Trang

Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013

07-03-2013 : THỨ NĂM TUẦN III MÙA CHAY


Thứ Năm Ngày 07/03/2013
Tuần III Mùa Chay Năm C


BÀI ĐỌC I: Gr 7, 23-28
"Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của họ".

 Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Đây Chúa phán: Ta truyền cho họ lời này: Các ngươi hãy nghe lời Ta, thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân Ta. Các ngươi hãy đi trong mọi đường lối mà Ta truyền dạy cho các ngươi, để các ngươi được hạnh phúc.
Nhưng họ không nghe, họ không chịu lắng tai, họ vẫn chạy theo ý định và lòng xấu xa của họ, họ đã ngoảnh mặt đi chứ không nhìn Ta. Từ ngày cha ông họ ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay, ngay từ sáng sớm, Ta lần lượt sai các tiên tri tôi tớ của Ta đến với họ, nhưng họ không nghe Ta, không chịu lắng tai nghe. Họ tỏ ra cứng đầu cứng cổ, và còn sống tệ hơn cha ông họ! Ngươi có nói cho họ biết tất cả các điều ấy, thì họ sẽ không nghe ngươi đâu; Vậy ngươi hãy nói cho họ biết: Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của họ, không chấp nhận kỷ luật, lòng trung tín đã mất và miệng họ không còn nhắc đến nữa. Đó là lời Chúa.

 ĐÁP CA: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9

Đáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Các bạn đừng cứng lòng(c. 8).

1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Đá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi; chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. - Đáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Đấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Đáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Đừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Đáp.

 CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: 2 Cr 6, 2

Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

 PHÚC ÂM: Lc 11, 14-23
"Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán:
"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán". Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Tin Nhận Hay Từ Chối
Giáo hội Nhật Bản rất anh dũng can trường, vì có nhiều vị tử đạo rất oanh liệt. Cuộc bách hại kéo dài từ năm 1613 cho đến năm 1638, là năm mà hoàng đế Nhật Bản đang trị vì lúc đó cho rằng: "Công giáo đã bị hủy diệt hoàn toàn". Không một nhà truyền giáo nào được đặt chân lên trên đất nước Nhật Bản. Kể từ đó, 300 năm sau, khoảng giữa thế kỷ XIX, thời Minh Trị Thiên Hoàng, khi các nhà truyền giáo được đặt chân lên nước Nhật lần II. Một biến cố đầy ý nghĩa đã được một linh mục thừa sai kể lại như sau:
Tôi đang giảng đạo Chúa cho một nhóm người tại Nagasaki, nghĩ rằng tất cả những người hiện diện đều là những người không Công Giáo, nên sau bài giảng, tôi chân thành hỏi: Có ai thắc mắc gì không?
Một người giơ tay chất vấn: Chúng tôi xin được hỏi ông ba điều:
1. Ông có tin Ðức Mẹ Ðồng Trinh hay không?
2. Ông có vâng lời và hiệp thông với Ðức Thánh Cha hay không?
3. Là linh mục, ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân hay không?
Sau khi tôi trả lời chấp nhận cả ba câu hỏi trên thì người chất vấn cảm động thưa:
- Thưa cha, tất cả chúng con đây đều là những người đồng đạo với cha. Chúng con đều là những người Công Giáo cả.
Tôi không cầm được nước mắt. Sau một lúc, tôi cố nén lòng lại và làm chủ được cảm xúc và hỏi: Tại sao anh chị em lại đặt ra ba câu hỏi vừa rồi?
Người đại diện trong nhóm trả lời:
- Thưa cha, vì ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ chúng con rằng: Sau này có ai đến giảng đạo, chúng con phải cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà đánh giá xem họ có phải là các nhà thừa sai chân chính hay không? Nay chúng con quá đỗi vui mừng vì cha đích thực là người được Hội Thánh sai đến. Chúng con sẽ nghe lời cha và giữ vững đức tin tổ tiên chúng con đã truyền lại.

Anh chị em thân mến!

Những giáo dân Nhật Bản bị bỏ rơi trong một thời gian dài hằng mấy trăm năm đã muốn dùng ba tiêu chuẩn của tổ tiên để lại, như ba dấu chỉ cụ thể để thẩm định nhà truyền giáo đầu tiên đến với họ xem có phải là vị truyền giáo mà tổ tiên của họ đã truyền lại cho họ hay không?
Ngược dòng thời gian, trở lại thời Chúa Giêsu, Ngài được rao giảng sứ điệp cứu rỗi, chúng ta được chứng kiến biến cố tương tự, các tiên tri đã loan báo trước cho dân chúng là khi Ðấng Cứu Thế đến, thì Ngài sẽ thực hiện những dấu lạ: Cho kẻ câm nói được, kẻ què được đi, người bị quỉ ám được chữa lành và Chúa Giêsu đã thực sự làm các phép lạ trên trước mặt dân chúng, trước mặt các môn đệ và trước mặt cả những vị lãnh đạo các tôn giáo như các biệt phái, những người Pharisiêu, để chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa, là Ðấng Thiên Sai được mong đợi từ lâu. Tuy nhiên, có những người không nhìn nhận sự hiện diện và tác động của Ngài. Họ cố tình giải thích lệch lạc để khỏi phải tin và làm cho kẻ khác đừng tin.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, mọi người đều phải có thái độ trước sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô là: "Tin nhận hay từ chối". Cả trong thời đại hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải có một thái độ rõ ràng đối với Chúa Giêsu Kitô. Ngài đến với con người qua Giáo hội, qua những sứ giả được tuyển chọn, sai đi làm chứng cho Người. Liệu chúng ta có đủ thành tâm và can đảm để cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần để tin nhận Chúa hay không?
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã chia sẻ kinh nghiệm của mình như sau: Chúa là người, không phải là lý thuyết. Chúa là Cha ở bên con với tất cả quyền năng và tình thương. Cha năn nỉ, Cha khuyên bảo, mời gọi, trách móc, tha thứ và luôn luôn yêu thương. Chúa Giêsu là tất cả của con, là cùng đích của ý hướng, là lý do các quyết định, là định luật của tình cảm, là mẫu gương các hành động của con. Hãy sống bên Chúa, con sẽ trở nên thánh.
Chúng ta hãy cố gắng nhận ra bàn tay Thiên Chúa đang tác động trong biến cố lịch sử của nhân loại. Với Chúa cùng tiến bước, chúng ta sẽ vượt được các thử thách và về đến đích điểm cách an bình.

Lạy Chúa, xin giữ gìn con trong đức tin, cho con sống kết hiệp mật thiết với Chúa để con luôn luôn trung thành thực thi thánh ý Ngài. Amen.
(Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần III MC

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Biết nghe lời Thiên Chúa là điều kiện để đạt hạnh phúc.

Khi phải đối diện với Lời Chúa hay những công việc Chúa làm, con người thường có ba thái độ chính: tích cực vâng lời và làm theo những gì Thiên Chúa răn bảo; hay dửng dưng coi thường “khó quá, ai làm nổi;” hoặc tiêu cực tìm lý do phê bình để khỏi phải làm như “ở Nazareth nào có cái chi hay!”

Các Bài Đọc hôm nay chú trọng nhiều đến phản ứng sau cùng, con người không những không nghe lời Thiên Chúa, lại còn phê phán buộc tội để khỏi phải nghe và làm theo. Trong Bài Đọc I, dân chúng không chịu nghe tiếng Thiên Chúa và cũng chẳng chịu nghe Jeremiah, ngôn sứ của Ngài. Đã vậy, họ còn mạ lỵ Jeremiah và còn tìm đủ cách để có cớ lọai trừ ông. Trong Phúc Âm, chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu khai trừ quỉ câm, một số người đã không tin uy quyền của Chúa Giêsu, lại còn mạ lỵ Ngài: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ quỷ.” Nói cách khác, họ có ý muốn nói: Chúa Giêsu là đồng bọn của ma quỉ để dân chúng đừng tin vào Ngài.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Đây là dân tộc không biết nghe tiếng Đức Chúa.

1.1/ Dân Chúa phải nghe tiếng Thiên Chúa: Nghe tiếng Thiên Chúa là điều kiện trước tiên để con người nhận ra sự thật hay ý định của Thiên Chúa cho con người. Con người phải biết nghe thì mới biết cách làm; nếu con người không chịu nghe thì sẽ không biết cách làm hoặc làm sai. Nếu làm sai, con người sẽ phải lãnh nhận mọi hậu quả xấu. Nếu một người không nghe theo tiếng Thiên Chúa, người đó không còn là con Thiên Chúa nữa. Vì thế, Chúa truyền cho con người: “Hãy nghe tiếng Ta thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta. Hãy bước theo mọi đường lối Ta truyền dạy, để các ngươi được hạnh phúc.”
Không nghe tiếng Thiên Chúa là lý do con người đã không tiến tới mà còn lùi bước. Con người không muốn nghe tiếng Thiên Chúa vì họ kiêu ngạo nghĩ mình đã biết cách giải quyết vấn đề, hay nghe theo tiếng của thần khác Thiên Chúa. Đây là tình trạng của dân tộc Israel trước Thời Lưu Đày, như Jeremiah trình thuật: “Nhưng chúng chẳng nghe, chẳng để tai, cứ theo những suy tính của mình, theo tâm địa ngoan cố xấu xa; chúng đã lùi chứ không tiến.”

1.2/ Dân Chúa phải nghe tiếng các ngôn-sứ của Thiên Chúa: Vì tình thương, Thiên Chúa không sửa phạt dân ngay; nhưng Ngài luôn sai các ngôn sứ của Ngài tới để kêu gọi dân chúng ăn năn trở lại: “Từ ngày cha ông chúng ra khỏi đất Ai-cập tới nay, ngày này qua ngày khác, Ta không ngừng sai tất cả các tôi tớ của Ta là các ngôn sứ đến với chúng; nhưng chúng đã không nghe, cũng chẳng để tai, lại ra cứng đầu cứng cổ. Chúng hành động còn xấu hơn cả cha ông chúng nữa.”
Chúa nói trước với Jeremiah về sự cứng lòng của dân, để ông biết Ngài đã kiên nhẫn sửa dạy dân; và cũng để ông khỏi ngạc nhiên khi chứng kiến sự cứng lòng của họ: “Vậy, ngươi sẽ nói với chúng tất cả những điều ấy, nhưng chúng chẳng nghe đâu; ngươi sẽ gọi chúng, chúng chẳng trả lời đâu.” Sau cùng, tiên tri Jeremiah phải đồng ý với Thiên Chúa: dân chúng xứng đáng chịu hình phạt và thời chiến tranh và lưu đày phải xảy ra, vì “Đây là dân tộc không biết nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của mình, không chấp nhận lời sửa dạy: sự chân thật đã tiêu tan và biến khỏi miệng nó.”

2/ Phúc Âm: Thái độ tiêu cực của con người:

2.1/ Thái độ của con người trước phép lạ Chúa Giêsu làm: Có 3 phản ứng của con người khi họ chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu chữa một người khỏi quyền lực của quỉ câm:
(1) Đám đông lấy làm ngạc nhiên.
(2) Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ quỷ."
(3) Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. Vừa chứng kiến dấu lạ, lại đòi một phép lạ khác trước khi có thể tin!

2.2/ Thái độ tích cực của Chúa Giêsu: Ngài kiên nhẫn cắt nghĩa và muốn họ nhận ra hai điều:
(1) Một người không thể dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ quỷ: Một người có thể dựa thế người khác để làm tất cả mọi điều, nhưng không thể để khai trừ những người thuộc quyền họ; vì đòan kết là điều kiện chính để sinh tồn: "Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nào tự chia rẽ thì sẽ đổ xuống. Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được? Bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ.” Hơn nữa, có nhiều người trừ quỉ trong Israel trước thời Chúa Giêsu; ngay cả Vua Solomon cũng trừ quỉ bằng các cây cỏ. Vì thế, nếu họ tố cáo Chúa Giêsu thuộc về ma quỉ, họ cũng tố cáo tất cả những người này: “Nếu tôi dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông.”
(2) Chúa Giêsu đến để vô hiệu hóa các quyền lực của ma quỉ: “Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.” Ngài cắt nghĩa thêm: “Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.” Ma quỉ chỉ có quyền lực trên con người, trong lâu đài của chúng là thế gian này. Vương quốc của chúng được an tòan khi Chúa Giêsu chưa đến. Nhưng khi Triều Đại của Ngài đến, mọi sự thay đổi. Vì Ngài có quyền lực mạnh hơn ma quỉ, nên Ngài có thể khai trừ chúng khỏi con người như trình thuật hôm nay. Ngài vô hiệu hóa các vũ khí chúng dùng để cai trị con người như: kiêu ngạo, tham muốn, hưởng thụ vật chất ... Một khi con người quyết tâm theo Chúa, ma quỉ sẽ không dám đụng chạm tới họ. Ma quỉ chỉ có quyền trên những ai muốn ở lại với chúng.

2.3/ Không thể giữ thái độ trung lập trên bước đường theo Chúa: Truyền thống Do-thái tin cuộc đời này là bãi chiến trường tranh chấp giữa quyền lực của Thiên Chúa và của ma quỉ, giữa con cái của ánh sáng và của bóng tối. Trong cuộc giao chiến này, con người không thể đứng trung lập: Họ phải chọn giữa Thiên Chúa hoặc ma quỉ, giữa ánh sáng và bóng tối, như Chúa Giêsu tuyên bố: "Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.” Một người chọn đứng bên lề, chọn không tham gia những công việc hữu ích, là chọn để giúp cho các công việc gây thiệt hại có cơ hội phát triển. Họ cũng không thể chọn cả hai bên: vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi ma quỉ, vì hai bên không đội trời chung.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Nghe theo tiếng Chúa là điều kiện tiên quyết để con người có hạnh phúc.
- Chúng ta cần có thái độ tích cực để nhận ra và thi hành điều hữu ích trong cuộc sống. Cần tránh thái độ tiêu cực chỉ biết “vạch lá tìm sâu” và luôn nghi ngờ thiện chí của tha nhân.
- Không cộng tác với Thiên Chúa là cộng tác với ma quỉ. Không có thái độ trung lập và cũng chẳng có thái độ làm tôi hai chủ trong cuộc đời này.

 Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


THỨ NĂM TUẦN III MÙA CHAY
Thánh nữ Perpêtua và thánh Fêlicita, tử đạo
Lc 11, 14 - 23

1 Ghi nhớ: Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ. Thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ ?

2 Suy niệm :  Thế lực của ma quỷ thật đáng sợ, quyền năng chúng thật phi thường, sự xảo trá của nó con người khó có thể nhận ra. Đối địch với chúng con người chỉ có thể đón lấy thất bại. Ngay từ đầu, khi đối đầu với chúng, con người đã thất bại ê chề ngay trong vườn địa đàng. Dầu muốn hay không, con người cũng phải chấp nhận sự thật là con người không thể thắng được ma quỷ.
Thế nhưng đó đâu phải là nỗi tuyệt vọng của chúng ta. Tuy chúng ta không thắng được nhưng vẫn còn một quyền năng khác có thể chế ngự được chúng. Nếu chúng ta biết đón nhận quyền năng đó, chúng ta sẽ chiến thắng. Quyền năng đó đã được ban cho chúng ta qua Đức Giêsu. 
Xưa nguyên tổ đã không thắng được satan trong vườn địa đàng, nhưng nơi hoang địa, Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người đã chiến đấu và đã chiến thắng, trên thập giá, Người đã chiến thắng. Ma quỷ quyền năng phi thường nhưng vẫn phải khuất phục trước quyền năng của Thiên Chúa. Đó là sự thật mà do sợ hãi con người thường không nhận ra.
Ai không đi với tôi là chống lại tôi. Triều đại Thiên Chúa cuối cùng sẽ chiến thắng. Ma quỷ và đồng bọn của chúng rồi sẽ bị tiêu diệt. Những ai biết cùng đi theo Đức Giêsu mới là người chiến thắng. 

3 Sống Lời Chúa :  Triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.

4 Cầu nguyện :  Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
www.giaophanvinhlong.net
07/03/13 THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 3 MC
Th. Pepêtua và Phêlixita, tử đạo
Lc 11,14-23

CHỌN ĐIỀU CHÚA MUỐN
“Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.” (Lc 11,20)
Suy niệm: Cơ mật viện Hồng Y sắp nhóm họp để bầu chọn giáo hoàng mới. Các vị sẽ bầu ai? Đâu là tiêu chí để chọn lựa? Trong việc hệ trọng này liên quan tới toàn thể Giáo Hội cũng như trong toàn bộ đời sống của ta, việc phải làm là suy nghĩ tìm kiếm thánh ý Chúa, và hành động dưới ánh sáng của Ngài. Điều này không dễ dàng vì chúng ta rất dễ bị tác động bởi tình cảm, bởi thiên kiến, hiểu biết hạn hẹp,… Phúc Âm hôm nay kể chuyện Chúa Giêsu trừ quỷ câm cho một người để anh ta nói được. Có người kinh ngạc khâm phục nhưng có người cho rằng Chúa nhờ quyền phép của tướng quỷ để trừ quỷ. Ngay từ đầu vì thiên kiến, vì lợi ích phe nhóm, họ đã không chấp nhận Chúa và cung cách cứu thế của Ngài. Vì thế họ không đón nhận Lời Chúa, không tin vào Ngài.
Mời Bạn: Là con Chúa, chúng ta cần phân định dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để luôn sống trong ánh sáng chân lý của Chúa. Điều gì bởi Chúa đem lại hoa trái thánh thiện, an bình và bác ái. Chúng giúp ta thắt chặt mối hiệp thông với Chúa và với Hội Thánh và gắn bó tin tưởng nơi Chúa Kitô. Còn điều bởi ma quỷ hay thần dữ làm ta mất đi những ân phúc đó.
Chia sẻ: Chúng tôi có cấu kết nhau làm điều xấu, làm hại ích chung hay Hội Thánh không?
Sống Lời Chúa: Để chọn Chúa và điều Chúa muốn, “hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa để có thể đứng vũng trước những mưu chước của ma quỷ” (Ep 6,10-11).
Cầu nguyện: Đọc kinh Sáng Soi.
www.5phutloichua.net


NGƯỜI MẠNH HƠN
Mùa Chay mời chúng ta đứng hẳn về phía Giêsu, vì ai không ở với Giêsu là chống lại Ngài... Hãy quyết định dứt khoát để cùng với Giêsu chiến đấu cho Nước Cha.

Suy nim:
Đức Giêsu vừa mới trục xuất được một quỷ câm. Khi quỷ xuất ra thì người câm nói ngay được (c. 14). Cùng với sự ngạc nhiên thích thú của đám đông, còn có sự vu khống xuyên tạc của một số người khác. Họ cho rằng chẳng qua Đức Giêsu chỉ là kẻ dựa dẫm Bêendêbun. Bêendêbun là tên của một vị thần ở vùng Canaan. Người Do thái vẫn coi các thần dân ngoại là ma quỷ (1Cr 10, 19-20). Ở đây, Bêendêbun chính là quỷ vương, là Xatan (c. 18). Như thế Đức Giêsu bị tố cáo là người cùng phe với quỷ, dùng tay tướng quỷ để trừ các quỷ nhỏ. Đức Giêsu cho thấy sự sai lầm của lập luận này. Ngài nhắc đến nước của Xatan, một nước hiện vẫn còn đứng vững (c. 18). Nước ấy chưa sụp đổ vì không có sự chia rẽ giữa các quỷ với nhau, nên không thể bảo là Ngài dùng quỷ vương để trừ quỷ nhỏ. Vả lại, có những người Do thái khác cũng trừ quỷ như Ngài. Có ai dám bảo là họ thông đồng với quỷ vương không ? (c. 19). Đức Giêsu vén mở cho thấy ý nghĩa của việc Ngài trừ quỷ. “Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (c. 20). Nước Thiên Chúa đến qua việc Đức Giêsu giải phóng.
Ngài giải phóng con người khỏi bệnh tật thân xác. Ngài trả lại cho con người khả năng nghe, nói, nhìn. Ngài kéo người bất toại đứng lên, đi được, đưa tay ra. Ngài trả người phong về với cộng đoàn, đưa người chết ra khỏi mộ. Trên hết, Ngài giải phóng con người khỏi sự chật hẹp của lòng mình. Ngài mở con người ra trước nỗi đau và cô đơn của anh em. Ngài nâng con người lên tới tầm cao của trái tim Thiên Chúa. Như thế là con người được thật sự tự do. Chỗ nào có tự do thật sự, chỗ đó có Nước Thiên Chúa. Chỗ nào có Nước Thiên Chúa, chỗ đó nước của Xatan phải lui đi. Cuộc chiến giữa Nước Thiên Chúa và nước Xatan vẫn tiếp diễn, nhưng Nước Thiên Chúa đã đến rồi, ngón tay Thiên Chúa ở đây. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trừ quỷ và mời chúng ta cộng tác. Làm sao để con người hôm nay không còn bị ám bởi bất cứ thụ tạo nào, không sụp lạy trước bao ngẫu tượng mới của thời đại? Quỷ vẫn là kẻ mạnh, được vũ trang đầy đủ, đứng canh nhà của nó (c. 21). Nhưng Thiên Chúa và Chúa Giêsu lại là người mạnh hơn (c. 22). Người mạnh hơn tấn công, tước vũ khí và phân chia chiến lợi phẩm. Trong cuộc chiến này, chúng ta không có quyền mập mờ, hàng hai. Mùa Chay mời chúng ta đứng hẳn về phía Giêsu, vì ai không ở với Giêsu là chống lại Ngài, ai không thu góp với Giêsu là phân tán (c. 23). Hãy quyết định dứt khoát để cùng với Giêsu chiến đấu cho Nước Cha.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ. Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự: tự do trước những đòi hỏi của thân xác, tự do trước đam mê của trái tim, tự do trước những thành kiến của trí tuệ. Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ, để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa, để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa. Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi, khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi và chữa bệnh ngày Sabát. Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe, khi Chúa không ngần ngại nói sự thật. Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết, vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.

Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao.
 
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
“Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta”.
Đuổi quỷ
Rồi Đức Giê-su trừ một tên quỉ, và nó là quỉ câm. Khi quỉ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: “Ông ấy dựa thế quỉ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỉ.” (Lc. 11, 14-15)
Theo một số ý kiến chú giải thời nay thì những người quỷ ám trong Tin mừng là bệnh nhân của cảm cúm. Sự đuổi quỷ của Đức Giê-su được giải thích khéo léo hóa thành vô nghĩa. Những người bị quỷ ám, hầu hết được họ giải thích là những người mắc bệnh động kinh, bệnh thần kinh hay bị ám ảnh bởi hình ảnh quỷ ma trong họ, người bị quỷ câm trong Tin mừng hôm nay đơn giản chỉ là bệnh câm thôi, không bị quỷ ám nào hết.
Theo ý kiến số đông thời đại đó, một nửa bị quỷ thần ám hại cần phải cải cách và Tin mừng đã đến thanh tẩy những thần thoại chồng chất trong đời sống dân Ít-ra-en.
Cách giải thích đó có thật hữu ích không? Tin mừng có thanh tẩy phong tục tin tưởng vào quỷ thần không?
Thứ nhất, giải thích của một số người quá ngang ngược với cách trừ quỷ rõ ràng của Chúa, biến Chúa thành nạn nhân của hạng trí thức dổm. Thực ra, thời đại của Đức Giê-su đã có nhiều người khá thông minh để nhận định về thế giới quỷ thần.
Thứ đến, họ muốn kéo nhân loại ra khỏi những sức mạnh siêu nhiên để khỏi nỗi lo sợ bị phán xét về tội con người.
Theo ý số đông trên mặt đất này, có đầy những sự xấu xa, nếu chỉ gán tội cho loài người thôi thì thật bất công, phải tin rằng còn có ma quỷ ném đá dấu tay đã gây ra tội lỗi nữa. Sự hỗn độn của nhân loại được chia thành nhiều loại: loại người ăn nhậu nhồi nhét quá lẽ một bên, loại đói ăn túng cực một bên. Đó không phải do Thiên Chúa Cha dựng nên, cũng không phải hoàn toàn do con người tổ chức thiết kế những thứ ô nhục đó. Cần phải nhìn nhận rằng có hàng triệu người thiện chí hoạt động, tổ chức lấy lại quân bình phân chia của cải vũ trụ, tuy có vô ích.
Thật bất công tin rằng tính dã man do lòng dạ con người bình thường sinh ra, khi thấy nhiều người sống trên hành tinh này ném hàng tấn bom lân tinh xuống dân lành mà lương tâm lầm lạc của họ vẫn bình an. Nhận có tội lỗi, chính là tin có một Thiên Chúa có thể giải thoát chúng ta khỏi thế lực quỷ dữ mà con người không thể tự giải thoát được. Đức tin đòi chúng ta liên tục cầu nguyện xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tay quỷ dữ. Không có Thiên Chúa, chúng ta liều mình bị quỷ dữ ám hại đời đời.
J.G
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Ba

7 THÁNG BA

Tình Yêu Thiên ChúaLà Tình Yêu Vô Giới Hạn

Tất cả chúng ta đều rất quen thuộc với dụ ngôn Người Con Đi Hoang. Dụ ngôn này nói lên sự thật về mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người. Đây là một câu chuyện không thể nào quên – một câu chuyện đánh động chúng ta hết sức sâu sắc.

Trong Thông Điệp Dives in misericordia, cũng như trong Tông Huấn Reconciliatio et paenitentia, dụ ngôn này trở thành một điểm qui chiếu nòng cốt của các giáo huấn cho Giáo Hội hôm nay. Những giáo huấn ấy nêu bật một điểm luôn luôn có tầm hết sức quan trọng trong toàn bộ sứ điệp Tin Mừng: việc con người hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Theo Thánh Phao-lô, trở về có nghĩa là trở nên một tạo vật mới trong Đức Kitô. Thiên Chúa, giống như người cha trong dụ ngôn, niềm nở tiếp đón tất cả những con trai con gái đi hoang của Ngài. Vì thế, khi một người được sinh lại trong Đức Kitô, người ấy trở thành một con người mới.

Chúa Cha đã trao ban cho chúng ta Con Một Yêu Dấu của Ngài là Đức Kitô, để mỗi người trong chúng ta – dù đi hoang đàng – đều có khả năng trở thành một con người mới trong Đức Kitô. Được đổi mới một cách thâm sâu trong hữu thể mình, chúng ta có thể tìm thấy con đường về nhà Cha. Con đường ấy chính là tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đối với chúng ta.

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình


Thánh nữ Perpêtua và Thánh nữ Fêlicita, tử đạo
Gr 7, 23-2; Lc 11, 14-23

LỜI SUY NIỆM: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.” (Lc 11,23).

Sau khi Chúa Giêsu trừ một tên quỷ câm, khi quỷ xuất thì người câm nói được. Nhưng trong đám đông có những người chống đối Ngài, đã xuyên tạc Ngài dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ. Sau khi phân tích và giảng dạy Chúa Giêsu đã kết luận: Ai không đi với tôi là chống lại tôi, ai không cùng tôi thu gom là phân táng. Điều này cho chúng ta thấy mỗi người đều phải có thái độ dứt khoát trong chọn lựa của mình và tích cực trong mọi sự với Chúa. Chúng ta không thể lừng khừng ở thế trung lập. Khi đứng trước một việc thiện nếu chúng ta không làm; như vậy chúng ta đã tiếp tay với sự ác chứ không thể là vô tội được.

Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân

Ngày 07-03

Thánh PERPÊTUA Và PHÊLIXIA
Tử đạo (thế kỷ III)


Perpêtua và Phêlixita, cùng với các bạn chịu chết với các Ngài năm 203 tại Carthage, là những khuôn mặt sống động đặc biệt trong số các thánh tử đạo vào các thế kỷ đầu. Chúng ta có được những tường thuật chính xác về cuộc tử đạo của các Ngài nhờ vào tài liệu đương thời, bao gồm những nhật ký của chính thánh Perpêtua, một trang sử của vị tử đạo khác và một câu chuyện do nhân chứng đầu tiên, có lẽ là Tertulianô viết lại.
Dưới cuộc bách hại của Septimô Sêvêrô. Một phụ nữ trẻ thuộc gia đình danh giá tên là Vibia Perpêtua đã bị bắt cùng với hai thanh niên là Saturnunô và Secundôiô, với hai người nô lệ là Revecatô và Phêlicitê. Tất cả đều đang học với một giáo dân tên là Saturô. Thấy các học viên của mình bị bắt, Saturô cũng tự nộp mình để khỏi phải xa lìa họ.
Cha của Perpêtua là một người thờ ngẫu tượng nài nỉ con mình trung thành với ngoại giáo. nhưng chỉ vào một cái bình, thánh nữ trả lời : - Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng cái tên nào khác hơn là cái bình không ? Đối với con cũng vậy con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Kitô hữu.
Người cha liền lao vào con như muốn móc mắt và ông đánh đập Perpêtua tàn nhẫn. Rồi ông rút lui. Nhiều ngày sau thánh nữ không gặp lại ông. Trong những ngày đó Perpêtua cùng với các bạn còn đang dự tòng đã được rửa tội.
Khi người ta dìm vào nước, thánh nữ đã chỉ nguyện xin một lời này là: được sức mạnh để chịu đựng nên các đau khổ của cuộc tử đạo. Bây giờ họ bị dồn chung vào một phòng chật hẹp tối om. Đút lót tiền bạc, họ được rộng rãi hơn một chút, Perpêtua mẹ của một đứa bé còn đang bú đã phải đau khổ nhiều vì xa con. Đứa bé kiệt sức. Người ta trả nó lại cho mẹ và người mẹ vui sướng quên hết mọi đau đớn. Ngục tù đã trở nên cung diện đối với Ngài. Các thi kiến thánh nữ được thấy, an ủi Ngài nhiều và nâng cao niềm hy vọng của Ngài ngay khi còn ở trần gian này.
Người ta biết rằng: các tù nhân sắp bị xét xử. Người cha của Perpêtua thất vọng. Ông đến thăm con gái mình và thốt ra những lời van xin nghe muốn đứt ruột: - "Con ơi, hãy thương mái tóc bạc của cha, hãy thương cha. Hãy nhớ tới đôi tay cha đây đã dưỡng nuôi con. Hãy tưởng tượng tới mẹ con, anh em con, con của con nữa, không có con nó sống sao được. Bỏ đi con, điều dốc quyết làm cho chúng ta mất tất cả".
Tất cả điều này thật là độc dữ đối với Perpêtua. Thánh nữ nói:- Thưa cha, tại tòa án sẽ xẩy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình.
Người cha còn cho người đem đứa trẻ tới năn nỉ lần nữa :- Hãy thương đến con của con.
Trong khi đó các tù nhân tuyên bố rằng họ đều sẵn sàng hy sinh tất cả cho Thiên Chúa. Họ bị giải tới nhà tù gần hí trường, Perpêtua đã cầu nguyện ngày đêm cho một người em chết vì ung thư. Trong một thị kiến Ngài đã thấy nó trong một nơi tối tăm, bây giờ lên một nơi ngập đầy ánh sáng.
Phêlicitê hạ sinh một đứa con trai. Khi Ngài rên xiết vì đau đớn, một người lính gác ngục chế nhạo người rằng: - Nếu không chịu nổi đau đớn lúc này, làm sao cô chịu nổi các thú dữ ?
Phêlicitê trả lời: - Hôm nay tôi khổ vì tôi nhưng khi tôi chết vì đạo, sẽ có một người khác trong tôi chịu khổ cho tôi, bởi vì tôi chịu cực khổ vì Ngài.
Trong khi chờ đợi cái chết độc dữ đã được dành sẵn, các tù nhân vẫn giữ được cái tính hài hước lành mạnh và vui tươi của họ, thánh Perpêtua nói: - Còn sống chúng ta luôn vui tươi, trong cuộc sống khác, chúng ta sẽ hân hoan mãi.
Ngày vui chơi đến, họ phải diễn trò cho thiên hạ. Người cha của Perpêtua tàn héo vì sầu muộn, nhưng thánh nữ luôn có thị kiến. Khi các thánh tử đạo tiến vào hí trường, các Ngài tỏ vẻ vui tươi phấn khởi. Perpêtua thì ca hát. Trước mặt dân chúng, Ngài đã trả lời quan tòa: - Ngài xét xử chúng tôi, nhưng Thiên Chúa xét xử Ngài.
Quan tòa truyền đánh đòn các Ngài, nhưng các Ngài lại cảm thấy hạnh phúc vì được giống Chúa Kitô thày mình. Thú dữ được thả ra, những người trẻ bị cắn xé, Perpêtua và Phêlicitê bị lột áo. Các Ngài đòi lại và người ta chấp nhận cho các Ngài đặc ân này. Các Ngài bị gói vào trong một cái lưới. Một con bò cái hung hãn xông vào Perpêtua, hất tung Ngài lên trời, rớt xuống đất Ngài vẫn còn sống và Ngài cúi nhìn người nữ tì Phêlicitê của mình đang nằm sõng sượt trên mặt đất, và giúp nàng chỗi dậy. Dân chúng trong một lúc hết hung hăng đã xin trả tự do cho các vị tử đạo. Perpêtua tin rằng: mình vừa thức dậy từ một cơn mơ. Phải thấy những vết thương đã chịu, Ngài mới tin là sự thật, Ngài nói với Rusticus và em mình rằng: - Hãy vững tin, đừng kinh ngạc vì những đau khổ của chúng tôi.

Đám dân chúng dễ bị khích động và thất thường lại đòi giết những người này. Ngài hôn chuc bình an và đưa thân cho lý hình. Người phải giết Perpêtua run rẩy, lưỡi gươm của anh ta trật đường, làm bị thương bên sườn Ngài. Chính Perpêtua phải hướng dẫn tay của lý hình và giúp đỡ để hắn đẩy mũi giáo vào cổ họng mình.

(Daminhvn.net)


07 Tháng Ba

Dachau

Dachau: đó là một địa danh mà dân Âu châu không bao giờ xóa bỏ khỏi ký ức của họ. Nơi tập trung và sát hại hàng triệu người Do Thái dưới thời Ðức Quốc xã, Dachau vừa là hỏa ngục của hận thù, độc ác nhưng cũng là khung trời rực sáng những vì sao của yêu thương, tin tưởng.
Edmond Michelet, văn sĩ Pháp bị giam tại đây và sau này trở thành bộ trưởng Tư Pháp, đã viết lại ký sự của những ngày bị giam trong địa ngục Dachau. Ông kể lại rằng: mỗi buổi sáng, các linh mục bị giam tù lén lút cử hành Thánh lễ. Các tù nhân Công giáo, bất chấp mọi đe dọa đến mạng sống, chen chúc sát cánh bên nhau để tham dự Thánh lễ.
Phẩm phục của linh mục chủ tế chỉ là một mảnh áo tù rách rưới thảm thương. Cái tách uống nước được dùng làm chén thánh, hộp thuốc ho được dùng làm bình đựng bánh lễ.
Sau Thánh lễ, một số người được chia công tác mang Mình Thánh đến cho những người đang hấp hối được giam riêng trong phòng đặc biệt... Edmond Michelet kể lại rằng: hình ảnh ông vẫn luôn ghi nhớ đó là nụ cười rạng rỡ của những người đang tiến đến cõi chết.Vào khoảng cuối năm 1944, một nghi lễ đặc biệt đã diễn ra ngay trong trại Dachau. Một phó tế người Ðức, bị lao phổi, đang hấp hối... Các linh mục đang bị giam bèn nghĩ đến chuyện phong chức linh mục cho thầy... Một vị giám mục cùng bị giam đã chấp thuận tiến hành nghi thức. Người ta làm mọi cách để che mắt người lính canh. Một người Do Thái đã chấp nhận chơi đàn vĩ cầm để đánh lạc hướng sự chú ý của công an, vị giám mục người Pháp, trong bộ đồng phục rách rưới của tù nhân, đã phong chức linh mục cho một chủng sinh người Ðức. Vị tân linh mục đã cử hành Thánh lễ đầu tiên ít ngày sau đó. Và đó cũng là Thánh lễ cuối cùng của Ngài... Trong quyển nhật ký của Ngài, người ta đọc thấy hai chữ: Tình Yêu, Ðền Bù...

Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chân lý này sáng ngời một cách mãnh liệt ngay trong những nơi mà hận thù chết chóc ngự trị như luật tối thượng của cuộc sống. Hận thù càng dâng cao, chết chóc càng đe dọa người ta càng thấy những tấm gương của hy sinh, xả kỷ và tin tưởng.
Dạo tháng 6 năm 1989, một số linh mục, giám mục người Ba Lan đã hành hương đến trại tập trung Dachau để kỷ niện 50 năm ngày thế chiến thứ hai bùng nổ và nhất là để tưởng niệm gương hy sinh của gần 3,000 linh mục thuộc 9 quốc tịch khác nhau bị giam giữ tại đây. Trên ngôi mồ chôn lớn nhất, một Thánh lễ đã được cử hành không phải để gợi lại hận thù, nhưng họ còn được mời gọi để chỉ thấy Yêu Thương và tha thứ giữa hận thù.
Ðó cũng chính là lời mời gọi của Ðức Kitô trong Thánh lễ mà Giáo hội cử hành mỗi ngày. Chúng ta không tưởng niệm những độc ác dã man trong cái chết của Chúa, chúng ta không gợi lại hận thù trong cuộc tử nạn của Ngài, nhưng chỉ nhìn thấy Yêu thương và tha thứ vô bờ của Ngài. Ngài mời gọi chúng ta hãy chỉ nhìn thấy yêu thương và tha thứ giữa hận thù, hãy múc lấy yêu thương và tha thứ để đáp trả lại hận thù...

(Lẽ Sống)

Thứ Năm 7-3

Thánh Perpetua và Thánh Felicity

(c. 203?)

Trong những truyền thuyết mù mờ về đời sống các vị tử đạo tiên khởi, may mắn chúng ta vẫn còn được tài liệu về sự can đảm của Thánh Perpetua và Felicity từ chính nhật ký của Thánh Perpetua, của giáo lý viên Saturus, và các chứng nhân. Văn bản này, thường được gọi là "Sự Tử Ðạo của Perpetua và Felicity," được nổi tiếng trong các thế kỷ đầu tiên đến nỗi văn bản ấy đã được đọc trong phụng vụ.
Vào năm 203, Vibia Perpetua quyết định trở nên một Kitô Hữu, mặc dù ngài biết điều đó có thể dẫn đến cái chết trong thời kỳ bách hại của Septimus. Một người em trai của ngài cũng noi gương và trở nên người dự tòng. Cha của ngài cuống cuồng lo âu và ông cố gắng thay đổi ý định của ngài. Sự lo âu của ông thì dễ hiểu, vì một phụ nữ 22 tuổi, hăng say và có học thức như Perpetua thì không có lý do gì lại muốn chết -- chưa kể ngài còn có một đứa con mới sinh.
Nhưng thái độ của Perpetua thì rất rõ ràng. Ngài chỉ tay vào một bình đựng nước, và hỏi cha ngài, "Cha có thấy cái bình đó không? Cha có thể gọi nó một cái tên nào khác với bản chất của nó không?" Người cha trả lời, "Dĩ nhiên là không." Và Perpetua thản nhiên tiếp lời, "Con cũng không thể gọi con bằng một cái tên nào khác hơn là bản chất của con -- một Kitô Hữu." Câu trả lời đã làm người cha bực mình và ông đã tấn công chính con mình. Nhật ký Perpetua kể cho chúng ta biết, sau biến cố ấy ngài phải sống tách biệt với cha ngài trong vài ngày, và sự tách biệt ấy đã đưa đến sự bắt bớ và tù đầy của chính ngài.
Perpetua bị bắt với bốn người dự tòng khác, kể cả hai người nô lệ là Felicity và Revocatus. Người dạy giáo lý cho các ngài là Saturus đã bị bắt trước đó.
Nhà tù đầy chật người đến nỗi họ ngộp thở vì nóng nực và không có một chút ánh sáng. Quân lính thì xô đẩy họ không một chút xót thương. Perpetua thật khiếp sợ, nhưng trong tất cả những sự ghê rợn ấy, điều đau khổ lớn lao nhất của ngài là phải xa cách đứa con thơ.
Người nô lệ trẻ tuổi là Felicity lại càng đáng thương hơn nữa, vì ngài đang mang thai tám tháng và phải sống trong cái nóng nực, chen chúc, và thô bạo ấy.
Hai phó tế phục vụ tù nhân đã đút lót lính canh để các ngài được ở chỗ tốt nhất trong nhà tù. Ở đó, mẹ và em của Perpetua đã đến thăm và đưa con đến cho ngài. Khi được phép giữ con trong tù, ngài cảm thấy "nhà tù trở nên như cung điện". Cha ngài lại nài nỉ ngài thay đổi ý định, ông hôn tay ngài và ngay cả quỳ dưới chân ngài. Perpetua nói với ông, "Chúng ta không thể dựa vào quyền thế của chúng ta, nhưng quyền thế của Thiên Chúa."
Trong khi ngài bị đưa ra xét xử, cha ngài cũng đi theo, nài nỉ quan tòa. Vì thương hại, quan tòa cũng cố thay đổi ý định của Perpetua, nhưng ngài vẫn cương quyết, và cùng với các người khác, ngài bị kết án tử hình bằng cách ném cho thú dữ ăn thịt trong đấu trường.
Trong khi đó Felicity cũng rất đau khổ. Theo luật lệ, giết người phụ nữ mang thai là điều trái phép. Giết hài nhi trong bụng mẹ là đổ máu người vô tội và linh thiêng. Trong khi đó, Felicity lại lo rằng ngài không kịp sinh con trước ngày tử đạo, và các bạn ngài sẽ bước vào vinh quang ấy mà không có ngài.
Hai ngày trước khi bị hành quyết, Felicity đau đớn chuyển bụng. Bọn lính canh chế diễu, nhục mạ ngài và nói, "Nếu đau đớn bây giờ mà còn chịu không nổi, thì làm sao đương đầu với thú dữ?" Felicity điềm tĩnh trả lời, "Bây giờ tôi là người phải chịu đau khổ, nhưng trong đấu trường, một Ðấng khác sẽ ở trong tôi, chịu đau khổ dùm tôi vì tôi đã chịu đau khổ vì Ngài." Felicity sinh hạ một bé gái kháu khỉnh và được một Kitô Hữu ở Carthage nhận làm con nuôi.
Vào ngày hành quyết, bốn bổn đạo mới và giáo lý viên bước vào đấu trường với niềm vui và sự bình thản. Khi dân chúng đòi hỏi Perpetua và các bạn ngài phải mặc y phục dành cho việc thờ cúng tà thần, Perpetua đã đối chất với các lý hình. "Chúng tôi tự ý chịu chết để được tự do thờ phượng Thiên Chúa của chúng tôi. Chúng tôi đã trao mạng sống cho các ông thì không có lý do gì chúng tôi phải thờ lạy thần thánh của các ông." Và các ngài đã được phép mặc quần áo của mình.
Những người đàn ông thì bị tấn công bởi gấu, beo và heo rừng. Các phụ nữ thì bị bò dại tấn công. Perpetua, dù bị tan nát và rối bời, ngài vẫn nghĩ đến các bạn và chạy đến giúp Felicity đứng dậy. Cả hai đã đứng cạnh nhau khi bọn lính cắt cổ tất cả năm vị tử đạo.

Lời Bàn

Không chỉ những Kitô Hữu thời xa xưa mới bị bách hại vì đức tin. Hãy nhìn đến trường hợp của cô Anne Frank, một thiếu nữ Do Thái, đã cùng với gia đình trốn tránh và sau cùng phải chết trong trại tử thần của Hitler thời Thế Chiến II. Cô Anne, cũng như Thánh Perpetua và Filicity, đã chịu thử thách và đau khổ, và sau cùng chịu chết vì tận hiến cho Thiên Chúa. Trong nhật ký, cô Anne viết, "Ðối với những người trẻ như chúng tôi, đó là sự khó khăn gấp bội khi phải giữ vững vị thế và lập trường của mình trong quãng thời gian mà mọi lý tưởng đều rạn vỡ và tiêu tan, khi con người lộ ra bộ mặt xấu xa nhất, và không biết có nên tin vào chân lý, sự chính trực và Thiên Chúa hay không."

Lời Trích

Lời sau cùng Perpetua nói với em mình là: "Hãy giữ vững đức tin và yêu thương tha nhân."

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét