Thứ Bảy sau Chúa Nhật VII Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 28, 16-20.
30-31
"Ngài ở lại Rôma, rao
giảng nước Thiên Chúa".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi chúng tôi đến Rôma,
Phaolô được phép ở nhà riêng với người lính canh. Sau ba hôm, ngài mời các đầu
mục người Do-thái đến. Khi họ đến, ngài nói với họ: "Thưa anh em, dầu tôi
đây không làm điều gì phạm đến dân tộc hay tục lệ tổ tiên, mà tôi đã bị bắt tại
Giêrusa-lem và bị nộp trong tay người Rôma. Khi đã điều tra, họ muốn thả tôi vì
tôi không có tội gì đáng chết. Nhưng người Do-thái chống lại, nên tôi buộc lòng
phải nại đến hoàng đế, nhưng không phải là tôi có gì kiện cáo dân tôi. Do đó
tôi đã xin gặp anh em và nói chuyện: Chính vì niềm hy vọng của Israel mà tôi
phải mang xiềng xích này".
Suốt hai năm, ngài trú tại ngôi
nhà đã thuê, tiếp nhận tất cả những ai đến gặp ngài, ngài rao giảng nước Thiên
Chúa và dạy dỗ những điều về Chúa Giêsu Kitô một cách dạn dĩ, không có ai ngăn
cấm.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 10, 5. 6 và 8
Ðáp: Lạy Chúa, người chính trực sẽ nhìn thấy tôn nhan Chúa (c.
8b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa kiểm soát người
hiền đức, kẻ ác nhân, ai chuộng điều ác, thì linh hồn Người ghét bỏ. - Ðáp.
2) Trên lũ tội nhân Người làm
mưa than đỏ diêm sinh, và phần chén của chúng là luồng gió lửa. Bởi Chúa công
minh, nên Người thích chuyện công minh, người chính trực sẽ nhìn thấy thiên
nhan. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 16
Alleluia, alleluia! - Thánh
Thần sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy
đã nói với các con. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 21, 20-25
"Chính môn đệ này làm
chứng về những việc đó và đã viết ra".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy
môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa
ăn tối và hỏi "Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?" Vậy khi thấy môn
đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Còn người này thì sao?" Chúa Giêsu
đáp: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến
con? Phần con, cứ theo Thầy". Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ
này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: "Nó sẽ không chết",
mà Người chỉ nói: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì
việc gì đến con".
Chính môn đệ này làm chứng về
những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật.
Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết
tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Trước khi kết thúc Tin Mừng,
Thánh Gioan đưa ra lời chứng: Phêrô, Gioan là những nhân chứng sống động của Ðức
Giêsu. Họ đã từng sống, từng hoạt động dưới sự chỉ giáo của Thầy Giêsu, vì thế
họ đoan chứng Tin Mừng về Ðức Giêsu đã được trình bày là rất đáng tin.
Ðức Giêsu là lời mạc khải trọn
vẹn của Thiên Chúa Cha. Qua Ngài, chúng ta được dạy dỗ, được nhận biết về tình
yêu Thiên Chúa Ba Ngôi đối với chúng ta. Từ đó, Thiên Chúa muốn chúng ta phải sống
bao dung, hiền hòa và hiệp nhất với nhau, vì tất cả chúng ta cũng là con Thiên
Chúa.
Cầu Nguyện:
Chúng con tạ ơn Thiên Chúa
Cha đã ban Ðức Giêsu cho chúng con, để Ngài yêu thương dạy dỗ và cứu chuộc
chúng con.
Chúng con tạ ơn Chúa Con từ
thuở đời đời, trong Ngài chúng con được tạo dựng và được tái sinh.
Chúng con tạ ơn Ðức Chúa
Thánh Thần, từng giây phút trong cuộc đời chúng con Chúa đã thánh hóa và giúp
chúng con sống hạnh phúc.
Xin Chúa Ba Ngôi giúp chúng
con yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Số Phận Gioan
Ông Giuse Pégary là một nhà
ái quốc Italia, ông được coi là nhà anh hùng dân tộc nhờ việc khởi xướng phong
trào nổi dậy chống xâm lăng đánh đuổi quân Pháp và Áo giành độc lập dân tộc và
thống nhất đất nước. Trong một thứ hiệu triệu gửi cho thanh niên Italia năm
1849 có đoạn viết: "Hỡi các bạn trẻ, tôi chẳng có gì cống hiến cho các bạn,
ngoài sự đói khát, gian lao vất vả và cái chết. Tuy nhiên, tất cả những ai yêu
mến mảnh đất thân yêu này hãy liên kết với tôi". Ðoạn văn quả là một lời
thách đố, vậy mà khi được phổ biến, kết quả đã vượt ra ngoài sức tưởng tượng.
Bài đọc Tin Mừng ngày hôm nay cũng phần nào tương tự như một lời thách đố của
Chúa Giêsu đối với tông đồ Phêrô. Lời thách đố này mang nội dung như thế nào? Mời
mọi người cùng nghe qua tường thuật của thánh Gioan đoạn 21, 20-25.
Anh chị em thân mến!
Lúc vừa mở mắt chào đời là lúc con người hội nhập vào xã hội. Chẳng phải là
loại cây cỏ có thể tự mình phát triển nên con người luôn cần đến những người
khác mới có thể sinh tồn. Bởi thế, dù muốn hay không, cuộc sống của người khác
không thể không ảnh hưởng trên chúng ta, ngay cả khi họ chẳng giữ một vai trò
gì. Có họ hay không, cuộc đời ta vẫn thế, vậy mà nếu thiếu vắng bóng họ, cuộc đời
chúng ta cảm thấy thiếu mất điều gì. Con người là thế, chẳng ai đứng ngoài vòng
liên đới. Ðau khổ và hạnh phúc của người khác thường vươn tỏa lên con người
tôi. Nhìn một người đang hạnh phúc, tôi có thể vui hoặc buồn. Vui, nếu tôi chia
sẻ được phần hạnh phúc, buồn, nếu tôi không được hạnh phúc như họ, và nỗi buồn
thấm thía hơn nếu người đang hưởng hạnh phúc kia đang ở trong cùng một hoàn cảnh
như tôi. Người ấy cũng như tôi tại sao lại được nhiều may mắn đến thế.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
câu hỏi của thánh Phêrô phần nào gợi lên tâm trạng này. Khi đã trao nhiệm vụ
cho thánh Phêrô, Chúa Giêsu cũng đã báo trước về quãng đời còn lại của ông sẽ
như thế nào: một viễn ảnh đầy khó khăn thử thách. Thánh Phêrô đã tò mò hỏi Chúa
về số phận của người đồng môn và đã được trả lời: "Nếu Thầy muốn người ấy
cứ ở lại mãi cho đến khi Thầy đến thì việc gì đến con, phần con, cứ theo Thầy".
Chúa Giêsu biết rằng câu trả lời của Ngài sẽ khiến cho Phêrô và các môn đệ buồn
về cách đối xử phân biệt, có thể sẽ kéo theo sự chia rẽ giữa các ông. Chúa
Giêsu quan tâm đến điều này vì câu hỏi của Ngài cũng là một lời mời gọi đầy
thách thức riêng đối với thánh Phêrô và chung cho tất cả những ai muốn theo
Ngài. Ðáp trả lời mời gọi trước hết là một quyết định riêng tư của mỗi người
trưc tiếp giữa họ và Thiên Chúa. Lời mời gọi chẳng hứa hẹn ngon ngọt nhưng chỉ
là gai góc, khổ đau, và khi đã chấp nhận theo Ngài thì cũng đòi hỏi kẻ theo
Chúa tuyệt đối trung thành với con đường Ngài đã vạch ra cho mỗi người. Mỗi người
có con đường riêng của mình, có thể con đường họ đang đi gập ghềnh sỏi đá và
con đường của người bên cạnh lại yên vui phủ đầy bóng mát. Tuy vậy, họ cũng chẳng
thể dừng lại ngồi nhìn người bên cạnh, Ngồi nhìn kẻ khác chỉ khiến họ thêm buồn
tủi, mất hết nhuệ khí, chùn chân, không muốn tiến bước, mà không cất bước thì
chẳng bao giờ đến đích điểm cuối cùng: một nơi đang bày sẵn phần thưởng để chờ
đón họ. Ðường đi càng gian khổ thì niềm vui càng bừng nở. Thiên Chúa công bằng
vô cùng, Ngài sẽ không để cho một ai phải thiệt thòi về những điều đã bỏ công
góp sức. Cho đi thế nào thì sẽ nhận lại như vậy. Ðong đấu nào thì sẽ được trả lại
bằng đấu ấy và còn đầy tràn hơn nữa.
Lạy Chúa, bước đường theo
Chúa thường đầy gian khổ và không ít lần con đã dừng lại bâng quơ nghĩ ngợi và
ghen tị so sánh với kẻ khác. Xin cho con luôn nhớ rằng dù có nhìn thấy trăm
ngàn con đường người khác đang đi thì cũng chẳng ai có thể thay con trên con đường
mà Chúa đang mở ra cho con. Chỉ vì khi nào biết can đảm tiến bước, con mới mong
đạt đến đích điểm vinh quang mà Chúa đang dành để cho con đến lãnh nhận. Amen.
(Veritas Asia)
Làm chứng cho Chúa.
"Chính môn đệ này làm chứng về những
việc đó và đã viết ra".
Làm chứng cho Chúa.
Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa kỳ
là Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là
gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước
trở lại mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn
điệu nhàm chán trên bàn giấy. Một ngày nọ, sau khi nghe anh than phiền, Tổng thống
Lincoln nhìn thẳng
mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh luôn muốn
xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc”.
Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng
cho đức tin”. Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống.
Tuy nhiên, chết đau thương nhục nhã hoặc chết âm thầm từng ngày, cả hai đều có
giá trị như nhau. Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi được mời gọi bước theo Chúa
Giêsu, nghĩa là chấp nhận những thử thách bách hại và cái chết trên thập giá để
làm chứng cho Chúa. Còn Gioan, vị tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến lại làm chứng
cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Gioan tuy không được phúc tử đạo như
các Tông đồ khác, nhưng đã sống một thời gian rất dài, để củng cố niềm tin của
các tín hữu tiên khởi nhất là để suy niệm và viết cuốn Tin mừng thứ tư và ba lá
thư. Tất cả đều là những cách thức làm chứng cho Đấng đã chết và sống lại là
Chúa Giêsu Kitô.
Lịch sử Giáo Hội từ đầu cho đến nay
là cả một cuốn sách về những chứng từ khác nhau: bằng lời nói, bằng đau khổ, bằng
hy sinh, bằng công việc từ thiện… mỗi người một cách, mỗi thời đại một cách tuỳ
ở Chúa Thánh Thần soi sáng, nhưng tất cả là để giới thiệu tình yêu Chúa cho mọi
người để mọi người hưởng nhờ ơn cứu độ.
Chắc chắn, không phải tất cả chúng
ta có thể làm chứng cho Chúa bằng cái chết vì đạo, nhưng chúng ta có thể làm chứng
bằng chính cuộc sống của chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức phần đóng góp của
chúng ta cho kho tàng phong phú của Giáo Hội qua những hy sinh âm thầm từng
ngày, để làm cho mọi người nhận biết tình yêu Chúa và trở về cùng Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi
Ngày Một Tin Vui’)
26/05/12
THỨ BẢY TUẦN 7 PS
Th. Philípphê Nêri, linh mục
Ga 21,20-25
Th. Philípphê Nêri, linh mục
Ga 21,20-25
CẢ THẾ GIỚI KHÔNG CHỨA NỔI
“LỜI”
“Còn nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21,25)
Suy niệm: Câu cuối cùng trong Tin Mừng Gioan trên đây phải chăng là một lối thậm xưng quá đáng? Cuộc đời 33 năm của Chúa Giêsu ở trần gian có gì là dài so với các bậc vĩ nhân khác? Ấy là chưa kể suốt 30 năm đầu của đời Ngài, người ta chẳng biết gì ngoài một vài sự kiện nho nhỏ! Thế nhưng bạn có biết không, bộ Thánh Kinh, bộ sách nói về Ngài, và cách riêng bốn cuốn Phúc Âm, là bộ sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất và có nhiều ấn bản nhất trên thế giới. Bạn sẽ còn kinh ngạc hơn khi bước vào đại thư viện của các trường đại học, các học viện tôn giáo. Ở đó bạn sẽ thấy không biết cơ man nào là sách viết về Ngài; không biết bao nhiêu tác giả suy tư, quảng bá giáo huấn của Ngài. Nói “cả thế giới không chứa nổi” các sách viết về Ngài, thiết tưởng không có gì là quá đáng; trái lại, Tin Mừng đã nói tiên tri về điều mà ngày nay vẫn đang tiếp tục được thể hiện.
Mời Bạn: Đức Giêsu Kitô chính là Lời hằng sống, có từ nguyên thuỷ nơi Chúa Cha (x. Ga 1,1) và vẫn nói trong thế gian này cho đến tận thế nơi những người tin Ngài, những chứng nhân của Ngài. Bạn hãy là một trong những người làm cho “LỜI” được tiếp tục vang lên trong thế giới này.
Sống Lời Chúa: Mời bạn lắng nghe và suy niệm Lời Chúa mỗi ngày để bồi dưỡng kiến thức đức tin và làm chứng cho LỜI bằng chính cuộc sống của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết say mê Lời Chúa để LỜI đó biến đổi cuộc sống của con và biến đổi cả nhân loại. Amen.
Phải rao giảng Tin Mừng
và làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh
Bài đọc: Acts 28:16-20, 30-31: Jn 21:20-25.
Mùa Phục Sinh sẽ kết
thúc sau ngày hôm nay, để đón mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống ngày Chủ Nhật,
và sau đó tiếp tục tuần 11 mùa Thường Niên, bắt đầu ngày thứ hai.
Các Bài Đọc hôm nay
đều rút ra từ chương cuối cùng của hai Sách: Công Vụ Tông Đồ và Tin Mừng Gioan
mà chúng ta đã nghe suốt từ ngày đầu của Mùa Phục Sinh cho tới giờ. Đây là cơ hội
thuận tiện để chúng ta nhìn lại hai Sách này và rút ra những điểm thần học
chính yếu từ đấy. Mục đích của Sách CVTĐ là tường thuật sự thành hình của Giáo
Hội qua sự rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, bắt đầu từ
Jerusalem, đến khắp vùng Judea và Samaria, rồi cho đến tận cùng trái đất (Acts
1:8). Vì mục đích này mà thánh-sử Lucas chấm dứt Sách CVTĐ khi Phaolô đặt chân
tới Rôma và bắt đầu rao giảng Tin Mừng trong trình thuật hôm nay. Rôma được coi
là trung tâm của thế giới, một khi Tin Mừng đạt tới trung tâm của thế giới là
có thể lan ra đến tận cùng trái đất. Trong cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng từ
Jerusalem đến Roma, niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh đã biến đổi các Tông-đồ
và các môn đệ, từ những người nhát đảm sợ sệt thành những người can đảm, lợi khẩu,
dám đương đầu với mọi quyền lực, và vượt qua mọi khó khăn để làm chứng cho Tin Mừng.
Niềm tin vào Chúa Phục Sinh cũng biến đổi Phaolô, từ một người hăng say bắt đạo
đến chỗ thành một người nhiệt thành rao giảng đạo, qua 3 cuộc hành trình đầy
khó khăn, cam go, nguy hiểm.
Mục đích của Tin Mừng
Gioan là tường trình những biến cố chính và quan trọng liên quan tới Chúa
Giêsu, để khơi dậy niềm tin nơi khán giả; và vì niềm tin, họ được hưởng Ơn Cứu
Độ. Đoạn kết của Tin Mừng hôm nay nói rõ: "Chính môn đệ này (Gioan) làm chứng
về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là
xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một,
thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.'' Hai
điều thần học quan trọng chúng ta nghe nhắc đi nhắc lại trong suốt Mùa Phục
Sinh là tình yêu Thiên Chúa và lời hứa ban Thánh Thần: Để có thể rao giảng Tin
Mừng và làm chứng cho Chúa Giêsu, hai điều này không thể thiếu nơi người rao giảng,
và được ban cho từ Thiên Chúa, qua Đức Kitô.
Điểm quan trọng của
mỗi ngày là Giáo Hội cố gắng sắp xếp song song, giữa những gì Chúa Giêsu nói
hay những biến cố liên quan đến Ngài trong Phúc Âm, với những gì các môn đệ nói
hay những biến cố liên quan tới các ông, để làm nổi bật một chủ đề hay hoàn
thành lời hứa.
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô làm chứng
cho Chúa Giêsu tại Roma.
1.1/ Phaolô tập họp
các tín hữu tại Rôma để cho họ biết tình trạng của ông: Khi tới Rôma, ông
Phaolô được phép ở nhà riêng cùng với người lính canh giữ ông. Ba ngày sau, ông
mời các thân hào Do-thái đến. Khi họ đã tới đông đủ, ông nói với họ: "Thưa
anh em, tôi đây, mặc dầu đã không làm gì chống lại dân ta hay các tục lệ của tổ
tiên, tôi đã bị bắt tại Jerusalem
và bị nộp vào tay người Rôma."
Giống như trường hợp
của Chúa Giêsu, mặc dù quan Philatô không nhận thấy Chúa Giêsu làm điều gì đáng
chết cả; nhưng những người Do-thái vẫn muốn xin Philatô cho đóng đinh Chúa vào
Thập Giá. Trường hợp của Phaolô cũng thế, Phaolô tâm sự với giáo đoàn Rôma:
"Sau khi điều tra, họ muốn thả tôi, vì tôi không có tội gì đáng chết.
Nhưng vì người Do-thái chống đối, nên bó buộc tôi phải kháng cáo lên hoàng đế
Caesar; tuy vậy không phải là tôi muốn tố cáo dân tộc tôi. Đó là lý do khiến
tôi xin được gặp và nói chuyện với anh em, bởi chính vì niềm hy vọng của Israel mà tôi
phải mang xiềng xích này."
1.2/ Phaolô tiếp tục
rao giảng Tin Mừng trong khi bị giam cầm: "Suốt hai năm tròn, ông Phaolô ở
tại nhà ông đã thuê, và tiếp đón tất cả những ai đến với ông. Ông rao giảng Nước
Thiên Chúa và dạy về Chúa Giêsu Kitô, một cách rất mạnh dạn, không gặp ngăn trở
nào."
Phaolô chứng minh mặc
dù ông bị giam cầm, nhưng Lời Chúa không bị xiềng xích. Ông đã có thể loan báo
Tin Mừng ngay trong ngục tù cho những lính cai tù thay phiên nhau canh gác ông
trong suốt hai năm; tranh luận để thuyết phục những người Do-thái; và viết các
Thư Ngục Tù để yên ủi và khích lệ các tín hữu của các cộng đoàn mà ông đã thành
lập. Đi tới đâu ông luôn tìm dịp để Lời Chúa được thấm nhập tới đó.
2/ Phúc Âm: Phần anh, hãy
theo Thầy!
2.1/ Phêrô muốn biết
số phận của người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến: Khi Phêrô quay lại và nhìn
thấy người môn đệ Đức Giêsu thương mến đi theo sau (ông này là người đã nghiêng
mình vào ngực Đức Giêsu trong bữa ăn tối và hỏi: "Thưa Thầy, ai là kẻ nộp
Thầy?"), ông Phêrô nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, còn anh này thì
sao?" Đức Giêsu đáp: "Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi
Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy."
Chúa Giêsu mời gọi
các ông luôn nhìn thẳng tới phía trước và cố gắng hoàn thành trọng trách Chúa
trao phó; chứ đừng phí thời giờ nhìn chung quanh để so sánh hay ghen tị với người
khác. Khi nghe Chúa Giêsu nói thế, các môn đệ đồn thổi giữa các ông là môn đệ ấy
sẽ không chết. Nhưng Đức Giêsu đã không nói với ông Phêrô là: "Anh ấy sẽ
không chết," mà chỉ nói: "Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới
khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?"
2.2/ Người môn đệ
được Chúa Giêsu thương mến làm chứng cho Chúa Giêsu: Có nhiều giả thuyết về
"người môn đệ Chúa Giêsu thương mến:" Có người cho là tác giả của
Sách Tin Mừng không muốn chỉ rõ là ai, nhưng để độc giả có thể đặt tên mình vào
đó; nhưng đa số đều cho đó là Gioan. Nhất là theo trình thuật hôm nay, khi
Phêrô nói rõ là người môn đệ đã ngả đầu vào ngực Chúa trong Bữa Tiệc Ly.
Mục đích Chúa Giêsu
chọn các Tông-đồ và các môn đệ là cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho
Chúa Giêsu. Có nhiều cách làm chứng khác nhau, nhưng Gioan làm chứng cho Chúa
Giêsu bằng cách viết sách Tin Mừng để làm chứng cho những gì Chúa đã nói và
làm. Tác giả xác tín: "Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết
ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều
khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế
giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra."
II. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Rao giảng Tin Mừng
và làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh phải là bổn phận quan trọng hàng đầu của
những người môn đệ Chúa. Bao lâu Tin Mừng chưa được rao giảng cho đến tận cùng
trái đất, chúng ta chưa làm tròn bổn phận Chúa trao.
- Phải tìm dịp rao
giảng Tin Mừng mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi hoàn cảnh: khi thuận tiện cũng
như lúc bất tiện. May mắn hơn Phaolô và các môn đệ thuở ban đầu, với kỹ thuật
hiện đại, chúng ta có thể ngồi nhà và rao truyền Tin Mừng cho mọi người qua mạng
internet.
- Sống trong tình
yêu Thiên Chúa và theo sự hướng dẫn của Thánh Thần là hai điều kiện không thể
thiếu để việc rao giảng Tin Mừng được bền bỉ và có kết quả tốt đẹp.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP.
Thứ Bảy tuần 7 Phục
Sinh
Sứ điệp: Đời mỗi người Kitô hữu
là một ơn gọi theo Chúa. Ta hãy đáp lại ơn gọi yêu thương đó tùy theo bậc sống
trong hoàn cảnh riêng của mình, với niềm phó thác cậy trông vào Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, tất cả mọi người
được kêu gọi để theo Chúa. Có những bậc sống khác nhau. Trong mỗi bậc sống đó lại
có từng hoàn cảnh khác nhau. Mỗi người là mỗi phận. Chúa như đang cầm tay từng
phận người mà dắt đi theo Chúa. Chúa đang nói với mỗi người chúng con: “Phần
con hãy cứ theo Thầy”. Chúa đang dẫn con đi theo Chúa bằng lối đi Chúa dành
riêng cho con.
Khi Thánh Phêrô hỏi Chúa
về số phận của Thánh Gioan, Chúa đã nói với Thánh Phêrô: “Việc đó liên quan gì
đến con, phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa không bảo con đừng quan tâm đến anh
chị em quanh con. Khi thấy anh em cần nâng đỡ đức tin, Chúa muốn con chạy tới
đóng vai bàn tay của Chúa để đỡ nâng họ. Con sẽ đỡ nâng bằng gương sáng, bằng một
lời động viên, bằng một lời nhắc nhở, và nhất là bằng những lời cầu nguyện. Rồi
khi con gặp thử thách, con tin Chúa sẽ lại dùng anh chị em quanh con thay mặt
Chúa mà ủi an, động viên con.
Tuy nhiên, Chúa muốn nói
với riêng con: “Phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa dạy con đừng phân bì ghen tỵ.
Xin Chúa đừng để con so sánh phận mình với phận người mà chùn bước chân theo
Chúa. Con biết mỗi đời người là một mầu nhiệm trong tình yêu quan phòng của
Chúa. Mỗi đời người là một cuộc tình riêng với Chúa. Mỗi đời người đều có đủ
thánh giá để vác theo Chúa. Đồng thời mỗi đời người đều được Chúa ban đủ niềm
vui và ân sủng để theo Chúa cho nên: “Ơn Ta đủ cho con”.
Xin cho con vui với phận
mình và tin tưởng bước theo Chúa. Amen.
Ghi nhớ : "Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó
và đã viết ra".
Làm chứng tá cho tình yêu
Hôm nay chúng ta lắng nghe phần đoạn
kết trong sách Phúc Âm của thánh Gioan tông đồ, chỉ có ba nhân vật được kể đến
trong phần cuối của Phúc Âm này là Chúa Giêsu, Phêrô và Gioan.
Qua những lời đối thoại với Phêrô,
Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng Ngài đã chọn mười hai vị tông đồ và trao phó
cho mỗi người một sứ mạng khác nhau. Phêrô và Gioan vì thế cũng có sứ mạng khác
biệt nhau. Nếu như Phêrô được chọn để chăn dắt đàn chiên của Chúa và trung
thành với các sứ vụ bằng cái chết tử đạo, thì vai trò của Gioan là làm chứng tá
cho Chúa Giêsu bằng Phúc Âm.
Gioan được ơn sống lâu để chiêm niệm
một cách sâu xa hơn về mầu nhiệm nhập thể làm người và phục sinh của Chúa
Giêsu, Con Một Thiên Chúa. Vì thế mà Gioan kết thúc Phúc Âm của mình bằng sự
xác quyết: "Còn có nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều
một thì tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết
ra". Qua lời kết thúc này Gioan cho thế gian hiểu rằng quyền năng của Chúa
Giêsu không bao giờ cạn, hồng ân của Ngài thì vô cùng, sự khôn ngoan của Ngài
thì không ai có thể đối chọi lại được, và tình yêu của Ngài thì vô biên.
Trong lịch sử Giáo Hội suốt hai mươi
thế kỷ nay, Thiên Chúa cũng vẫn liên tục kêu gọi nhiều người và ban cho họ những
ân sủng đặc biệt để tiếp tục sống mãn đời trên trần thế. Họ là các thánh nam nữ
đã được Thiên Chúa lựa chọn và trao cho các sứ mệnh đặc biệt ở những thời kỳ và
hoàn cảnh khác biệt nhau. Có vị được gọi để trở thành các giáo phụ và tiến sĩ Hội
Thánh. Các ngài dùng ngòi bút và trí thông minh để rao giảng Phúc Âm và đem ánh
sáng Lời Chúa đến cho mọi người. Những vị khác thì được ơn gọi sáng lập các
dòng tu với tinh thần tông đồ và hoạt động truyền giáo trong nhiều lãnh vực
khác biệt nhau. Các sứ vụ tuy có khác biệt nhưng đều mang ý nghĩa và tầm mức
quan trọng như nhau. Tất cả đều qui tụ vào cùng một mục đích duy nhất là làm chứng
tá cho chân lý và tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng
con sức mạnh của đức tin và ngọn lửa của tình yêu, để chúng con can đảm và hăng
say làm chứng tá cho tình yêu và chân lý của Chúa giữa thế gian. Xin Chúa cũng
luôn hiện diện để giúp chúng con trung thành với ơn gọi và sứ mạng do Chúa giao
phó, nhất là trong những lúc đứng trước các cơn bão táp của cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh
Phillípphê Nêri, linh mục; Cv 28, 16-20. 30-31; Ga: 21, 20-25.
LỜI SUY NIỆM:
Ông Phêrô
quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giêsu thương mến đi theo sau…ông Phêrô nói
với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” Đức Giêsu đáp: “Giả như Thầy
muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy
theo Thầy.” (Ga 21,20-22).
Chúa Giêsu,
Ngài có sự sắp xếp công việc cho từng người một; đối với Phêrô, Ngài giao cho
việc chăm sóc đàn chiên, rao giảng công khai và cuối cùng làm chứng bằng cái chết
của mình; Còn Gioan thì chiêm niệm và viết lại cuộc đời của Chúa Giêsu cho mọi
người.
Mỗi Ki-tô hữu,
đều đã được Chúa Giêsu sắp đặt một công việc, và một không gian khác nhau,
nhưng cùng một mục đích mở mang Nước Chúa. Đem lại lợi ích cho nhân loại. Đừng
băng khoăn về công tác khác mà người anh em đảm nhận. Tất cả đều có sự vinh
quang. Vinh quang không hệ tại công việc, nhưng ở chỗ hết lòng phục vụ vì Chúa
Giêsu Ki-tô.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 26-05:
THÁNH PHILIPPHÊ NÊRÔ
Linh Mục (1515 - 1595)
Thánh Philipphê Nêrô sinh năm 1515 tạo Florence . Bị mồ côi mẹ từ
thuở nhỏ, nhưng Philipphê có một bà Dì nhất mực yêu thương. Ngược lại Philipphê
cũng rất vui tươi và ngoan ngùy đang cho mọi người yêu thích. Ngài hấp thụ được
đức tin sâu xa nôi cha mẹ và các cha dòng Daminh ở tu viện thánh Marcô.
Năm 1533 Ngài đến sống với người cậu ở gần Naples để tập nghề kinh
doanh. Ong cậu không có con thừa tự nên muốn dành gia tài cho Philipphê, nhưng
thánh nhân thấy mình không có ơn gọi để sống cuộc đời như vậy. Và Ngài đi bộ về
Roma, không tính toán cũng không có đồ dùng chi, Philipphê sẽ sống và chết tại
Roma.
Một người đồng hương ở Roma cho Philipphê một
căn phòng với điều kiện là dành ít thời gian dạy dỗ cho con cái họ. Thánh nhân
đã sống đời cầu nguyện và học hành trong cô tịch, ngày ăn một bữa với bánh mì,
nước và trái ôliu, ngủ trên sàn nhà. Trong khi theo môn triết học và thần học,
Ngài vẫn tìm cách lôi kéo bạn bè vào nếp sống đạo đức, lo cải hoá người khác.
Như vậy chính thánh nhân cũng bị cám dỗ và phải cố gắng để tự chủ, Ngài tăng
thêm lời cầu nguyện và các việc hy sinh hãm mình.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1544, trong
khi cầu nguyện, Ngài thấy một vật gì như trái banh bằng lửa xoáy vào trong tim
gây nên một cơn bệnh và một vết thương xưng lên dầu không đau đớn gì. Trong cuộc
khám nghịệm sau khi chết người ta thấy hai xương sườn phía trên bị gãy và tạo
ra một khoảng rộng lớn hơn.
Sau nhiều năm, Ngài bán hết sách vở và bắt đầu
lo cho linh hồn người khác hơn là cho mình. Ngài hòa mình với các bạn trẻ ở các
ngã tư , các cửa tiệm và các bờ sông, dùng đến sức thu hút tự nhiên lẫn siêu
nhiên để dẫn họ về đường ngay.
Hòa mình vào nhóm các nhà giảng thuyết,
Philipphê đã gây được nhiều ảnh hưởng nơi các giáo dân lẫn lương dân. Người ta
cho rằng: Ngài làm nhiều phép lạ. Tuy nhiên, thánh nhân rất khiêm tốn và không
dám nhận chức linh mục. Cuối cùng theo lời khuyên của cha giải tội, Ngài thụ
phong linh mục năm 1551. Nhiệt tâm của Ngài thật mãnh liệt khi Ngài cử hành
thánh lễ đầu tiên đến nỗi như có một luồng ánh sáng từ Ngài phát ra. Phần lớn
thời gian trong ngày và cả ban đêm Ngài dành vào việc ngồi tòa giải tội. Nhận
thấy có nhiều thanh niên và trẻ em biếng nhác, Ngài mở cửa không cho chúng vui
tươi trò chuyện ca hát. Căn phòng ấy được mệnh danh là "Ngôi nhà của nịềm
vui Kitô giáo". Mỗi chiều Ngài tổ chức buổi cầu nguyện chung cho các tín hữu.
Muốn cho lời cầu nguyện khởi sắc, Ngài nhờ người bạn danh tiếng là nhạc sĩ
Palestrina phổ nhạc các thánh thi. Nhà nghệ sĩ này coi Ngài như một người cha
và đã qua đời trong cánh tay Ngài. các linh mục muốn dấn thân phù giúp Ngài đã
họp thành một hội ái hữu và đó là tiền thân của dòng giảng thuyết.
Thánh Philipphê làm việc với một tính khí vui
tươi đặc biệt. Ngày kia cộng đoàn một bạn trẻ đến báo tin cho Ngài biết hạnh
phúc của mình đã được thân phụ cho theo học luật. Sau khi phác họa niềm vui hạnh
phúc của mình như thế nào rồi, anh nghe hỏi:
- Học xong anh sẽ làm gì ?
- Con sẽ đậu bằng tiến sĩ luật .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ cãi những vụ kiện quan trọng,
khó khăn để thành danh tiếng.
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ nên danh giá và giàu có thỏa
lòng mong ước .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ sống sung sướng và hạnh phúc.
- Rồi sao nữa ?
- Rồi sao nữa ? sao nữa ? rồi con chết.
- Thánh nhân cao giọng hỏi tiếp: Rồi sao
nữa ?
Và bạn trẻ không biết trả lời ra sao nữa, nhưng
câu hỏi đã lọt vào trong tâm hồn cho đến khi hiến mình trong tu viện và chết
lành thánh.
Cũng với tính khôi hài này. Thánh Philipphê đã sửa
dạy được nhiều nết xấu của người ta. Chẳng hạn một phụ nữ quen tật nói xấu người
khác được nghe thánh nhân dạy hãy mua một con gà giết chết, rồi vừa đi vừa nhổ
lông trên đường tới gặp Ngài. Chị ta ngạc nhiên làm và như vậy. Tới nơi thánh
nhân dạy : - Chị hãy trở về đường cũ và lượm hết các lông đó lại.
Người phụ nữ la lối không thể được vì gió thổi
bay khắp chốn rồi. Thánh nhân mới nói: - Những lời nói xấu vu oan cho người ta
một khi ra khỏi miệng sẽ truyền từ tai này qua tai nọ. Chị có thể lấy lại được
không ?
Và thánh Nhân khuyên nhủ : - Khi muốn nói về một
người nào làm khổ mình, hãy nói với Chúa mà thôi để cầu nguyện và giúp họ sửa
sai.
Với những bức thư của thánh Phanxicô Xavier từ
phương Đông gởi về, thánh Philipphê đã tìm cách theo Ngài để gieo vãi chính máu
mình cho Chúa Kitô. Nhưng một thày dòng khổ tu đã nói với thánh nhân : - Dân An
độ của Ngài ở tại Roma này.
Thế là thánh nhân ở lại Rôma trở thành
"Tông đồ thành Rôma".
Năm 1622 khi được phong thánh, thì Phanxicô
Xavie vị "Tông đồ của dân An độ" cũng được tuyên phong với Ngài.
Năm 1575, Đức giáo hoàng Gregoriô XIII đã cho
Ngài và anh em linh mục thuộc nhóm Ngài một nhà thờ. Họ tái thiết thành một nhà
thờ mới và ngày nay cũng chính là nhà mẹ ở Roma của dòng giảng thuyết.
Philipphê được đặt làm bề trên của hội dòng mới, dòng giảng thuyết. Ngài hướng
dẫn anh em trong dòng sống như như các linh mục triều, không có lời khấn nào đặc
biệt, nhưng liên kết với nhau trong tình yêu thương nhau, trong một mục đích là
phục vụ các linh hồn bằng việc cầu nguyện, giảng dạy và ban các phép bí tích.
Ngài không đặt ra nhiều lề luật và ngày nay có tới 40 nhà dòng giảng thuyết gồm
các phần tử sống theo đường lối của thánh Philipphê Nêrô.
Năm 1595, thánh Philipphê ngã bệnh. Ngày 25
tháng 5 Ngài dâng lễ và ngồi tòa như thường lệ. Nhưng sáng hôm sau Ngài bị thổ
huyết, trong khi giơ tay chúc lành cho cộng đoàn và miệng lẩm bẩm : - Đây là
tình yêu của con, hạnh phúc của lòng con và thánh nhân đã phó mình cho tình
yêu.
(Daminhvn.net)
+++++++++++++++++
26
Tháng Năm
Sức
Mạnh Lời Chúa
Tokichi
Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn
nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi.
Hắn
ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, phụ nữ, kể cả trẻ em. Với bàn tay khát máu, hắn đã
thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn
cũng bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc
ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn,
nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ cũng không làm cho hắn mảy
may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với một cặp mắt dữ tợn như một
hung thú.
Cuối
cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn quyển Tân Ước,
với một hy vọng mỏng manh là hắn ta sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi tiếng
nói con người trở nên hoàn toàn bất lực. Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật.
Ishi-I đã đọc và những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh
liệt khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn
tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Câu Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập
giá: "Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng
làm", đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó anh
thuật lại: "Ðọc đến câu này tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh
động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông
Giêsu hay tôi phải gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều
duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã
tin".
Ông Chrgwin, tác giả đã
viết câu chuyện trên trong quyển sách mang tựa đề "Thánh Kinh trong thế giới
truyền giáo" đã kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những
nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn độ Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp
được tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hòa nhã, lễ độ.
Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.
Lời Chúa có sức mạnh vạn
năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một tên sát nhân giết người không gớm
tay như anh Tokichi Ishi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động
lực cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ, đang dấn thân phục vụ những
trẻ con bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải
sống bên lề xã hội.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Về thánh Gioan
Thánh Gio-an lúc bảy mươi tuổi bắt đầu
viết Tin mừng làm chứng về Đức Giêsu. Hôm nay, Ngài ký vào lời chứng này.
Ngôn từ cuốn Tin mừng này đôi khi
khó hiểu, bí ẩn, sâu kín, mang lại kinh nghiệm dày dạn sâu lắng của đời sống
Kitô giáo, đời sống phục sinh. Ngài truyền lại cho chúng ta kiến thức về Đức
Kitô sau khi đã cầu nguyện, suy niệm lâu dài mãi tới già.
Mấy tuần mùa phục sinh Ngài loan báo
cho chúng ta Tin mừng về: sự tái sinh bởi Thánh Thần, chia sẻ bánh hằng sống,
niềm hy vọng phục sinh, tiếp nhận mục tử tốt lành, ban Thánh Thần, thánh Gio-an
giới thiệu chúng ta vào hiệp thông với Chúa Cha. Hơn nữa, ngài còn xác định về
những đòi hỏi phải theo Đức Kitô: Sự cần thiết phải tin, nhận lãnh những dấu chỉ,
đức tin vào lời chứng về Đức Kitô, trông cậy vào Đấng Thiên Chúa sai đến.
Đến lượt, chúng ta cần cảm nghiệm
sâu sắc về đời sống của Đức Kitô. Nhờ thế, chúng ta là nhân chứng về những sự
kiện cao cả của Thiên Chúa trong lịch sử lúc này. Lời chứng của chúng ta rất cần
cho thế gian. Mỗi người trong chúng ta, tùy theo cách thức và đặc sủng của
mình, phải loan báo Tin mừng đã sống thực trong đáy lòng con tim chúng ta.
Mỗi người chúng ta phải lớn tiếng
rao giảng lời chứng của mình về Đức Kitô hàng ngày. Lời rao giảng Tin mừng
trong phụng vụ được các tông đồ truyền lại cho chúng ta, giúp chúng ta làm sống
lại lời Tin mừng đến tận các bàn giấy, các nhà máy, và các gia đình.
Chúng ta không nên đợi những người
khác bắt đầu sống theo Đức Kitô, rồi chúng ta mới bắt đầu thi hành ý Người. Hãy
nhờ chính lời của Người nói với Phê-rô: “Dù Thầy muốn cho người ấy cái gì, dù
Thầy định cho những người khác thế nào, thì việc gì đến anh? Phần anh, anh hãy
theo Tôi”.
CG.
Ngày 26
Thánh
Philiphê Nêri, linh mục
Sứ vụ của Đức Maria trong Giáo hội
Vào ngày lễ Hiện Xuống, Thánh Thần sáng tạo đã tưới khắp mặt đất sức mạnh mẫu từ mà trước đây chỉ tập trung vào Đức Maria, trong Mẹ cả Giáo hội đều hiện diện.
Sứ vụ mang đặc tính Maria của Giáo hội nằm ở chỗ sinh Ngôi Lời trong chúng ta qua trung gian của Lời. Lời vang lên và thâm nhập vào toàn thể Giáo hội. Đức Maria giữ Lời và các hoạt động của Đức Giêsu trong tâm hồn của mình.
Đức Maria tiếp tục đồng hành với Giáo hội trên đường dương thế. Mẹ là một sự hiện diện và một bạn đổng hành ẩn kín mà người ta cũng dễ dàng nhận ra. Mẹ giúp chúng ta nói về Mẹ và về Đức Giêsu như những Đấng đang hiện diện.
Vì là Mẹ, Đức Maria lôi kéo chúng ta đến với Mẹ, kêu gọi chúng ta và qui tụ chúng ta để tiếp tục sai chúng ta đi đến với người khác. Mẹ chỉ cho chúng ta thấy Đức Giêsu, để đến phiên mình, chúng ta chỉ Người cho những người khác. Đó là sự sung mãn gia tăng hoạt động cứu độ của Đức Giêsu. Đức Maria đã đi vào mầu nhiệm này, hiệp thông vào sứ vụ trong Giáo hội vừa được sinh ra. Trong khi chờ đợi Vương quốc trong thinh lặng, Mẹ tiếp tục là sứ điệp, là sự hiện diện và hoạt động mầu nhiệm.
Sứ vụ của Đức Maria trong Giáo hội
Vào ngày lễ Hiện Xuống, Thánh Thần sáng tạo đã tưới khắp mặt đất sức mạnh mẫu từ mà trước đây chỉ tập trung vào Đức Maria, trong Mẹ cả Giáo hội đều hiện diện.
Sứ vụ mang đặc tính Maria của Giáo hội nằm ở chỗ sinh Ngôi Lời trong chúng ta qua trung gian của Lời. Lời vang lên và thâm nhập vào toàn thể Giáo hội. Đức Maria giữ Lời và các hoạt động của Đức Giêsu trong tâm hồn của mình.
Đức Maria tiếp tục đồng hành với Giáo hội trên đường dương thế. Mẹ là một sự hiện diện và một bạn đổng hành ẩn kín mà người ta cũng dễ dàng nhận ra. Mẹ giúp chúng ta nói về Mẹ và về Đức Giêsu như những Đấng đang hiện diện.
Vì là Mẹ, Đức Maria lôi kéo chúng ta đến với Mẹ, kêu gọi chúng ta và qui tụ chúng ta để tiếp tục sai chúng ta đi đến với người khác. Mẹ chỉ cho chúng ta thấy Đức Giêsu, để đến phiên mình, chúng ta chỉ Người cho những người khác. Đó là sự sung mãn gia tăng hoạt động cứu độ của Đức Giêsu. Đức Maria đã đi vào mầu nhiệm này, hiệp thông vào sứ vụ trong Giáo hội vừa được sinh ra. Trong khi chờ đợi Vương quốc trong thinh lặng, Mẹ tiếp tục là sứ điệp, là sự hiện diện và hoạt động mầu nhiệm.
José Maria Arnaiz, eẽm.
Thứ Bẩy 26-5
Thánh Philíp Nêri
(1515-1595)
hánh
Philíp Nêri, vị "Tông Ðồ của Rôma", là một trong những khuôn
mặt lớn của cuộc Cải Cách Công Giáo. Một trong những điều đáng kể của thánh
nhân là ảnh hưởng của ngài, dù ngài không viết một cuốn sách, không đề nghị một
học thuyết gì mới mẻ, và cũng không khởi xướng một phong trào linh đạo nào.
Nhưng tinh thần vui tươi và thánh thiện của ngài đã làm sống dậy tinh thần đạo
đức ở Rôma vào thời ấy.
Thánh
Nêri sinh ở
Thành
phố Rôma thời bấy giờ trong tình trạng thối nát về tâm linh và đạo đức. Các
giáo hoàng thời Phục Hưng thường nổi tiếng về mưu đồ và tài năng chính trị
hơn là đời sống gương mẫu. Việc tấn phong các hồng y nếu không được quyết định
bởi lý do chính trị thì cũng vì lý do phe cánh. Cả thành phố đắm chìm trong
tình trạng hoài nghi yếm thế đối với sứ điệp Kitô Giáo. Tuy nhiên, chính
trong hoàn cảnh này, Philíp Nêri đã nhận ra ơn gọi của mình, đó là
tái-phúc-âm-hoá Rôma.
Quả thật
là một công việc táo bạo, nhưng với nhiệt huyết, Nêri đã khởi sự ngay ở các
đường phố qua các cuộc đối thoại về tôn giáo với bất cứ ai ngài gặp, bất cứ
đâu có cơ hội. Không bao lâu, những người quen biết ngài ngày càng đông và họ
cảm mến sự thẳng thắn cũng như khả năng thấu suốt linh hồn của họ mà Chúa đã
ban cho ngài.
Vào năm
1550, khi ngài ba mươi lăm tuổi, qua sự khuyến khích của cha giải tội, ngài
chịu chức linh mục. Ngay sau đó, ngài trở thành cha giải tội nổi tiếng và
ngài thường tổ chức các buổi học hỏi, nói chuyện ngay trong khuôn viên các đền
thánh ở Rôma.
Ngay
trên căn gác của ngài sinh sống, thường có các buổi hội thảo về đời sống tâm
linh của những người theo ngài, gồm các giáo sĩ cũng như giáo dân. Ðây là khởi
sự của Tu Hội Oratory mà đặc điểm là cầu nguyện và hát thánh vịnh bằng tiếng
bản xứ cũng như mỗi ngày đều có bốn cuộc hội thảo bán chính thức.
Hình thức
sinh hoạt "mới lạ" này đã bị Tòa Thẩm Tra nghi ngờ. Có phải Nêri
toan tính một loại sinh hoạt thiên về Tin Lành ngay trong thủ đô Rôma hay
chăng? Sau giai đoạn đau khổ vì bị cáo buộc là tụ tập những kẻ lạc giáo, mà
trong đó giáo dân có thể giảng và hát thánh vịnh bằng tiếng bản xứ, cuối cùng
Tu Hội Oratory đã được chấp thuận. Hiến pháp của tu hội phải ảnh tinh thần của
Thánh Philíp Nêri, chú trọng vào ý chí cá nhân hơn là thẩm quyền pháp lý. Các
linh mục không có lời khấn. Họ tự ràng buộc chính mình, vì như Cha Philíp
Nêri đã nói, "Nếu bạn muốn vâng phục, thì không cần đến mệnh lệnh".
Ngay
khi ngài còn sống, đã có nhiều phép lạ xảy ra nhờ lời cầu nguyện của ngài.
Vào ngày lễ Hiện Xuống năm 1544, ngài được một cảm nghiệm siêu nhiên về tình
yêu Thiên Chúa mà sau đó, mỗi khi dâng Thánh Lễ, khuôn mặt ngài tỏa sáng lạ
thường. Dân chúng đều coi ngài là thánh, nhưng chính ngài lại giả điên giả
khùng với khuôn mặt chỉ cạo râu có một nửa để khỏi bị dân chúng tôn sùng.
Vào những
năm cuối đời, thánh nhân là tâm điểm đời sống tâm linh của Rôma trong nhiều
phương cách. Không chỉ có các linh mục trong tu hội, mà cả các giám mục và hồng
y đã tìm đến căn phòng nhỏ bé của ngài để xin hướng dẫn linh đạo. Người dân
Rôma, ai ai cũng biết đến công việc bác ái của thánh nhân, đặc biệt là việc
cung cấp linh mục tuyên uý cho các nhà thương thành phố. Sau cùng, vào ngày
25 tháng Năm 1595, sau khi nghe xưng tội và tiếp khách, trước khi về phòng
nghỉ, ngài tuyên bố, "Rốt cục, chúng ta đều phải chết." Quả
thật, đêm ấy ngài đã trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 80 tuổi.
Lời
Trích
Khi được
hỏi ngài cầu nguyện thế nào, Thánh Philíp Nêri trả lời: "Hãy khiêm tốn
và phó thác, và Chúa Thánh Thần sẽ dạy bạn cầu nguyện."
|
|
Copyright © 2010 by
Nguoi Tin Huu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét