, tiếc nuối, nhưng sẵn sàng“rút ruột” trao tặng những gì quí giá nhất của mình. Với Chúa Cha, tột đỉnh của tình thương nhân loại là trao tặng Con Một mình cho họ, cho dù nhân loại ấy chẳng tốt lành gì. Đến lượt mình, Chúa Con lại cũng yêu thương nhân loại đến nỗi trao ban cho họ mạng sống quí giá, chịu giương cao trên thập tự để nói cho nhân loại biết Thiên Chúa là Tình Yêu và “yêu đến cùng” (Ga 13,1). “Tình Yêu đã tận dụng hết mọi khả năng để cứu con người. Tình Yêu đã làm cho nhân loại không còn là một nhân loại mất đi, bị kết án, nhưng là một nhân loại được cứu thoát” (A. Degeest).
Mời Bạn: Tình yêu ấy chỉ hữu hiệu cho bạn khi nào bạn tin vào Chúa Giêsu và bước theo Ngài. Cùng với thánh Phaolô, phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi Kitô hữu chúng ta nhận ra “ân sủng dồi dào phong phú” của Thiên Chúa qua Đức Kitô, “để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2,10).
Sống Lời Chúa: Trong hai tuần còn lại của Mùa Chay, tôi sẽ bày tỏ niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho mình qua việc dành thời gian sốt sắng cầu nguyện, chay tịnh miệng lưỡi và chia sẻ thời giờ, sự quan tâm, vật chất (nếu có thể) với người lân cận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con thường chọn mình và từ chối tình thương của Chúa. Xin nâng đỡ chúng con mỗi ngày, để chúng con lặp lại niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự hiến để giao hòa mỗi người chúng con với Chúa. Amen.
Lời
Chúa Trong Gia Đình
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY, 2Sb 36, 14-16.19-23;
Ep 2, 4-10; Ga 3, 14-21.
LỜI SUY NIỆM: “Như ông Mô-sê đã giương
cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin
vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3,14-15)
Chúa
Giêsu đưa ra hình ảnh con rắn đồng được giương cao trong sa mạc, không một người
Do-thái nào không biết. - Hình ảnh này đã in đậm vào trong tâm khảm của mọi người
Do-thái. Nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu chữa, đem lại sự sống sau khi bị rắn
cắn. Nhưng đối với Chúa Giêsu khi Ngài được giương cao trên Thập giá, cũng như
khi Ngài được giương cao trong sự phục sinh của Ngài. Những ai tin Ngài là Đấng
Cứu Thế, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật thì được chữa lành mọi tội lỗi
và được sự sống đời đời, hưởng trọn hạnh phúc vĩnh cửu, nơi không còn sự chết
và đau khổ, nơi toàn là ánh sáng không còn một bóng tối, nơi mà mọi con người kết
hợp nên một trong một tình yêu thương nhau có Chúa.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
18
Tháng Ba
Ðất
Thánh
Một
giáo xứ miền quê nọ đã được thành lập từ lâu, nhưng chưa có được một ngôi nhà
thờ xây cất hẳn hoi. Giáo dân lại nằm rải rác trong hai ngôi làng sát cạnh
nhau. Khát vọng duy nhất của giáo dân là được có nơi thờ phượng đàng hoàng... Với
sự hăng say bộc phát của những người nông dân, mọi người đã quảng đại đáp lại lời
kêu gọi của các chức sắc trong giáo xứ: kẻ góp tiền, người cho vật dụng... Thế
nhưng vấn đề cơ bản vẫn là: đâu là địa điểm xứng hợp nhất để xây cất nhà thờ.
Người trong làng này thì muốn ngôi nhà thờ tọa lạc trong làng của mình. Người
bên làng kia thì lại muốn ngôi nhà thờ được xây cất gần bên chỗ mình ở. Thế là
hai bên cứ tranh luận, không bên nào muốn nhường bên nào. Tiền đã có sẵn, vật dụng
cũng đã đầy đủ, nhưng không biết phải đặt viên đá đầu tiên bên làng nào.
Giữa
lúc vấn đề địa điểm chưa ngã ngũ, thì một vấn đề lớn lại xảy ra: một nạn hạn
hán trầm trọng đe dọa dân chúng trong cả hai làng. Thế là người ta chỉ còn nghĩ
đến việc chống hạn hán hơn là xây cất nhà thờ. Nhưng sức người có hạn, việc dẫn
thủy nhập điền không đạt được chỉ tiêu. Năm đó, toàn dân trong hai làng đều phải
chịu cảnh đói khát.
Sống
bên cạnh nhau, cho nên mặc dù ngăn cách về hành chính, dân hai làng vẫn coi
nhau như bà con ruột thịt... Có hai gia đình nông dân nọ rất mực thương nhau và
tương trợ nhau. Một người bên làng này luôn nghĩ đến cảnh đói khổ mà người bạn
bên làng kia đang phải chịu. Thế là một đêm nọ, anh đã phân chia phần lúa thóc
thu hoạch được trong vụ mùa vừa qua và lặng lẽ vác lên vai để mang qua cứu trợ
người bạn của làng bên cạnh... Trong khi đó thì người bạn bên làng bên cạnh
cũng có một ý nghĩ tương tự. Anh cũng hành động y như người bạn của mình. Cũng
chính đêm hôm đó, anh đã sớt bớt phần lúa của mình để mang qua biếu người bạn ở
làng kế bên... Giữa đêm tối, không hẹn hò, hai người bạn đã gặp nhau trong cùng
một ý nghĩ và hành động. Không cần một lời giải thích, không cần một lời chào hỏi,
hai người đã hiểu nhau: Họ bỏ bao lúa xuống đất và ôm trầm lấy nhau... Ðiểm gặp
gỡ của tình bạn, của tình tương thân tương ái, của tình liên đới, của chia sẻ ấy
đã được giáo dân của hai ngôi làng gọi là đất Thánh và không cần phải mất nhiều
thủ tục để giải quyết, họ đã đồng thanh chọn địa điểm ấy làm nơi xây cất nhà thờ.
Nhà thờ là nơi hẹn hò: hẹn
hò với Thiên Chúa, hẹn hò với con người. Không ai đến nhà thờ mà không tìm gặp
được sức mạnh từ chính Chúa, sự an ủi đỡ nâng từ những người anh em của mình...
Do đó, nhà thờ phải là điểm đến của mọi nẻo đường, nhà thờ phải là nơi hội tụ của
mọi xây dựng, nhà thờ phải là giải đáp của mọi tranh luận... Người ta không thể
xây dựng những ngôi nhà thờ nguy nga tráng lệ mà lại làm ngơ trước những người
đang dẫy chết bên cạnh. Người ta không thể nhắm mắt đi đến nhà thờ trong khi
bên lề đường có bao nhiêu kẻ lê lết trong đói khổ... Phải chăng, nhà thờ chỉ có
thể xây dựng ngay chính trên đất Thánh của chia sẻ, của san sớt, của tình liên
đới mà thôi? Phải chăng, việc đi đến nhà thờ cũng chỉ có ý nghĩa khi nó là điểm
đến, là biểu trưng của chính những viên gạch bác ái mà người ta không ngừng xây
dựng trong cuộc sống hằng ngày?
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật IV Mùa Chay, Năm B
Bài đọc: II
Chro 36:14-17, 19-23; Eph 2:4-10; Jn 3:14-21.
1/ Bài đọc I:
14 Tất cả các thủ
lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo
mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế. 15 Đức Chúa, Thiên
Chúa của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì
Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. 16 Nhưng họ nhạo cười
các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của
Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương
cứu chữa.
17 Đức Chúa để cho
vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong
Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu
xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Canđê. 19 Quân Canđê đốt Nhà
Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong
thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. 20 Những ai còn sót lại
không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon ;
họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Batư ngự trị. 21 Thế là ứng nghiệm
lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng
bù những năm sabát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy
mươi năm tròn. 22 Năm thứ nhất thời vua Cyrô trị vì nước
Ba-tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm,
Đức Chúa tác động trên tâm trí Cyrô, vua Batư. Vua thông báo cho toàn vương quốc
và ra sắc chỉ như sau: 23 "Cyrô, vua Batư, phán thế này:
" Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất.
Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Jerusalem tại Judah . Vậy ai trong các ngươi thuộc
dân của Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến
lên!"
2/ Bài đọc II:
4 Nhưng Thiên Chúa
giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, 5 nên dầu chúng ta
đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô.
Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! 6 Người đã cho chúng
ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời. 7 Như thế, Người tỏ
lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Ki-tô Giê-su, để biểu lộ cho
các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người.8 Quả
vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi
sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; 9 cũng không phải bởi
việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. 10 Thật thế, chúng ta
là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống
mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.
3/ Phúc Âm:
14 Như ông Mô-sê đã
giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, 15 để ai tin vào Người
thì được sống muôn đời. 16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã
ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời.17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,
không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được
cứu độ. 18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên
án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một
Thiên Chúa.19 Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng
người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. 20 Quả thật, ai làm
điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi
bị chê trách. 21 Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng
ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong
Thiên Chúa."
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tình thương Thiên Chúa
cứu chuộc con người.
Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại
sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc
như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào
Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng
thương xót.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc
I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục
con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra
lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc
II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến
cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn
Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án
thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Tiến
trình giáo dục của Thiên Chúa.
1.1/ Ngài dạy dỗ và cảnh cáo con người:
- Con người phạm nhiều tội và nhiều lần. Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng
quát các tội: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm
bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức
Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem
ra ô uế.”
- Sai nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề Luật,
họ đã biết những gì họ phải làm và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ cẩn thận
các Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình thương, “Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ giả
của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người.
Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu
các ngôn sứ của Người.”
1.2/ Ngài sửa phạt dân như lời Ngài đã cảnh cáo:
- Sau khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật và các Ngôn-sứ, và họ cố
chấp không chịu nghe lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi để sửa phạt
dân: “Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các
thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh
niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào
tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem , phóng hoả đốt
các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại
không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon ;
họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự
trị.”
- Mục đích của việc sửa phạt là để cho dân nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó,
chứ không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà để cho chết. Nếu Thiên Chúa không
sửa phạt, dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi Thiên Chúa sửa phạt, một
số sẽ nhận ra tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình trở lại với Ngài, để được
Ngài xót thương. Như vậy, hình phạt cần thiết để tạo nên sự thống hối ăn năn,
và để ngăn ngừa dân khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái chết.
1.3/ Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương:
- Thiên Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra tội của họ và thực
lòng ăn năn thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi hình phạt họ đang chịu.
Ngài xót thương vì Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình phải
hư mất. Ngài hòan lại tất cả những gì con cái Israel đã mất: quê hương, Đền Thờ,
và Lời Hứa với các Tổ-phụ.
- Thiên Chúa có tòan quyền trên tất cả quyền lực của thế gian: Điều này chứng tỏ
qua các sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi để sửa phạt dân; khi dùng
xong, Ngài bẻ gãy chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua Ba-tư. Chính Vua
này lại trở thành khí cụ Chúa dùng để phóng thích dân Do-thái, cho về để tái
thiết lại quốc gia và Đền Thờ. Điều này đã được Thiên Chúa báo trước qua lời
ngôn sứ Jeremiah; để khi xảy ra, dân chúng biết đó không phải là chuyện tình cờ,
nhưng đã được xếp đặt trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.
2/
Bài đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với
chúng ta trong Đức Kitô Giêsu.
2.1/ Thiên Chúa tỏ tình yêu cho con người qua Đức Kitô:
- Đức Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi
làm con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô đến để mời gọi con người
quay về với tình yêu Thiên Chúa.
- Ngài nâng cao địa vị và phẩm giá con người: “Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu
thương họ.” Tội lỗi làm mất đi các đặc quyền con người được hưởng như một người
con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến để phục hồi cho con người quyền làm con. Dụ
ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ ràng điều này.
- Ngài hướng lòng con người lên những điều tốt lành thánh thiện và giải thóat
con người khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người cảm nghiệm được tình
thương Thiên Chúa.
- Ngài cứu con người khỏi chết và cho con người được cùng sống lại với Đức
Kitô. Chính do Đức Kitô mà con người đạt được đích điểm Thiên Chúa đã phác họa
cho con người.
2.2/ Chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:
- Hòan tòan là do bởi ân sủng của Thiên Chúa: Con người không thể làm gì để đạt
Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội, và như một hậu quả, tất cả đều đáng phải chết.
Nhưng tại sao con người không phải chết là hòan tòan do lòng thương xót của
Thiên Chúa: Ngài cho Người Con Một của mình để chết thay cho nhân lọai. Điều
Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào Người Con; và qua niềm tin này,
con người sẽ nhận được Ơn Cứu Độ: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà
anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên
Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.”
- Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa: “Chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô
Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng
ta.” Như nguyện ước của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn con nên người
và đạt được mọi kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp con đạt được những kỳ vọng này,
họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng thế, Ngài cho con người ra đời là
muốn tất cả đạt tới Ơn Cứu Độ. Để giúp con người đạt đích, Ngài sẵn sàng hy
sinh tất cả, ngay cả việc cho đi chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.
3/
Phúc Âm: Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người.
3.1/ Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu
dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước về Cuộc
Khổ Nạn của Người:
- Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết
(Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng
sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.
- Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng
trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải
tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương
Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính
Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
3.2/ Thiên Chúa không kết án thế gian, con người lên án chính mình:
- Tình thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục đích của việc Chúa Cha sai
Người Con tới là để gánh tội và chết cho con người: “Quả vậy, Thiên Chúa sai
Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế
gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
- Con người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên Chúa, và không tin vào
Đức Kitô: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin,
thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”
3.3/ Bản án của con người: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng
người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.”
- Ánh sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn Cứu Độ của Thiên
Chúa. Khi Đức Kitô đến, Ngài buộc con người phải làm quyết định: tin hay không
tin vào Ngài. Bóng tối là tội lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.
- Con người có tự do lựa chọn: Họ có thể chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong
bóng tối, chọn Thiên Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng nào, con người
phải chấp nhận hậu quả của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người tới Ơn Cứu Độ; chọn
bóng tối sẽ làm cho con người phải chết muôn đời. Con người lên án chính mình bằng
ngoan cố ở trong bóng tối.
- Theo Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ phán xét chính mình.
Con người cũng chẳng cần phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người lựa chọn ở
trong bóng tối là con người tuyên án cho chính mình (Realized eschatology,
“phán xét ngay hiện tại” là thế). Phán xét tương lại hòan tòan tùy thuộc vào phán
xét hiện tại.
- Kẻ làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ nếu ra ngòai ánh sáng, các
tội lỗi của mình sẽ bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận ra vì đa số các tội
ác xảy ra ban đêm và những chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin Mừng hôm nay:
“Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các
việc họ làm khỏi bị chê trách.”
- Ngược lại, người làm điều chân thật lại thích ở trong ánh sáng để tránh mọi
nguy hiểm do bóng tối mang lại: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh
sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên
Chúa.”
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tiến trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra tiến trình giáo dục của
Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình
giáo dục.
- Ngay cả khi xử dụng hình phạt, tình thương của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu
không có hình phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi lầm của mình.
- Cần nhìn tòan thể Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trước khi con người có thể
phê bình cách thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến cố, con người dễ mất
niềm tin nơi Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Ngày 18
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY
Thánh Cyrillô, giám mục, tiến sĩ Hội thánh
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY
Thánh Cyrillô, giám mục, tiến sĩ Hội thánh
Phúc Âm làm nổi bật những điều này: ánh sáng, chân lý, tình yêu,
mà chúng ta không có khả năng để xác định, như những gì được chứa chất sâu xa
và ý nghĩa đích thực. Thánh Gioan, ngay trong những dòng chữ đầu, đã ca tụng
"ánh sáng đích thực" mà 'bóng tối không thể ngăn chặn được". Ánh sáng, chân lý mà chúng ta dịch: thấy
rõ ràng, học hỏi, hiểu, giải thích tất cả ngay cả vũ trụ. Chúng ta muốn những ánh sáng dứt
khoát, như được hứa trong các sách; những điều này cũng khó nắm bắt Phúc Âm không phải như thế. Ánh sáng
mà Phúc Âm hứa, soi sáng ở mức độ cao không dập tắt những kiến thức của chúng
ta và ánh sáng đến từ Đấng xác quyê't: "Tôi là chân lý".
Trong Người, chân lý tỏ lộ trọn vẹn. Trong Người, không phải chỉ
những gì Người nói, nhưng cả những gì Người sống. Chân lý có một tên thần linh:
tình yêu. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến độ ban Con của Người. Người cho
chiếu rọi bằng ánh sáng rạng rỡ nhưng còn ẩn kín qua mầu nhiệm Nhập Thể; không
còn ánh sáng nào khác nữa. Bị đưa lên cao, được tôn vinh trước mắt những người
đã thấy Người, Người ban cho họ một sự chọn lựa cuối cùng: đi đến với ánh sáng
hay bước vào đêm tối. Đức tin quyết định cuộc sống hay cái chết. Tình yêu của
Thiên Chúa nơi Con của Người, ban cho tín hữu chân lý làm người của Người.
Lucien Guissard - (Bayard)
18-3
Thánh Cyril ở Giêrusalem
(315? - 386)
Những khó khăn trong Giáo Hội ngày nay chỉ là thiểu số so với các
chấn động của lạc giáo Arian thời ấy khi họ từ chối thiên tính của Ðức Kitô.
Thánh Cyril bị vướng vào vòng tranh luận, bị Thánh Giêrôme kết án là người theo
tà thuyết Arian và sau cùng ngài đã được thanh minh bởi những người của thời ấy
và được tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1822.
Chúng ta không biết nhiều về cuộc đời thơ ấu của Thánh Cyril. Các
sử gia ước đoán ngài sinh trong khoảng năm 315, và lớn lên ở Giêrusalem. Về gia
đình ngài, có lẽ cha mẹ ngài là Kitô Hữu và dường như ngài rất thảo kính cha mẹ.
Ngài thúc giục các dự tòng kính trọng các bậc sinh thành "vì dù chúng ta
có đền đáp thế nào đi nữa, cũng không thể nào bù đắp được công ơn sinh thành của
cha mẹ." Chúng ta còn được biết ngài có một em gái và một cháu trai,
Gelasius, sau này là giám mục và là thánh.
Qua các văn bút ngài để lại, dường như ngài thuộc về nhóm gọi là
Solitary (Ðộc Thân). Họ là những người sống tại gia nhưng giữ đức khiết tịnh,
khổ hạnh và phục vụ.
Sau khi được tấn phong là phó tế và sau đó là linh mục, đức giám mục
Maximus đã giao cho ngài trách nhiệm dạy giáo lý cho dự tòng và tân tòng. Sách
Giáo Lý ngài viết vẫn có giá trị như một thí dụ điển hình cho nền tảng thần học
và phụng tự của Giáo Hội vào giữa thế kỷ thứ tư.
Khi Ðức Maximus từ trần, Cha Cyril được tấn phong làm giám mục của
Giêrusalem. Vì ngài được sự hỗ trợ của giám mục Caesarea
là Acacius, người theo lạc thuyết Arian, nên phe chính giáo chỉ trích việc bổ
nhiệm này, và phe Arian lại nghĩ rằng họ có thêm một đồng minh. Cả hai phe đều
sai lầm, và Ðức Cyril thì kẹt ở giữa.
Khi nạn đói càn quét Giêrusalem, dân chúng chạy đến Ðức Cyril xin
giúp đỡ. Vì không có tiền, ngài phải bán một số đồ dùng của nhà thờ để giúp đỡ
người đói. Nhưng có những lời dèm pha rằng một số áo lễ được dùng làm y phục
cho kép hát.
Sự bất hòa giữa Acacius và Ðức Giám Mục Cyril bắt đầu là về vấn đề
quản hạt chứ không phải vấn đề tín lý. Là giám mục của Caesarea, Acacius nghĩ rằng
mình có toàn quyền trên các giám mục Palestine .
Nhưng Ðức Giám Mục Cyril lý luận rằng thẩm quyền của Acacius không bao gồm
Giêrusalem vì Giêrusalem là một "tông tòa" -- là ngai toà do các tông
đồ thiết lập. Khi Ðức Cyril không hiện diện trong các công đồng mà Acacius triệu
tập, Acacius và phe cánh đã kết án ngài là đã bán vật dụng của nhà thờ để kiếm
tiền và trục xuất ngài.
Ðức Cyril phải lưu đầy ở Tarsus
trong khi chờ đợi việc kháng cáo. Sau đó, ngài xuất hiện trong Công Ðồng
Seleucia, trong đó phe bán-Arian (vừa theo chính giáo, vừa theo Arian) chiến thắng.
Kết quả là Acacius bị truất phế và Ðức Cyril được trở về ngai toà cũ. Tuy
nhiên, hoàng đế không hài lòng về kết quả này, và một lần nữa, Ðức Giám Mục
Cyril lại bị trục xuất và chỉ trở về khi hoàng đế Julian lên ngôi. Ðược vài năm
sau, một sắc lệnh của tân hoàng đế Valens trục xuất tất cả các giám mục được
Julian hồi phục, và Ðức Cyril lại phải lưu đầy cho tới khi Valens qua đời.
Có thể nói một nửa nhiệm kỳ giám mục của Ðức Cyril là bị đầy ải.
Sau cùng, ngài trở về Giêrusalem, lúc ấy đã tan nát vì lạc giáo, ly giáo và
tranh giành, tàn lụi vì tội lỗi. Năm 381, ngài đến tham dự Công Ðồng
Constantinople, là công đồng hoàn tất bản kinh Tin Kính Nicene và phe Arian bị
kết án. Ðức Cyril được thanh minh và được tẩy sạch mọi tiếng xấu trước đây, các
giám mục tham dự Công Ðồng đã ca ngợi ngài như vị quán quân chính thống chống với
bè phái Arian.
Ðức Cyril sống an bình tám năm ở Giêrusalem và từ trần năm 386,
khi ngài khoảng bảy mươi tuổi.
Lời Bàn
Những ai tưởng rằng đời sống các thánh thật đơn giản và êm đềm,
không một chút tranh chấp trần tục, chắc phải kinh hoàng về cuộc đời Thánh
Cyril. Tuy nhiên, mọi Kitô Hữu không thể thoát khỏi những khó khăn như chính Thầy
mình đã trải qua. Theo đuổi chân lý là một con đường phức tạp và không cùng, và
mọi người thiện tâm đều đau khổ vì sự tranh giành và lầm lạc. Những chướng ngại
về tri thức, tình cảm và chính trị có thể trì trệ đôi chút những người như
Thánh Cyril. Nhưng đời sống của họ, nhìn toàn bộ, sẽ là những mẫu mực của sự
thành tâm và dũng cảm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét