13/01/2015
Thứ Ba
Tuần I Mùa Thường Niên Năm lẻ
BÀI ĐỌC I: Dt 2, 5-12
"Đấng ban ơn cứu độ phải chịu khổ nạn để nên
hoàn hảo".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Thiên Chúa đã không đặt dưới quyền các thiên thần vũ trụ tương
lai mà chúng tôi đang nói đến. Nhưng có người đã minh chứng trong một đoạn sách
kia rằng: "Nhân loại là gì mà Chúa nhớ đến, con người là gì mà Chúa đến viếng
thăm? Trong một thời gian, Chúa đã hạ Người xuống kém các thiên thần; Chúa lại
đặt trên đầu Người triều thiên vinh quang và danh dự; Chúa đã đặt Người cai trị
các công trình tay Chúa tác thành; và bắt vạn vật quy phục dưới chân Người. Vì
khi Ngài bắt vạn vật quy phục Người, Ngài không trừ ra vật nào khỏi phục tùng
Người. Hiện nay chúng ta chưa thấy mọi sự phục quyền Người. Nhưng Đấng trong một
thời gian bị hạ xuống kém các Thiên thần, là Đức Giêsu, chúng ta thấy Người được
triều thiên vinh quang và danh dự vì cuộc tử nạn của Người, để nhờ ơn Thiên
Chúa, Người chịu chết thay cho mọi người. Quả vậy, thật là thích hợp việc Chúa
là nguyên nhân và cùng đích mọi vật, đã dẫn đưa nhiều con cái đến vinh quang và
đã lấy cuộc khổ nạn mà làm cho Đấng đem lại ơn cứu rỗi được hoàn hảo. Vì chưng,
Đấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc. Vì
thế, Người không hổ thẹn gọi họ là anh em mà rằng: "Tôi sẽ cao rao danh
Chúa cho anh em tôi; tôi sẽ ngợi khen Người giữa cộng đoàn". Đó là lời
Chúa.
ĐÁP CA: Tv 8, 2a và 5. 6-7. 8-9.
Đáp: Chúa ban cho Con Chúa quyền hành trên công cuộc tay Ngài
sáng tạo (c. 7).
1) Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, nhân loại là chi mà Chúa nhớ tới?
con người là chi mà Chúa để ý chăm nom? - Đáp.
2) Chúa dựng nên con người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức
con người bằng danh dự với vinh quang, Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc
tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn vật dưới chân con người. - Đáp.
3) Nào chiên, nào bò, thôi thì tất cả, cho tới những muông thú ở
đồng hoang, chim trời với cá đại dương, những gì lội khắp nẻo đường biển khơi.
- Đáp.
ALLELUIA: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của
Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 1, 21-28
"Ngài giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
(Đến thành Capharnaum), ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy
trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy
người ta như Đấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Đang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên
thét lên rằng: "Hỡi Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông
đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai: là Đấng Thánh của Thiên
Chúa". Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi, và ra khỏi người
này!" Thần ô uế liền dằn vật người ấy, thét lên một tiếng lớn, rồi xuất khỏi
người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái chi vậy? Đây là một giáo
lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế, và chúng
vâng lệnh Người". Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn
khắp vùng lân cận xứ Galilêa. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Ðấng có uy quyền
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường
và chữa lành một người bị quỉ ám.
Sau khi Gioan Tẩy Giả bị bắt giam, Chúa Giêsu trở về Galilê và
giảng dạy trong Hội đường một cách công khai. Ngài giảng dạy với uy quyền của
Thiên Chúa, chứ không như các Tiên tri trong Cựu Ước là những người được Thiên
Chúa ủy thác cho; Ngài cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những
người chỉ giải thích Kinh thánh và chất lên vai người dân gánh nặng của những
luật lệ tỉ mỉ bên ngoài. Giáo huấn của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, một
việc loan Tin Mừng cứu rồi, cách riêng cho những người nghèo khổ, những người bị
loại ra bên lề xã hội. Dân chúng nghe Chúa đều nhận thấy có sự khác biệt sâu xa
giữa giáolý của Chúa và những lời giảng dạy của các kinh sư Do thái.
Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một
người bị quỷ ám. Phép lạ này chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài có toàn quyền
trên quỷ dữ, Ngài đến để chấm dứt quyền thống trị của tà thần trên con người.
"Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải vâng theo". Phép lạ
Chúa Giêsu thực hiện gây hứng thú và kinh ngạc nơi dân chúng; trái lại, những kẻ
chống đối Chúa thì hạch sách Ngài: "Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?"
Họ không muốn công nhận những việc Chúa làm, họ mơ ước một Vị Cứu Tinh hùng mạnh
giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, trong khi đó Chúa Giêsu
lại đến để giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỷ và tội lỗi.
Thánh Phêrô đã mời gọi các người đồng hương của ngài: "Thưa
đồng bào Israel, xin hãy lắng nghe Chúa Giêsu Nazaret, là người đã được Thiên
Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Ngài, Thiên Chúa đã cho
Ngài làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em như chính anh em đã
biết điều đó".
Nguyện cho Lời Chúa hôm nay củng cố niềm xác tín rằng sứ mệnh cứu
thế phát xuất từ nơi Chúa và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội. Giáo Hội đã lãnh nhận
kho tàng đức tin và quyền thánh hóa và giáo huấn từ nơi Chúa. Xin cho chúng ta
luôn trung thành với Giáo Hội và sẵn sàng đón nhận giáo huấn của các chủ chăn
mà Chúa đã đặt lên hướng dẫn Dân Chúa trên đường tiến về Nước Trời.
Veritas Asia
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba
Tuần 1 TN, Năm lẻ
Bài đọc: Heb
2:5-12; Mk 1:21-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Uy quyền
của Chúa Giêsu
Để có thể thuyết phục người khác, người rao giảng cần có uy quyền
trong lời nói cũng như trong hành động. Ngòai sự thông hiểu về đề tài và cách
suy luận, người rao giảng còn phải biết cách trình bày sao cho sáng sủa, gọn
gàng, và dễ hiểu. Tuy nhiên, “lời nói chỉ mới lung lay;” muốn hòan tòan thuyết
phục khán giả, người rao giảng cần phải sống những lời mình rao giảng hay cần
những người khác làm chứng cho mình.
Các Bài Đọc hôn nay tập trung trong uy quyền của Chúa Giêsu.
Trong Bài Đọc I, Chúa Giêsu là lý do tại sao con người được phục hồi tình trạng
nguyên thủy: con người có quyền trên mọi sự và mọi lòai. Trong Phúc Âm, khán giả
của Chúa Giêsu nhận ra ngay sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và các kinh-sư: “Thế
nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho
cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Muôn loài muôn sự phải phục quyền con người.
Để hiểu tư tưởng của tác giả trong đọan văn này, chúng ta cần hiểu
danh từ con người. Khi thì tác giả dùng để chỉ lòai người cách tổng quát, khi
thì áp dụng cho Chúa Giêsu như là vị đại diện của lòai người. Trong trường hợp
thứ hai, Con Người phải được viết hoa. Chúng ta có thể phân biệt 3 tình trạng của
lòai người như sau:
1.1/ Phẩm giá cao trọng của lòai người trong ý định của Thiên Chúa: Tác giả
quả quyết con người sẽ làm chủ thế giới tương lai: “Thật vậy, Thiên Chúa đã
không trao cho các thiên thần quyền làm chủ thế giới tương lai, thế giới mà
chúng ta đang nói đến. Nhưng trong một đoạn Kinh Thánh kia, có người đã làm chứng
rằng: Phàm nhân là chi mà Chúa cần nhớ đến? Con người là gì mà Chúa phải thăm
nom? Chúa đã làm cho con người thua kém các thiên thần trong một
thời gian ngắn, ban vinh quang, danh dự làm mũ triều thiên, đặt muôn loài, muôn
sự dưới chân con người, bắt chúng phải phục quyền con người. Khi bắt muôn loài
muôn sự phải phục quyền con người, Thiên Chúa không để cho một sự gì không phục
quyền con người.”
- Đọan văn mà tác giả trích ở đây là Thánh Vịnh 8:5-7, nói về phẩm
giá con người. Họ cao trọng hơn hết mọi lòai trong ý định của Thiên Chúa.
- Một điểm liên quan đến bản văn cần lưu ý: Bản dịch của Nhóm
PVCGK dịch từ bản Bảy Mươi của Hy-Lạp, dùng chữ “thua kém các thiên-thần.”
Trong khi bản MT của Do-Thái dùng chữ “thua kém Thiên Chúa, Elohim.”
Theo văn mạch, bản Bảy Mươi hợp lý hơn nếu chúng ta hiểu tình trạng của con người
sau khi phạm tội, họ thua kém các thiên-thần. Bản MT của Do-Thái đúng trong ý định
của Thiên Chúa và sau khi phẩm giá con người được phục hồi nhờ Đức Kitô.
1.2/ Tình trạng của lòai người sau khi phạm tội: “Thật
ra, hiện nay chúng ta chưa thấy muôn loài muôn sự phục quyền con người.” Có lẽ
đây là tình trạng của con người sau khi phạm tội và trước khi được cứu chuộc bởi
Đức Kitô
1.3/ Tình trạng của lòai người sau khi đã được Đức Kitô cứu chuộc:
Qua đau khổ, Đức Kitô đã chuộc lại phẩm giá nguyên thủy cho con người. Tác giả
viết: “Nhưng con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn,
thì chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu. Thật vậy, Đức
Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa.”
Vì thế, trong ý định muôn đời của Thiên Chúa, con người chỉ thua
kém Thiên Chúa, nhưng cao trọng hơn các mọi lòai, bao gồm cả thiên thần. Khi
con người phạm tội, thứ tự bị đảo ngược, con người thua thiên-thần; nhưng Thiên
Chúa đã có kế họach phục hồi tình trạng nguyên thủy cho con người qua Đức Kitô:
“Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn
vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức
Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn
ơn cứu độ. Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều
do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em, khi nói: Con
nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội
Dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương.”
2/ Phúc Âm: Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền.
2.1/ Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người: “vì Người
giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh-sư.” Qua lời nhận
xét này, khán giả đã nhận ra ngay sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và các kinh-sư:
- Đấng có thẩm quyền: Người biết rõ vấn đề chứ không dựa theo
người khác. Điều này dễ hiểu nếu chúng ta nhìn nhận Đức Kitô chính là sự khôn
ngoan hay trí tuệ của Thiên Chúa. Ngài biết mọi sự xảy ra trong quá khứ, hiện tại,
và tương lai. Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã thẳng thắn sửa chữa sự hiểu
sai của truyền thống: “Người xưa dạy… phần Thầy, Thầy dạy các con… ”
- Các kinh-sư: Họ chỉ hiểu phần nào của vấn đề chứ không thông
suốt tất cả. Họ phải dựa vào thẩm quyền của Kinh Thánh để biện minh cho những lời
giải thích của họ, chứ không dám đưa ra một giáo lý gì mới cả.
2.2/ Chúa Giêsu có uy quyền trên các thần ô uế: Trình
thuật kể: trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng:
"Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt
chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!"”
Người Do-Thái tin có rất nhiều thần ô uế trong thế giới, và
chính Chúa Giêsu đã nhiều lần trục xuất các thần ô uế khỏi con người, điển hình
là trình thuật hôm nay. Các thần ô uế này có thể là oan hồn của các kẻ gian ác
chưa được giải thóat, hay dựa trên trình thuật của Stk 6:1-4.
(1) Ông là “Đấng Thánh”của Thiên Chúa: Thần ô
uế biết nguồn gốc và mục đích của Chúa Giêsu. Nguồn gốc: Chúa Giêsu đến từ
Thiên Chúa. Mục đích: Ngài đến để tiêu diệt tội lỗi và các kẻ gây ra tội lỗi.
Không những thế, Ngài còn khôi phục lại sự thánh thiện của con người, làm cho họ
xứng đáng được hưởng nhan thánh Chúa.
(2) Chúa Giêsu truyền lệnh: "Câm đi, hãy xuất khỏi người
này!" Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh
ta.
(3) Phản ứng của con người: Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi
họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại
có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Vì Chúa Giêsu đã chịu chết để phục hồi phẩm giá nguyên thủy
cho con người, chúng ta cần bắt chước Chúa Giêsu để tiêu diệt và tránh xa ảnh
hưởng của các thần ô uế.
- Để có thể thuyết phục người khác tin vào Chúa, chúng ta cần
thông suốt những gì Chúa dạy trước khi có thể rao truyền Tin Mừng cho người
khác.
- Một cuộc sống theo những đòi hỏi của Tin Mừng sẽ dễ dàng thuyết
phục những người khác tin vào Thiên Chúa hơn là chỉ thuần túy rao giảng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
13/01/15 THỨ BA TUẦN 1
TN
Th. Hi-la-ri-ô, giám mục, tiến sĩ HT
Mc 1,21b-28
Th. Hi-la-ri-ô, giám mục, tiến sĩ HT
Mc 1,21b-28
Suy niệm: Người
Trung Hoa xưa cũng như nay rất kính trọng Khổng Tử. Ông là một vị thầy lớn của
họ, những lời ông nói ra được các học trò ghi chép và truyền lại, rồi họ làm cho
lời ông thấm nhuần tận cốt tuỷ của người Trung Hoa qua các thời đại. Lời của
ông rất hữu ích cho những luật lệ xã giao lễ phép tự nhiên của con người. Tuy
nhiên, lời của ông không thể làm cho con người được sống đời đời, và cũng không
thể giải thoát nhân loại khỏi ách sự dữ là ma quỷ. Lời Chúa hôm nay cho chúng
ta thấy rõ Chúa Giê-su là Thiên Chúa, là Đấng cứu chuộc nhân loại, lời Ngài
giảng dạy có uy quyền khiến thiên hạ phải sửng sốt. Lời của Ngài không chỉ dạy
ăn ngay ở lành, nhưng lời của Ngài còn ra lệnh truyền cho cả các thần ô uế và
chúng phải tuân theo.
Mời Bạn: Bạn
có phải là người sách gì cũng đọc nhưng hễ cầm đến quyển Kinh Thánh thì cảm
thấy chán nản, mệt mỏi?
Chia sẻ: Có
những gia đình Công giáo mua về nhiều sách đạo đức chất đầy tủ, nhưng sách gối
đầu giường lại là những cuốn tiểu thuyết, sách báo nhảm nhí. Trong năm Tân Phúc
Âm hoá giáo xứ này, bạn và nhóm của bạn có thể làm gì để giúp nhau say mê Lời
Chúa hơn?
Sống Lời Chúa: Dành
ít là 5 phút mỗi ngày để đọc và suy gẫm Lời Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, qua Kinh Thánh, Chúa vẫn giảng dạy cho chúng con; qua Bí
tích Giải tội, Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con. Xin cho chúng con biết tận dụng
những phương tiện Chúa ban để nên giống Chúa hơn và làm sáng danh Chúa nhiều
hơn. Amen.
Đấng Thánh của Thiên Chúa
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới bị ô
nhiễm, từ không khí, nước uống đến những sản phẩm nhiễm độc của con người.
Nhưng điều đáng sợ hơn cả là bầu khí ô nhiễm về tinh thần.
Suy niệm:
Trong Tin Mừng theo thánh
Máccô,
ta không thấy có những bài
giảng dài như Tin Mừng Mátthêu hay Gioan.
Nhưng bù lại Máccô đã kể khá
nhiều phép lạ của Đức Giêsu.
Khung cảnh của bài Tin Mừng
hôm nay
là hội đường vùng Caphácnaum
vào một ngày sabát.
Theo Máccô, Đức Giêsu đã bắt
đầu sứ vụ từ đây.
Chúng ta cần xem Ngài đã
sống ngày sabát như thế nào.
Trước hết Ngài đã vào hội
đường và giảng dạy.
Thánh Máccô không kể lại nội
dung của bài giảng,
chỉ cho biết là người ta
sửng sốt khi nghe Ngài
vì cách giảng đầy uy quyền
(c. 22) và lời giảng thì mới mẻ (c.27).
Phép lạ đầu tiên Đức Giêsu
làm ở hội đường này là trừ quỷ.
Ở đây có một người đàn ông
bị thần ô uế ám.
Trước sự hiện diện của Đức
Giêsu, anh ta sợ hãi nên kêu lên:
“Ông Giêsu Nadarét, ông đến
tiêu diệt chúng tôi ư?
Tôi biết ông là Đấng Thánh
của Thiên Chúa” (x. câu 24).
Sự hiện diện của Đấng Thánh
cũng đủ làm cho thần ô uế phải khiếp sợ,
vì ô uế và thánh thiện không
đội trời chung.
và Đấng thánh thiện có khả
năng triệt phá thần ô uế.
Lời của Đức Giêsu bây giờ là
lời trừ quỷ, lời quát mắng,
lời ra lệnh đầy uy quyền,
lời khiến thần ô uế phải tuân theo.
“Câm đi, hãy xuất khỏi người
này !”
Thần ô uế đã nhập vào và làm
người ấy bị tha hóa,
bị mất tự do, bị chi phối và
sai khiến như một nô lệ.
Lời Đức Giêsu là lời giải
phóng để anh ấy được thật sự là mình,
được giải thoát khỏi tình
trạng ô uế.
Thế giới chúng ta đang sống
là một thế giới bị ô nhiễm,
từ không khí, nước uống đến
những sản phẩm nhiễm độc của con người.
Nhưng điều đáng sợ hơn cả là
bầu khí ô nhiễm về tinh thần,
bầu khí ô uế của sex thấm
vào mọi ngõ ngách của cuộc sống.
Xin Đức Giêsu trả lại cho ta
sự trong sạch nơi cái nhìn,
sự trong trắng nơi trái tim
và sự trong suốt nơi mọi cuộc gặp gỡ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái
lạc
là những điều hấp dẫn chúng
con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do
ngước lên cao
để sống cho những giá trị
tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng
dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng
trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và
vui tươi
bán tất cả những gì chúng
con có,
để mua được viên ngọc quý là
Nước Trời.
Và ước gì chúng con không
bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của
Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người
trong chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng
Tâm Hồn Lên
13 THÁNG GIÊNG
Những Sứ Giả Đầu Tiên Của Đức Tin
Gia đình Kitôhữu không duy chỉ là một cộng đồng nhân loại. Món
quà vô giá là sự sống con người cần phải được tháp nhập vào chính sự sống của Đức
Kitô và nhờ đó trở nên phong phú. Sứ mạng chân chính của gia đình là bảo vệ các
giá trị nhân bản, nhưng đồng thời gia đình cũng phải dồn tâm lực đào sâu các
giá trị Kitô giáo.
Nhiều người có thể bị cám dỗ để nghĩ rằng chỉ các linh mục và tu
sĩ mới được ủy trao trách nhiệm đối với Giáo Hội. Thật là một quan niệm sai lầm.
Rõ ràng chính gia đình là môi trường đầu tiên để các trẻ em học biết thế nào là
“thông dự vào lời hứa của Đức Giêsu Kitô qua Tin Mừng” (Ep 3, 6). Như Công Đồng
Vatican II nêu rõ: “Các đôi vợ chồng Kitô giáo là những người cộng tác với ơn
thánh và là nhân chứng đức tin đối với nhau, cũng như đối với con cái và những
phần tử khác trong gia đình của họ. Chính họ là những người đầu tiên phải rao
truyền và giáo dục đức tin cho con cái mình. Bằng lời nói và gương sáng họ huấn
luyện con cái sống đời Kitô giáo và làm việc tông đồ. Họ thận trọng giúp đỡ con
cái trong việc lựa chon ơn kêu gọi, và nếu thấy chúng có ơn kêu gọi sống đời
linh mục hay đời sống thánh hiến, họ tận tình nuôi dưỡng ơn gọi ấy.” (SL Tông Đồ
Giáo Dân 11)
Gia đình Kitôhữu là mảnh đất đầu tiên để các ơn gọi nẩy mầm và
phát triển. Đó là một chủng viện hay một tập viện cho trẻ em. Chúng ta hãy dứt
bỏ quan niệm sai lầm rằng Kitô giáo chỉ là một cái gì đóng khung bên trong cánh
cổng nhà thờ. Bất cứ gì diễn ra trong phụng vụ cần phải được chuyển hóa vào đời
sống hằng ngày. Gia đình phải là nơi sống phụng vụ. Để rồi, sự sống trong Đức
Kitô sẽ lớn lên và trưởng thành dưới mái nhà của mỗi gia đình. Khi ấy, gia đình
mới đích thực là một diễn tả chính Giáo Hội.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa
Trong Gia Đình
NGÀY 13-01
Dt 2,5-12; Mc 1,21-28.
LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành
Caphácnaum. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy.”
Trong Sách Xuất hành 35,1-2 cho chúng ta được biết: “Ông Môsê
triệu tập toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và nói: ‘Đây là những điều Đức
Chúa truyền phải thi hành: Trong sáu ngày, người ta sẽ làm việc, nhưng đối với
anh em, ngày thứ bảy sẽ là một ngày Sa-bát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dành cho Đức
Chúa; kẻ nào làm việc trong ngày ấy sữ bị xử tử.”. Chúa Giêsu cũng như các môn
đệ của Chúa, đều tuân giữ ngày thánh, Người đã đến trong hội đường để giảng dạy
và mọi người đã cảm nhận nơi Người có một uy quyền trong giảng dạy.
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay chúng con có ngày Chúa Nhật. Xin cho mọi
thành viên trong gia đình chúng con nhận ra đây là ngày cao điểm nhất trong tuần,
để dành trọn ngày này sống thờ phượng Chúa và cũng cảm nhận được sức mạnh của Lời
Chúa cần cho cuộc sống giúp chúng con thực hành Đức Ái.
Mạnh Phương
Gương
Thánh Nhân
Ngày 13-01: Thánh HILARIÔ
Giám Mục Tiến Sĩ (khoảng 320-368)
Thánh Hilariô chào đời tại Poa-tu (Poitou) Ngài là con một nhà
quí tộc làm nghị viên và được giáo dục đầy đủ. Các môn học mà thánh nhân ưa
thích là văn chương, thi ca, nhất là triết lý. Việc học tập của Ngài luôn được
đào sâu cho tới cùng là Thiên Chúa, Ngài nhận định rằng: hạnh phúc thật của con
người không phải bị những thú vui đời này, dù chúng thanh cao đến mấy đi nữa.
Trái lại hạnh phúc là được sống cho chân lý ở một cuộc sống khác với cuộc sống
tạm trên trần gian này. Ngài nói: - "Tôi khóc lên vì vui sướng mỗi khi
nghĩ đến thân xác này chỉ được tiền định để phải chết đi".
Nhưng làm thế nào mà thánh nhân đã gặp được chân lý, gặp được
Thiên Chúa mà các triết gia và các tôn giáo thường nói tới một cách mù mờ ?
Chính thánh nhân kể lại cuộc khám phá của mình: - "Từ môi trường ngoại
giáo, Chúa đã dẫn đưa tôi tới nguồn sáng chân thực. Giữa bao nhiêu hệ thống triết
lý và tư tưởng khác nhau, tôi vẫn ưu tư tìm đến Chúa bằng con đường ngay thật,
chắc chắn hữu thể thần linh vĩnh cửu phải là đơn thuần và độc nhất, không có gì
là không bắt nguồn tự Ngài, vạn vật đều phải thờ phượng Ngài".
Xác tín rằng phải có Chúa, Ngài còn suy nghĩ về các phẩm tính thần
linh của Chúa.
- "Nếu một công rình vượt quá trí khôn chúng ta, thì nhà
nghệ sĩ thần linh còn trổi vượt công trình đó thế nào ? Vậy phải nhận biết rằng,
Thiên Chúa tuyệt mỹ và chúng ta chỉ cảm nhận mà chúng ta không thể thấu hiểu nổi".
Trong khi còn miên man suy nghĩ như vậy. Thánh nhân bỗng gặp được
một cuốn kinh thánh. Ngài đọc được đoạn văn trên Chúa hiện ra với Môsê và tự
bày tỏ: "Ta là Đấng hiện hữu".
Ngài sung sướng với khám phá này: - "Tôi vui thỏa với danh
hiệu mà Thiên Chúa đã tỏ ra cho Môsê. Thánh danh ấy vừa biểu lộ một quan niệm
sâu xa về Thiên Chúa, lại vừa tầm với trí óc con người.
Từ đó thánh nhân say mê nghiên cứu thánh kinh, nhất là các sách
tiên tri với những đoạn loan báo về Đấng thiên sai. Trong các sách Tin Mừng,
Ngài thích nhất tự ngôn của Tin Mừng theo thánh Gioan. - "Trí tôi học biết
và Thiên Chúa vượt quá điều nó dám ước mong... lòng tôi run rẩy bồn chồn vì vui
sướng trước giáo thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và trước lời mời gọi tái sinh nhờ
đức tin".
Thế là thánh nhân đã lãnh nhận phép rửa tội và cảm thấy hạnh
phúc lạ lùng. Ngài đã lập gia đình và có được một người con gái. Rồi đây Ngài sẽ
đưa cả vợ con về với đức tin. Khi Ngài muốn trở thành linh mục, vợ Ngài chỉ còn
gặp lại Ngài tại bàn thánh và coi Ngài như một người anh. Nhân đức và trí khôn
ngoại hạng còn đưa Ngài tới chức giám mục cai quản địa phận Pcachie (Poutiers)
năm 350.
Lúc ấy lạc giáo Ariô nổi lên như vũ bão trong Giáo hội. Vua
Constantiô ủng hộ lạc giáo và tiếp tay cho cuộc bách hại. Thánh Athanasiô bị bắt
đi lưu đày. Thánh Hilariô đứng lên lãnh đạo công cuộc bảo vệ đức tin chân
chính. Ngài triệu tập một công đồng để lên án hai giám mục theo lạc giáo. Cộng
đồng còn cử Ngài đi thương thuyết với nhà vua. Nhưng lòng can đảm của Ngài đã bị
trừng phạt bằng cuộc lưu đày năm 356, chấp nhận gian khổ, Ngài tuyên bố:
- "Người ta có thể bắt các giám mục lưu đày, nhưng có thể
trục xuất chân lý được không ?"
Cuộc hành trình tới Phrygia nằm ở cuối miền Tiểu Á thật dài và đầy
gian khổ. Nhưng thánh nhân đã không hề phàn nàn mà vẫn bình thản sống mật thiết
kết hợp với Chúa. Đầy dũng cảm, Ngài vẫn tiếp tục làm rung chuyển thế giới bằng
công việc viết lách của mình.
Ngài nói: - "Dầu bị lưu đày, chúng tôi vẫn tiếp tục nói bằng
sách vở, bởi vì người ta không thể giam hãm lời Chúa".
Ngài đã viết 12 khảo luận bàn về Chúa Ba Ngôi, và đưa giáo thuyết
chân chính của công giáo với những tư tưởng kinh tế của Hylạp vào thổ ngữ. Ngài
tiếp tục điều khiển giáo phận bằng thư tín. Cũng vào thời này, thánh nhân diụ
dàng hướng dẫn Ebra, người con gái của mình tới đời sống thánh thện. Một bức
thư Ngài viết trong buổi lưu đày còn sót lại có khuyên nhủ nàng tận hiến cho
Chúa như sau:
- "Con thân yêu, con là đứa con duy nhất của cha, cha muốn
thấy con đẹp nhất và đẹp nhất trong các phụ nữ. Người ta nói với cha về một
thanh niên có một viên ngọc quí và một bộ áo quí giá đến nỗi ai mà có được những
thứ đó thì sẽ là người giàu có hơn hết mọi người".
Và thánh nhân kể lại rằng: phải khó khăn lâu ngày, Ngài mới gặp
được người thanh niên này để xin Người ban viên ngọc và chiếc áo ấy cho Ebra.
Bên chiếc áo này, tuyết hết trắng, không có một vết niơ nào có thể bôi bẩn,
không một tai nạn nào có thể xé rách. Còn viên ngọc, không vật nào chịu nổi vể
rực rỡ huy hoàng, chẳng bao giờ tàn sắc, ai mang được sẽ hết khổ và không phải
chết.
Và Ngài tiếp: - "Đấy là những món trang sức mà cha ước ao,
những thứ ban ơn cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu".
Ngài còn gửi cho cô những khúc thánh thi để cô ca nguyện sớm chiều.
Ebra sớm theo ước nguyện của người cha nhưng cũng sớm lìa trần.
Bốn năm trôi qua, Hoàng đế cho triệu tập công đồng Sêlêucia. May
mắn Ngài cũng được mời dự. Tại đây Ngài đã dùng hết tài hùng biện và trí thông
minh để chống lạc giáo, bảo vệ đức tin chân chính. Không chịu nổi ảnh hưởng của
Ngài. Bọn theo lạc giáo đã can thiệp để Ngài về quê hương cho rảnh rợ. Thế là
năm 360, Đức Giám mục Hilariô được trở về Poa-chi-ê.
Cuộc hồi hương của thánh nhân là niềm vui cho toàn dân chứ không
riêng gì cho giáo phận Poa-chi-ê. Thánh Hiêrônumô đã nói: "Toàn dân Gôn
(Gaules) ôm hôn vị anh hùng tay mang ngành vạn tuế trở về".
Trong đoàn người đông đảo đón mừng người cha già, phải kể đến một
người lính trẻ tên là Martinô. Lúc ấy Martinô đang sống ẩn dật ở Ganlinaria và
sau này sẽ làm thánh giám mục. Ngày về của vị giám mục già cả còn được ghi dấu
bằng một phép lạ nhãn tiền. Một bà mẹ khóc lóc ôm một đứa con mới chết gặp
Ngài. Bà tha thiết xin thánh nhân cứu sống con mình, ít ra để nó được rửa tội.
Cảm tưởng nỗi niềm đau đớn của người thiếu phụ, Ngài quì gối cầu nguyện và da
thịt đứa trẻ dần dần đỏ hồng rồi sống lại.
Tuổi già sức yếu nhưng thánh nhân vẫn nhiệt thành chỉnh đốn lại
những tàn phá do bè rối gây nên. Lòng nhiệt thành đã đưa Ngài tới tận Milan khiến
bọn lạc giáo kinh hoàng và làm áp lực bắt Ngài phải trở lại Poa-chi-ê. Ngày 13
tháng giêng năm 386 Ngài đã qua đời. Người ta kể lại rằng: lúc thánh nhân tử trần,
một luồng chói chang khắp phòng.
Ngày 10 tháng giêng năm 1852, theo lời thỉnh cầu của nhiều vị
giám mục. Đức giáo hoàng phong Ngài lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh. Ngài là vị thánh
tiến sĩ đầu tiên ở Gôn.
(daminhvn.net)
13 tháng Giêng
Tiếng
Chó Sủa
Những người có chức vụ và quyền hành trong bất cứ xã hội nào
cũng thường bị chỉ trích và chống đối.
Có một nhà lãnh đạo quốc gia kia thường bị những người đối lập tấn
công và thóa mạ một cách bất công, nhưng lúc nào ông ta cũng tỏ ra bình thản
như không có gì xảy ra. Một hôm, có người bạn hỏi lý do tại sao ông có thể tỏ
ra bình tĩnh được trước không biết bao nhiêu khiêu khích của người khác, ông đã
giải thích như sau:
"Tôi đã học được bí quyết giữ bình tĩnh ngay từ lúc nhỏ.
Chúng tôi sống bên cạnh một nhà láng giềng có nuôi một con chó khó tính. Cứ mỗi
lần trăng tròn, con chó lại sủa một cách giận dữ vô căn cứ, có khi cơn sủa của
nó kéo dài đến cả tiếng đồng hồ. Tất cả những người xung quanh đều tỏ ra bực bội
đối với con vật khó tính ấy, chỉ trừ có người chủ của nó. Oâng không bao giờ tỏ
ra bực bội, bởi vì ông ta là một người điếc.
Tất cả bí quyết của tôi nằm ở đó. Trăng sáng, con chó sủa. Một
lúc sau, nó lại mỏi mệt và thôi sủa mặc dù trăng vẫn cứ sáng".
Kiên nhẫn chịu đựng thường bị xem như một thể hiện của tính thụ
động, tiêu cực. Có người còn gọi đó là nhân đức của người nghèo. Thế nhưng,
trong cuộc sống, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại, có lẽ chúng ta cần đến nhân
đức này hơn bao giờ hết.
Thiên Chúa là đấng kiên nhẫn. Kiên nhẫn vẫn là nét đặc thù trong
công trình sáng tạo của Ngài. Chúng ta có biết rằng trái đất của chúng ta có
bao nhiêu tuổi chưa? Các nhà địa chất nói với chúng ta rằng trái đất đã được cấu
tạo qua từng thời kỳ kéo dài đến cả triệu triệu năm. Ðịa chất học quả thực là
môn học của sự kiên nhẫn của Thượng Ðế. Thiên Chúa luôn tỏ ra kiên nhẫn đối với
con người. Toàn bộ Cựu Ước là một quyển ký lục về những nhẫn nhục chịu đựng của
Thiên Chúa đối với sự yếu đuối, khờ dại cũng như hung bạo của con người. Ngài
phải chờ đợi đến cả trăm năm để cho lụt Hồng Thủy trút xuống trên con người.
Ngài chờ đợi đến cả mười năm mới trừng phạt vua Saolô.
Tân Ước lại càng cho chúng ta cảm nhận được bằng xương thịt.
Tình yêu thương nhẫn nhục, chịu đựng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy chiêm ngắm sự
nhẫn nhục của Chúa Giêsu đối với các môn đệ, đối với kẻ thù của Ngài và nhất là
đối với đám đông nghèo khổ, lạc lõng. Nhưng nhất là những đau khổ, bách hại mà
chính bản thân mình gánh chịu, Chúa Giêsu chỉ biết giữ thinh lặng, thinh lặng
không phải của căm hờn, oán trách mà là của yêu mến, tha thứ cho đến cùng.
(Lẽ Sống)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét