Ngày 24/04/2013
Thứ Tư Tuần IV Mùa Phục Sinh
Năm C
BÀI ĐỌC I: Cv 12, 24 - 13, 5a
"Hãy dành Saolô
và Barnaba riêng cho Ta".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, lời Chúa được lan rộng và
tiến triển. Nhưng Barnaba và Saolô, sau khi hoàn tất sứ mạng, đã rời
Giêrusa-lem, đem theo Gioan cũng gọi là Marcô.
Bấy giờ trong Hội Thánh Antiôkia có những tiên
tri và tiến sĩ, trong số đó có Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê, Luxiô người
thành Xyrênê, Manahê bạn của vua Hêrôđê lúc còn thơ ấu, và Saolô. Đang khi các
ông làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo các ông rằng:
"Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho Ta, để làm công việc mà Ta đã chỉ
định". Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt tay trên hai ông và tiễn đưa
hai ông lên đường.
Được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống
Xêlêucia, rồi từ đó vượt biển sang Cyprô. Khi đến Salamina, hai ông rao giảng
lời Chúa trong các hội đường Do-thái. Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8
Đáp: Chư dân, hãy ca tụng
Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót
thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng
tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư
dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. - Đáp.
2)
Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài
cai quản các nước địa cầu. - Đáp.
3)
Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết
thảy chư dân hãy ca tụng Ngài. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, và
cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Đáp.
ALLELUIA:
Alleluia,
alleluia! - Chúa Kitô đã sống lại và chiếu soi chúng ta, là những kẻ Người đã
cứu chuộc bằng máu của Người. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 12, 44-50
"Ta là sự sáng đã
đến thế gian".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng:
"Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Đấng đã sai
Ta. Và ai thấy Ta là thấy Đấng đã sai Ta. Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất
cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không
tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để
xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp
nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong
ngày sau hết. Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Đấng sai Ta,
chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng
lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha
đã dạy". Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Tin Con Là Tin
Cha
Anh
chị em thân mến!
Lần
nọ, một nhóm giáo sĩ Công giáo Trung Hoa đã nhờ giáo sư Kinh Thánh từ Mỹ đến
giúp họ khóa học về Thánh Kinh. Mở đầu cho khóa học, vị giáo sư đề nghị nhóm
giáo sĩ tìm ra bất kỳ một đoạn Tin Mừng nào mà họ cảm thấy đánh động mình nhất.
Trước sự ngạc nhiên của vị giáo sư, nhóm người ấy họ không chọn bài giảng trên
núi, hay cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hoặc biến cố Phục Sinh của Ngài. Nhưng họ
lại chọn câu chuyện rửa chân cho các môn đệ. Và cũng chẳng phải là ngẫu nhiên
mà sự chọn lựa của nhóm giáo sĩ người Trung Hoa này đã mang một ý nghĩa thật
trùng hợp với lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Anh
chị em thân mến!
Bài
Tin Mừng hôm nay có thể tóm lược cách tổng quát về những lời rao giảng công
khai của Chúa. Chúa Giêsu đã nhắc đến hai điểm chính yếu là: "Tin Ngài là
tin Chúa Cha và thấy Ngài là thấy Chúa Cha".
Tin
Chúa thì sẽ mang lại ánh sáng cho cuộc đời, vì đức tin là ánh sáng, không tin
thì sống trong tối tăm. Từ chối không tin Con Người thì tự kết án mình, mặc dù
Chúa Giêsu không đến để kết án mà để cứu rỗi. Không ai có thể thoát ra khỏi sự
xét xử cuối cùng này, và sự xét xử ấy là bởi thái độ do con người tin nhận hay
từ chối từ Thiên Chúa: "Ai nghe lời Ta mà không tin giữ thì không phải Ta
kết án kẻ đó, nhưng chính Lời Ta sẽ xét xử nó" (Ga 12,47-48), không ai có
thể thoát khỏi sự xét xử này, nhưng sự xét xử đó sẽ đến trong ngày sau hết.
Trong
cuộc sống, Thiên Chúa luôn kêu mời con người trở về với Ngài sau những lần sa
ngã hay lúc họ chối từ Ngài, thời giờ chúng ta đang sống là thời giờ của lòng
nhân từ thương xót Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta đừng lạm dụng lòng nhân từ
Chúa, đừng khinh dể bỏ qua ơn soi sáng của Ngài. Qua đoạn Phúc Âm trên, thánh sử
cho thấy rõ ý Chúa muốn nói với mỗi người, đó là Ngài muốn chúng ta lắng nghe
lời Ngài và sống kết hợp với Ngài "biết giới răn Cha Ta là sống đời
đời" (Ga 12,50).
Lạy
Cha là Ðấng Toàn Năng Hằng Hữu, Cha đã đặt vào tâm hồn con người một niềm khao
khát sâu xa về Cha, đến độ con người sẽ được an bình chỉ khi nào họ đến gặp
Cha. Xin Cha hãy thương làm sao để cho con người vượt qua những thử thách,
những trở ngại mà nhìn nhận những dấu chỉ về lòng nhân từ của Cha, và có được
niềm vui khi chân nhận Cha là Thiên Chúa duy nhất, Cha là Ðấng chân thật của
mọi người. Amen.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Thứ Tư Tuần
IV PS
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sẵn sàng vâng lời Thiên Chúa.
Có
rất nhiều khác biệt giữa lời của Thiên Chúa và lời của con người: Lời của Thiên
Chúa khôn ngoan tuyệt đỉnh, không thay đổi, và mang lại sự sống cả đời này và
đời sau; trong khi lời của con người không thể khôn ngoan bằng Lời Chúa, thay
đổi, chưa chắc đã mang lại sự sống đời này, và không thể mang sự sống đời sau.
Các
Bài Đọc hôm nay dạy con người phải biết vâng lời Thiên Chúa qua sự thúc đẩy của
Thánh Thần và thực thi những gì Chúa Giêsu nói. Trong Bài Đọc I, tuy Hội Thánh
Antioch mới lập, nhưng họ sẵn sàng theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, hy sinh
Barnabas, Phaolô, và Gioan Marcô, để các ông lên đường rao giảng Tin Mừng đến
các nơi chưa được nghe. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: Ngài chỉ nói những
gì Ngài nghe được nơi Thiên Chúa. Vì thế, tuân giữ Lời Ngài là tuân giữ Lời
Thiên Chúa; nếu không, những Lời này sẽ trở nên quan tòa xét xử con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Hội Thánh tại Antioch
vâng lời Thiên Chúa.
1.1/
Lời Chúa tiếp tục lan tràn và phát triển đến mọi nơi: Đây là mục đích
trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa nên Ngài tạo mọi cơ hội cho các sứ giả
loan báo Tin Mừng. Vài ví dụ cho chúng ta thấy điều này: Phải có cuộc bách hại
tại Jerusalem sau khi Stephanô chịu tử đạo, các môn đệ Chúa mới chịu tản mác đi
các nơi và rao giảng Tin Mừng; trong khi các Tông-đồ ở lại Jerusalem để củng cố
Hội Thánh Trung Ương. Phó-tế Philip xuống Samaria và rao giảng Tin Mừng cho dân
ở đây. Ông cũng gieo hạt giống cho dân Ethiopia khi rao giảng Tin Mừng và
làm Phép Rửa cho viên Thái Giám. Ngài làm cho Saul, kẻ nhiệt thành bắt bớ đạo
thánh, được trở lại; và giờ đây sẵn sàng để nhiệt thành rao giảng Tin Mừng như
tường thuật hôm nay. Nơi nào Tin Mừng được rao giảng, Thiên Chúa cũng ban cho
có các ngôn sứ và thầy dạy, như trong Hội Thánh tại Antioch, có các ông
Barnabas, Simeon biệt hiệu là Đen, Lucius người Cyrene, Manaen, bạn thời thơ ấu
của tiểu vương Herode, và Phaolô.
1.2/
Giáo đoàn tại Antioch
sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần.
-
Sứ vụ riêng cho Phaolô và Barnabas: Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa
và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: "Hãy dành riêng Barnaba và Phaolô cho
Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm." Đây là lệnh truyền
không dễ làm cho Hội Thánh tại Antioch ,
vì hai ông là hai cột trụ của cộng đoàn và Hội Thánh địa phương còn non nớt.
Theo sự suy nghĩ loài người: nếu mất hai ông, cộng đoàn sẽ suy xụp và không
phát triển được. Nhưng họ quyết định không sống theo sự suy nghĩ của con người;
nhưng theo niềm tin vào Thiên Chúa và sự hướng dẫn của Thánh Thần: "Bấy
giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi."
-
Đây là bài học quí giá cho mọi tín hữu: Phải hy sinh cho việc rao giảng Tin Mừng sao
cho mỗi ngày một lan rộng, chứ không ích kỷ giữ người cho mình. Hơn nữa, khi
nhà lãnh đạo đương nhiệm ra đi, Thiên Chúa sẽ gởi người khác tới, và mọi người
trong Hội Thánh địa phương sẽ ý thức được vai trò của mình và cộng tác đắc lực
hơn.
-
Phaolô, Barnabas, và Gioan Marcô bắt đầu thành các cộng đoàn mới: "Vậy, được
Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Seleucia, rồi từ đó đáp tàu đi đảo Cyprius.
Đến Salamis, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong các hội đường người Do-thái.
Có ông Gioan giúp hai ông."
2/
Phúc Âm: Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha
2.1/
Con người phải tin và vâng lời Chúa Giêsu: Đức Giê-su lớn tiếng nói rằng:
-
"Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã
sai tôi."
Người được sai đi có đầy đủ chức vị và thẩm quyền như Đấng sai đi. Vì thế, tin
vào sứ giả là tin vào người sai sứ giả; từ chối sứ giả là từ chối người sai sứ
giả.
-
"Ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi." Đây là lời mặc khải mới lạ. Đối với
con người, Người sai đi và sứ giả là hai chủ thể riêng biệt. Đối với Thiên
Chúa, Người sai đi (Chúa Cha) và Người được sai đi (Chúa Con) là một; vì cả hai
đều là Thiên Chúa, nhưng làm các việc khác nhau. Điều này cũng được Chúa Giêsu
xác tín, khi Philip yêu cầu: "Xin Thầy chỉ cho chúng con thấy Cha, thế là
chúng con mãn nguyện rồi." Chúa Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy
lâu, thế mà anh Philíp, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha!" Anh không tin
rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với
anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy,
chính Người làm những việc của mình" (Jn 14:9-10).
-
"Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại
trong bóng tối." Ánh sáng và bóng tối là hai điều trái nghịch nhau: khi có ánh
sáng thì không có bóng tối; và ngược lại. Người tin vào Đức Kitô không thể ở
trong bóng tối, vì Đức Kitô là ánh sáng. Điều này không có ý nói, người nào đã
tin Đức Kitô là sẽ không còn bóng tối trong mình; nhưng nếu người tin Ngài chịu
để cho ánh sáng của Ngài soi dẫn vào mọi ngóc ngách trong tâm hồn, họ sẽ chỉ
còn là ánh sáng.
-
"Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét
xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian." Câu này lặp
lại những gì Chúa Giêsu đã nói trong Jn 3:16-21. Chương 12 của Gioan là chương
cuối cùng của cuộc đời công khai rao giảng của Đức Kitô, vì từ chương 13 tới 21
dành cho các môn đệ và Cuộc Thương khó của Ngài. Vì thế, chương 12 tóm gọn
những đạo lý chính của Chúa Giêsu.
-
"Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy
- chính lời tôi đã nói sẽ là quan tòa xét xử người ấy trong ngày sau hết." Theo Jn 3:18, con
người xét xử chính mình khi không tin vào Đức Kitô. Với những người không có cơ
hội gặp Chúa Giêsu và những người thuộc các thế hệ sau như chúng ta, Lời Chúa
trở thành quan tòa xét xử cho những ai không chịu tin vào Lời Ngài.
2.2/
Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha: "Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là
chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố
gì." Người được sai đi phải nói những gì người sai đi muốn nói; nếu không,
họ sẽ không còn là sứ giả hay ngôn sứ của người đã sai họ đi.
Tuy
nhiên, sự vâng lời của Chúa Giêsu không có tính cách nô lệ hay mù quáng, vì
Ngài phán: "Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy,
những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi." Nói cách
khác, Ngài biết Lời của Chúa Cha là sự thật, và có khả năng giải thoát con
người khỏi tội, và cho con người được sống muôn đời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
-
Chúng ta phải luôn nhớ Thiên Chúa vẫn đang hoạt động và điều khiển mọi sự trong
vũ trụ. Bổn phận của chúng ta là cầu nguyện để nhận ra và mau mắn thi hành
thánh ý của Ngài.
-
Chúng ta phải chịu trách nhiệm trong việc rao giảng Tin Mừng cho mọi người, chứ
không ích kỷ chỉ biết lo lắng cho mình hay cho giáo xứ. Khi đã hiêu biết Lời
Chúa rồi, chính chúng ta phải sống và làm chứng cho Tin Mừng
-
Đừng khinh thường Lời Chúa vì những Lời này sẽ trở thành quan tòa để phán xét
chúng ta; hơn nữa, đó là những Lời mà vì yêu chúng ta, Thiên Chúa nói với chúng
ta những Lời này.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
HẠT
GIỐNG NẨY MẦM TUẦN 4 PHỤC SINH
Ga
12,44-50
A. Hạt giống...
Bài giáo lý thứ 4 : đi theo ánh sáng Chúa
Giêsu
Chủ đề Ánh sáng là một chủ đề lớn trong Tin
Mừng Gioan. Ngay từ bài tiền ngôn, Gioan đã viết : "Ngôi Lời là ánh sáng
thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người". Việc Chúa Giêsu giáng
thế cũng như một luồng ánh sáng đến trong đêm tối. Và rồi sau một thời gian
Chúa Giêsu sống với loài người, một số đã đến với Ngài, nhưng một số vẫn chối
từ Ngài. Bài Tin Mừng này là phần cuối sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngài nhắc lại :
"Ta là sự sáng đã đến thế gian...". Những ai không đón nhận
Ngài tức là tự ý ở trong tối tăm, ấy là án xét xử họ do chính họ tự xử lấy.
B.... nẩy mầm.
1. Sống ở đời là sống trong cảnh tranh tối
tranh sáng. Ngay trong lòng ta cũng có bóng tối và ánh sáng phân tranh. Nhiều
khi ta cứ lưỡng lự trước những sự chọn lựa, nửa muốn chọn theo sáng, nửa muốn
chọn theo tối. Là Kitô hữu, ta phải tập quen chọn hành động theo sự sáng.
2. Người đời hay mê lầm : có người nghĩ rằng
trong cuộc sống không gì quan trọng bằng tiền bạc, người khác nghĩ không gì
quan trọng bằng lạc thú, người khác nữa nghĩ điều quan trọng nhất là địa vị...
Tại vì họ không được ánh sáng Chúa soi dẫn. Bởi thế Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy
theo ánh sáng của Ngài.
3. Một hôm, vị đạo sĩ hỏi các đệ tử : làm
sao có thể biết được là ngày đã đến và đêm sắp kết thúc ? Mỗi đệ tử thứ nhất
trả lời một cách khác nhau nhưng không câu trả lời nào làm ông hài lòng. Sau
cùng ông nói : "Khi chúng ta nhìn vào người bên cạnh, nếu chúng ta có thể
nhìn người đó như người anh em chúng ta, thì lúc đó là ngày cho chúng ta, nhưng
bao lâu chúng ta chưa đạt được điều này thì chúng ta sống trong đêm tối"
(Góp nhặt)
4. Chúng ta phải sống như con cái sự sáng,
không phải chỉ vì lợi ích cho chúng ta, mà còn để cho đời này bớt tăm tối.
Thánh Phaolô khuyên : "Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm
trời thế gian".
5. Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng đến
nỗi Chúa đã làm ra nó trước cà trời và đất. Khi đã có ánh sáng thì mọi sự khác xuất
hiện theo. Hãy nhìn quanh ta, ta sẽ thấy ánh sáng giúp ta rất nhiều cách : ánh
sáng mặt trời làm cho sinh vật lớn lên, sưởi ấm con người và hong khô quấn áo.
Nhờ có ánh sáng, ta mới thấy được sự vật quanh ta. Ánh sáng còn là thuốc chữa
trị nhiều chứng bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại ; Hãy nghĩ tới ánh sáng của
các ngọn đèn : ta dùng chúng để trang hoàng nhà cửa, nhờ chúng ta mới thấy
đường mà đi trong đêm tối ; Nếu không có ánh sáng, sinh vật không lớn lên được
và sẽ chết dần mòn... Bởi thế người ta sợ bóng tối và vui mừng vì ánh sáng
(Frank Mihalic).
6. (những mầm khác)
Lm.Carolo
HỒ BẶC XÁI – Gp.Cần Thơ
24/04/13 THỨ TƯ TUẦN 4 PS
Th. Phiđen Díchmarinhngân, linh mục, tử đạo
Ga 12,44-50
Th. Phiđen Díchmarinhngân, linh mục, tử đạo
Ga 12,44-50
TIN
VÀO ĐẤNG THIÊN SAI
Đức
Giê-su lớn tiếng nói rằng :”Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi,
nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi.” (Ga 12,44)
Suy niệm: Tục
ngữ có câu: “Vì thần mà nể cây đa.” Cây đa, một vật vốn dĩ tầm thường
lại được kính trọng, không phải vì nó bỗng nhiên có giá trị hay quyền lực tự
chính nó nhưng chính vì người ta “nể mặt” “ông thần” mà người ta nghĩ là đang
nương náu nơi nó. Sự thật đó còn hùng hồn biết mấy nơi sứ mạng của Đức Giêsu
Kitô. Người không những là “sứ giả” của Thiên Chúa, là người “nói lời của Thiên
Chúa”, mà hơn nữa, Người còn là Lời của Thiên Chúa, và là chính Thiên Chúa:
Thiên Chúa hiện thân nơi con người Giêsu. Giữa “Đấng đã sai tôi”
và “Đấng được Chúa Cha sai đến” không có một khoảng cách nào.
Vì thế “sự sống đời đời là nhận biết Thiên Chúa” và điều đó cũng đồng
nghĩa với “tin vào Đấng mà Cha đã sai.”
Mời Bạn:
Giống như thánh tông đồ Philípphê, bạn được mời gọi nhìn thấy và tin vào Thiên
Chúa nơi Đức Giêsu Kitô: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Mà Chúa
Giêsu Kitô thì vẫn hiện diện đó, nơi Bí tích Thánh Thể. Vậy mời bạn hãy đến gặp
chính Thiên Chúa qua việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể.
Sống Lời Chúa: Bạn coi việc siêng năng rước lễ như việc trọng tâm, không thể
thiếu cho cuộc sống tâm linh của bạn. Khi nào không thể rước lễ được, bạn kết
hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể bằng cách rước lễ thiêng liêng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, “xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là
đủ cho chúng con rồi.” Xin cho chúng con biết đến với Chúa trong Bí tích Thánh
Thể, để ngay ở trần gian này chúng con đã được gặp gỡ và kết hiệp với Chúa, là
Sự Sống và Hạnh Phúc vĩnh cửu của chúng con.
Không
ai cướp được chúng
Cuộc
sống của người Kitô hữu không tránh khỏi những khó khăn mà những người không
Kitô hữu phải đối mặt mỗi ngày. Hơn nữa, người Kitô hữu còn gặp nhiều khó khăn
hơn.
Suy niệm:
Có những Kitô hữu theo đạo để mong tránh sóng
gió của cuộc đời. Nhưng đã có lần con thuyền chở
Đức Giêsu và môn đệ gặp bão lớn, nước tràn vào khiến thuyền
gần chìm, làm môn đệ hốt hoảng. Theo Chúa đâu phải để
tránh bão, nhưng để vượt qua cơn bão. Theo Chúa đâu
phải để khỏi bị cám dỗ, nhưng để thắng cơn cám dỗ. Cuộc sống của người Kitô hữu không tránh khỏi những khó khăn mà những người không Kitô hữu phải đối mặt mỗi ngày. Hơn nữa, người Kitô hữu còn gặp nhiều khó khăn hơn. Có những cơn bão ập đến bất ngờ chỉ vì họ là Kitô hữu. Làm chiên trong đàn chiên của Đức Giêsu không có nghĩa là được hưởng một sự êm ả dễ chịu. Được ở trong ràn chiên của Chúa, không có nghĩa là được yên ổn, chẳng bị ai quấy phá. Đức Giêsu đã nói đến chuyện kẻ trộm, kẻ cướp, leo tường mà
vào (c.10).
Chúng đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy đàn
chiên (c. 10). Khi được dẫn đi ăn nơi đồng cỏ,
chiên còn phải đối đầu với sói dữ. “Sói cướp lấy
chiên và làm cho chiên tán loạn” (c. 12). Đức Giêsu
khẳng định mình không phải là người làm thuê, nên khi
sói đến, Ngài không bỏ chiên mà chạy. Chiên là điều
quý giá đối với Ngài đến độ Ngài dám nói nhiều lần: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (cc.
11.15.17.18.). Và thực sự Ngài đã làm điều đó
trên thập giá. Rõ ràng bảo vệ đoàn chiên là
chuyện mấy chẳng dễ dàng. Nếu Đức Giêsu, người mục tử nhân
hậu mà bất khuất, đã phải hy sinh mạng sống cho
đoàn chiên,
thì hẳn cuộc chiến giằng co phải rất là ác
liệt. Kẻ thù của chiên chẳng phải là kẻ kém cỏi tầm thường. Trong cuộc chiến để bảo vệ chiên, còn có sự hiện diện của
Cha. Chiên là của Cha và Cha đã giao chiên cho Đức Giêsu (c. 29). Cha và Con cùng hợp tác để bảo vệ đoàn chiên, không để ai cướp chiên ra khỏi vòng tay che chở của mình
(cc. 28-29).
Cha và Con một lòng một ý trong nhiệm vụ này
(c. 30).
Việc bảo vệ chiên còn kéo dài mãi đến tận thế. Chúng ta làm gì để cộng tác với Chúa trong việc bảo vệ mình
khỏi sói dữ?
Hãy tin vào Giêsu và nhận ra giọng nói của
Giêsu để khỏi bị lừa. Hãy theo sát sự dẫn đường của
Giêsu, vị Mục tử đã chiến thắng cái chết. Và hãy tin vào
Chúa Cha, Đấng mạnh mẽ hơn tất cả (c. 29).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời, Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục. Chúa vừa chọn chúng con
ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó. Thế gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài. Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình, giữ được vị mặn của muối, và
sức tác động của men, để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống. Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế. Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo, những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con, thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
SUY NIỆM Ga 12,44-50
Trong những lần giảng dạy, Đức Giêsu hay đề cập đến cụm
từ ‘ánh sáng’ và sự cần thiết của ánh sáng. Trong đoạn Tin Mừng này, Ngài khẳng
định rõ ràng: “Tôi là Ánh Sáng”. Và Ngài đề nghị ta bước vào vùng sáng của Ngài
qua việc: thấy Ngài, tin vào Ngài, nghe lời Ngài. Đồng thời, Ngài cũng cảnh báo
một thứ ‘bóng tối’ có thể cướp mất sự sống đời đời đối với những ai không tin
Ngài, không đón nhận lời Ngài.
Có lẽ, ta cần nhìn nhận thực tế hôm nay: trong mọi việc,
người ta đang cố tình cắt nghĩa lương tâm cho thật rộng để khỏi phải áy náy
điều gì. Cụ thể, chuyện phá thai, bất công, lỗi luật Chúa, lỗi luật Giáo hội…
đang được người ta giải thích để không còn là một tội nữa. Ngày nay, người ta
đua nhau đấu tranh để được phép làm điều xấu.
Mong sao, trong thời đại tranh tối tranh sáng như hôm
nay, tôi đủ tỉnh thức để khước từ bóng tối.
Mong sao, tôi đủ bình tâm để chọn và ở lại trong vùng
sáng của Đức Kitô.
Mong sao, ơn thánh qua thánh lễ, qua các bí tích, qua Lời
Chúa… lôi tôi ra khỏi những bóng tối của tội lỗi thấp hèn, nâng tôi lên và giữ
tôi lại trong vùng sáng của Đức Kitô.
Lm. AN NAM
Hãy Nâng Tâm
Hồn Lên
24 THÁNG TƯ
Phó Thác Cho Quyền Lực
Cứu Độ Của Đức Kitô
Ơn cứu
chuộc bắt đầu với Thập Giá và được hoàn thành nơi cuộc Phục Sinh. Chiên Con đã
cứu chuộc bầy chiên. Đức Kitô vô tì tích đã giao hòa các tội nhân với Chúa Cha.
Và, con
người đã được giải thoát khỏi sự chết và được trao ban lại sự sống. Và, con
người đã được giải phóng khỏi tội lỗi và được trao ban lại tình yêu. Hỡi tất cả
những ai còn đang chìm trong bóng tối của sự chết, xin hãy lắng nghe: Đức Kitô đã
sống lại! Hỡi tất cả những ai còn đang bị đè nặng dưới ách của tội lỗi, xin hãy
lắng nghe: Đức Kitô đã vượt thắng tội lỗi nơi Thập Giá và nơi cuộc Phục Sinh
của Người! Hãy phó thác sự sống của anh em cho Người!
Hỡi con
người của thế giới hôm nay! Hãy qui phục Đức Kitô, qui phục quyền lực của
Người! Càng khám phá ra những nẻo đường tội lỗi sau lưng mình, anh em càng ý
thức hơn sự chết khủng khiếp như thế nào. Anh em hãy đặt mình trong quyền năng
cứu độ của Đức Kitô!
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul
II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
24-4
Thánh
Fiđêlê Sigmaringen, linh mục tử đạo.
Cv
12, 24-13,5a; Ga 12, 44-50
LỜI SUY NIỆM: “Ai chối
từ tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan tòa xét xử người ấy; chính lời
tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết’ (Ga 12,48)
Chúng
ta hết thảy đều đã tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa Thật, là
Đấng Cứu Độ trần gian. Khi đứng trước những Lời Chúa mời gọi đem vào trong cuộc
sống thật là một vấn đề không dễ chút nào, nhưng không vì thế mà mình có thể
khất hẹn, hay lờ tránh, nhưng phải biết cầu nguyện và dùng những Bí Tích trong
Giáo Hội ban tặng để nuôi sống đời sống của chúng ta. Qua sự siêng năng nhận lãnh
các Phép Bí Tích chúng ta sẽ dễ bề thực hiện những lời mời gọi của Chúa trong
đời sống của chúng ta.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
24-04
Thánh
FIDÊLÊ Đệ SIGMARINGA
Tử
Đạo - (1528 - 1622)
Thánh
Fidelê, tên thật là Marê Rey, sinh ra năm 1528 ở Sigmaringa nước Đức. Sau những
ngày trong tuổi thơ ấu trong trắng vô tội, Ngài được gởi đi học tại đại học tại
Friburg, Thụy Sĩ. Để tự chủ, Marê thực hiện nhiều việc bỏ mình nghiêm ngặt. Khi
đã hoàn tất cấp bậc tiến sĩ về triết học, Ngài đã tỏ ra rất mực khôn ngoan đến
nỗi người ta gọi Ngài là triết gia Kitô giáo.
Năm
1604, công tước Stotzngen xin Ngài hứơng dẫn cho con mình và hai nhà quí phái
khác trong một cuộc du hành khắp các vương quốc Âu Châu để học hiểu. Cuộc du
hành kéo dài sáu năm. Marê đã khuyên nhủ họ nhiều điều không thể quên được.
Ngài thúc giục họ phải biết thắng vượt chính mình: - Sống xa hoa nhẹ dạ, người
ta bất xứng với vinh quang thực mà chỉ chinh phục được bằng nỗ lực và bằng việc
chà đạp vui thú dưới chân.
Sau
cuộc viễn du những nhà quí phái trẻ muốn Ngài đừng bỏ họ. Ngài đã theo học
luật. Và sau khi nhận bằng tiến sĩ luật Ngài lập văn phòng luật sư ở Colmar . Ngài quyết thực
thi đức ái đến nỗi Ngài được gọi là luật sư của dân nghèo. Nhưng nghề nghiệp đã
cứu giúp Ngài khám phá ra được những bất lương của cuộc đời. Quyết định theo
đuổi đời sống hoàn hảo, Ngài tới gõ cửa dòng Phanxicô. Năm 1612 Ngài được danh
hiệu Fiđêlê.
Vị
luật sư trở thành thầy dòng làm cho ma quỉ tức giận. Trước các cơn cám dỗ, thày
Fiđêlê bối rối, nhưng thử thách tan biến khi Ngài đến giải bày nỗi lòng với một
linh mục giàu kinh nghiệm, Người đã dạy Ngài cầu nguyện nhiều hơn,
Fiđêlê
đã khẩn cầu tha thiết. - Lạy Chúa cứu chuộc con, xin trả lại niềm vui cần thiết
và bình an tâm hồn. Xin hãy tẩy sạch mọi nghi ngờ để ý Chúa được thực hiện và
để con thắng vượt quân thù, thắng con người và những đam mê của con.
Fiđêlê
nỗ lực hy sinh hãm mình cho đến khi Thiên Chúa ban lại bình an cùng ánh sáng
cho Ngài. Từ đó thánh nhân luôn trung thành quảng đại hiến mình cho Chúa. Ngài
nói: - Thật bất hạnh nếu tôi là một chiến sĩ dưới quyền thủ lãnh đầu đội mão
gai, mà lại chiến đấu một cách yếu hèn.
Khi
được chọn làm bề trên tu viện ở Weltkirvhen, Ngài được ơn làm phép lạ để hoán
cải người ta. Gặp thời dịch tể, Ngài hết mình phục vụ các bệnh nhân. Người ta
thấy Ngài ở khắp nơi, trong nhà thương, ở tư gia, chạy trên đường phố, săn sóc
thân xác linh hồn mọi người và thường chữa lành cho cả hồn lẫn xác.
Lạc
giáo tàn phá miền Grisons. Đức giáo hoàng giao cho thánh Fiđêlê trách nhiệm đối
phó với nhón người theo pháí Calvin. Thánh nhân giã từ tu viện, để lại bao
nhiêu là xúc động, Ngài từ biệt dân Weltkirchen như đi chịu tử đạo.
Nhưng
với các bạn đồng hành, Ngài khích lệ: - Nào chúng ta lên đường tới nơi mà Chúa
kêu gọi và mùa gặt thúc bách.
Ngài
giảng cho dân chúng, dạy người nghèo, thông truyền giáo lý cho trẻ em.
Để
cứu một linh hồn, Ngài cũng sẵn sàng đi chân không vượt qua mọi sỏi đá tuyết
sương. Những người Thệ phản bực tức vì sự anh dũng của thánh nhân nên họ quyết
thủ tiêu Ngài. Thư từ Ngài viết còn ghi: - Thày Fiđêlê sẽ sớm làm mồi cho sâu
bọ.
Một
lần kia, sau bài giảng hùng hồn, thánh nhân xin bạn mình ngồi tòa giải tội vì
Ngài phải đi Seewis không biết có điều gì sẽ xảy ra, nhiều người lo lắng cầu
nguyện cho Ngài.
Một
người đã hỏi: - Nếu các người theo lạc giáo tấn công thì Cha làm sao ?
Thánh
Fiđêlê trả lời: - Tôi sẽ làm như các vị tử đạo. Tôi sẽ vui mừng đón nhận cái
chết vì tình yêu Chúa và coi đó như một ân huệ lớn lao dành cho tôi.
Ngài
thường nói: - Lạy Chúa, con phải chịu khó với Chúa nếu con muốn được hoàn toàn
thuộc về Chúa.
Tại
Seewis, Ngài rung chuông tập họp dân chúng lại. Một riếng súng nổ, nhưng không
trúng Ngài. Trên đường về Grisch, Ngài bị một nhóm binh sĩ lạc giáo xông vào
đánh đập, Ngài chỉ nói được trong hơi thở yếu ớt: - Tôi hiến mạng sống tôi để
các bạn nhận biết đức tin của tổ tiên chúng ta.
Bị
đập, Ngài vẫn gắng gượng để thốt lên: - Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con. Lạy
Mẹ Maria, xin giúp đỡ con.
Và
Ngài đã xin Thiên Chúa tha cho kẻ thù mình và gục ngã dưới lưỡi gươm ngày 24
tháng 04 năm 1622.
(daminhvn.net)
24 Tháng Tư
Hạt Táo
Tại một xứ Hồi giáo
nọ, có một người đàn ông bị vua truyền lệnh treo cổ vì đã ăn cắp thức ăn của
một người khác. Như thường lệ, trước khi bị treo cổ, tù nhân được nhà vua cho
phép xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin với nhà vua như sau: "Tâu bệ hạ,
xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy
mầm, thành cây và có trái ăn ngay tức khắc. Ðây là một bí quyết mà cha thần đã
truyền lại cho thần. Thần tiếc là bí quyết này không được truyền lại cho hậu
thế".
Nhà vua truyền lệnh
cho chuẩn bị mọi sự sẵn sàng để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn cách
trồng táo. Ðúng giờ hẹn, trước mặt nhà vua và các quan văn võ trong triều đình,
tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói: "Chỉ có người nào chưa hề ăn cắp hoặc
lấy của người khác, người đó mớico thể trồng được hạt giống này. Vì đã từng ăn
trộm nên tôi không thể trồng được hạt giống này".
Nhà vua tin người tử
tội, nên mới quay sang nhìn vị tể tướng, có ý nhờ ông ta làm công tác ấy. Nhưng
sau một hồi do dự, vị tể tướng mới thưa: "Tâu bệ hạ, thần nhớ lại lúc còn
niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác... Thần cảm thấy mình không
đủ điều kiện để trồng hạt táo này". Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan
văn võ đang cómặt, ông nghĩ bụng: may ra quan thủ kho trong triều đình là người
nổi tiếng trong sạch có thể hội đủ điều kiện. nhưng cũng giống như vị tể tướng,
quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố trước mặt mọi người rằng, ông
cũng đã có một lần gian lận trong chuyện tiền bạc. không còn tìm được người nào
có thể thực hiện được bí quyết trồng cây ấy, nha vua định cầm hạt giống đến cho
vào lỗ đã đào sẵn. Nhưng ông cũng chợt nhớ rằng lúc còn niên thiếu, ông cũng có
lần đánh cắp một báu vật của vua cha...
Lúc bấy giờ, người tử
tội chỉ vì ăn cắp thức ăn, mới chua xót thốt lên: "Các ngài là những kẻ
quyền thế cao trọng. Các ngài không hề thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài cũng
không thể trồng được hạt giống này, bởi vì các ngài cũng đã hơn một lần lấy của
người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác
để ăn cho đỡ đói qua ngày, thì lại bị các ngài nghị án treo cổ...". Nhà
vua và cả triều thần nghe như xốn xáo trong lương tâm. Ông ra lệnh phóng thích
cho người ăn trộm.
Lời
cầu chúc "bình an" của Ðức Kitô Phục Sinh là một thứ hạt táo được
gieo vào tâm hồn chúng ta. hạt giống bình an đó chỉ có thể nảy mầm thành cây và
mang lại hoa trái là nếu mỗi người ai cũng dọn sẵn đất đai cho nó. Ðất đai
thuận tiện để cho hạt giống của Bình An ấy được nảy mầm, chính là lòng sám hối
thực sự. Sám hối nghĩa là biết chấp nhận chính bản thân và sãn sàng cảm thông,
tha thứ cho người khác. Có nhận ra những yếu đuối bất toàn của mình, con người
mới dễ dàng cảm thông và tha thứ cho người. Và có cư sử như thế, chúng ta mới thấy
được hạt giống Bình An nảy mầm trong tâm hồn chúng ta và mang lại hoa trái cho
người xung quanh...
(Lẽ
Sống)
Thứ Tư 24-4
Thánh Fidelis ở Sigmaringen
(1578 -- 1622)
|
Nếu có người nghèo cần đến quần áo, Thánh Fidelis thường
lấy ngay quần áo của mình đang mặc mà chia sẻ cho họ. Sự hoàn toàn độ lượng
là đặc tính của cuộc đời thánh nhân.
Sinh năm 1578 trong một gia đình giầu có ở Sigmaringen,
Thánh Fidelis có tên gọi là Mark Rey, ngay từ nhỏ rõ ràng ngài đã có những
khả năng đặc biệt. Sau khi được vinh dự nhận bằng tiến sĩ triết và luật tại
Ðại Học Freeburgh, Mark Rey cùng với ba người bạn đi khắp Âu Châu trong vòng
sáu năm. Ngài hành nghề luật sư, và các thân chủ đều mến mộ sự khôn ngoan và
công chính của ngài. Nhưng dần dà ngài cảm thấy ghê tởm sự thối nát trong
giới đồng nghiệp, và khi được hối lộ để kéo dài một vụ kiện ngài đã quyết
định đi tu, gia nhập dòng Phanxicô và lấy tên Fidelis. Tài sản của ngài được
chia cho người nghèo và nhà dòng.
Với quyết tâm rao giảng cho mọi người biết về đức tin
chân thật, sau khi thụ phong linh mục, Cha Fidelis được phép hoạt động truyền
giáo cho người Tin Lành, đó là một công việc đầy nguy hiểm trong thời ấy.
Ngài chuẩn bị cho sứ vụ này bằng việc học hỏi, viết lách, cầu nguyện và hãm
mình. Với những lời đầy nhiệt huyết ngài bài bác lạc thuyết của Calvin và
Zwingli. Nhiều người Tin Lành cũng như người Công Giáo sa ngã đã trở về với
đức tin Công Giáo.
Sau đó Cha Fidelis làm Giám Ðốc của một tu viện và là
nguồn khai sáng cho các tu sĩ với tinh thần chiêm niệm luôn bao trùm nhà
dòng. Chính ngài và các thầy chăm sóc các quân nhân về thể xác cũng như tinh
thần khiến các sĩ quan Tin Lành tức giận.
Có lần ngài nói với một linh mục bạn về hai điều ước của
ngài; một là được ơn không bao giờ phạm tội trọng, và hai là được chết vì Ðức
Tin. Thiên Chúa đã nhận lời ngài.
Trong ba năm, ngài được Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XV sai
đến Thetia hoạt động và ngài hoán cải rất nhiều người. Các giáo sĩ theo phái
Calvin(*) xách động dân chúng, và vào ngày 24 tháng Tư 1624, đó là lần rao
giảng chót của Cha Fidelis. Khi ngài vừa lên toà giảng để nói về "Một
Thiên Chúa, Một Ðức Tin, Một Phép Rửa", đám đông la ó phản đối, họ
lôi ngài ra khỏi nhà thờ và dùng gậy gộc đánh đập và dùng gươm đâm ngài chết.
Lời
Bàn
Sự liên lỉ cầu nguyện của Thánh Fidelis đã giữ ngài luôn
trung thành với Thiên Chúa và không nhượng bộ sự lãnh đạm và thờ ơ. Người ta
thường nghe ngài nói, "Khốn cho tôi, nếu tôi chỉ là một người lính
thiếu tận tâm phục vụ vị Thủ Lãnh đội mão gai." Sự cầu nguyện đối
với sự thờ ơ, và sự lưu tâm đối với người nghèo đã khiến thánh nhân trở nên
một gương mẫu có giá trị cho ngày nay. Giáo Hội thường kêu gọi chúng ta hãy
noi gương người "luật sư của người nghèo" này bằng cách chia
sẻ tài năng chúng ta với những người kém may mắn, và hoạt động cho sự công
bằng của thế giới.
Lời
Trích
"Hành động vì sự công bằng và tham dự trong việc
biến đổi thế gian thực sự là một yếu tố cơ bản trong việc rao giảng phúc âm
hoặc, nói cách khác, trong sứ vụ của Giáo Hội để cứu chuộc loài người và giải
thoát con người khỏi mọi áp bức" ("Sự Công Bằng
Trong Thế Giới," Thượng Hội Ðồng Giám Mục, 1971).
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét