Trang

Thứ Ba, 10 tháng 7, 2012

11-07-2012 : THỨ TƯ TUẦN XIV MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Tư sau Chúa Nhật 14 Quanh Năm

Tiên tri Hô-sê đang rao giảng.

Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 10, 1-3. 7-8. 12
"Ðây là lúc phải tìm kiếm Chúa".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Israel là cây nho xanh tốt, hoa trái xứng hợp với nó. Ðất càng màu mỡ, thì càng thêm các tượng thần. Lòng dạ chúng phân đôi, giờ đây chúng sẽ đền tội. Chúa sẽ đánh vỡ các tượng thần và phá tan các bàn thờ của chúng. Bấy giờ chúng sẽ nói: "Chúng ta không có vua, vì chúng ta không kính sợ Chúa: và nhà vua sẽ làm gì cho chúng ta?"
Samaria đã làm cho vua mình qua đi như bọt nước. Những nơi cao dựng tượng thần sẽ bị phá huỷ: Ðó là tội lỗi của Israel! Cây ké và gai góc sẽ mọc trên bàn thờ chúng. Chúng sẽ nói với núi non rằng: Hãy che lấp chúng ta đi. Chúng sẽ nói với đồi rằng: Hãy đổ xuống trên chúng ta cho rồi! Các ngươi hãy gieo rắc sự công chính và sẽ gặt mùa nhân từ. Các ngươi hãy khai khẩn những khu đất mới: Ðây là lúc phải tìm kiếm Chúa, khi Người đến, Người sẽ dạy dỗ sự công chính cho các ngươi.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 104, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn (c. 4b).
Xướng: 1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người; tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa; hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ, và những điều miệng Ngài phán quyết.- Ðáp.
3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người; hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

* * *

Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.


Phúc Âm: Mt 10, 1-7
"Các con hãy đến cùng chiên lạc nhà Israel".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền.
Ðây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.
Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: "Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: 'Nước Trời đã gần đến'".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sai các môn đệ đi để loan báo Nước Trời đã gần đến. Sứ mệnh này không chỉ dành cho các tông đồ hoặc những người có trách nhiệm mà cả chúng ta nữa, những người Kitô hữu. Mỗi người một cách, phải loan báo về Ðức Giêsu và kêu mời mọi người vào trong Giáo Hội, vào trong tình yêu của Chúa.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm sức mạnh cho các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ để các ngài can đảm làm chứng cho Nước Trời. Xin cho chúng con cũng được tiếp tay với các ngài để cho Nước Cha mau hiển trị. Amen.


(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Suy Niệm:
Chọn Các Tông Ðồ
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta trở về cội nguồn của Giáo Hội. Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Kitô, Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi của Chúa Kitô. Ðể thực hiện chương trình cứu rỗi, Chúa Giêsu đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài để rao giảng Tin Mừng. Trong số các môn đệ ấy, Ngài đã chọn mười hai người làm Tông Ðồ và trở thành cột trụ của Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Nếu Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh của Chúa Kitô, thì Giám mục đoàn mà đứng đầu là Ðấng kế vị thánh Phêrô cũng chính là những người tiếp tục làm cột trụ của Giáo Hội.
Chúa Kitô quả thật đã thành lập một Giáo Hội hữu hình có phẩm trật, phẩm trật ấy hiện hữu không ngoài mục đích tiếp tục sứ mệnh Ngài đã ủy thác cho các Tông Ðồ. Do đó, tiếp nhận quyền bính trong Giáo Hội cũng chính là chấp nhận quyền bính mà Chúa Giêsu đã trao cho các Tông Ðồ. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng Giáo Hội tông truyền, điều đó không chỉ có nghĩa là Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng các Tông Ðồ, mà còn có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận quyền bính mà các Tông Ðồ đã truyền lại cho các đấng kế vị, tức Giám mục đoàn mà thủ lãnh là Ðức Giáo Hoàng, đấng kế vị thánh Phêrô. Ðây chính là nền tảng sự hiệp thông trong Giáo Hội. Không thể nói đến hiệp thông khi một Giám mục đứng riêng rẽ bên ngoài Giám mục đoàn để truyền dạy những điều nghịch đức tin và luân lý của Giáo Hội, và cũng không còn là hiệp thông khi một tín hữu không tuân giữ quyền giáo huấn của Giám mục đoàn và của thủ lãnh Giám mục đoàn là Ðức Giáo Hoàng.
Dân chủ vốn là một phạm trù dễ bị lạm dụng. Ngay tại những nước có dân chủ thực sự, thì hai chữ "dân chủ" cũng bị lạm dụng không kém. Khi một luật pháp bất công như luật cho phép phá thai chẳng hạn được số đông bỏ phiếu tán thành, phải chăng đây không phải là một lạm dụng của trò chơi dân chủ. Giáo Hội luôn đề cao tinh thần dân chủ đích thực, nhưng Giáo Hội không hề là một chế độ dân chủ, trong đó các thành phần có thể bỏ phiếu chọn người lãnh đạo hoặc tán thành một khoản luật. Giáo Hội cũng chẳng là một tổ chức mà người ta có thể xếp vào bất cứ chế độ nào. Giáo Hội là Giáo Hội của Chúa Kitô, chân lý chúng ta phải tuyên xưng là do Chúa Kitô mạc khải và ủy thác cho các Tông Ðồ, và truyền lại cho các đấng kế vị các ngài. Luật phải giữ cũng chính là luật của Chúa Kitô đã ủy thác cho các Tông Ðồ và các đấng kế vị các ngài. Tiêu chuẩn cho biết một thành phần Giáo Hội có hiệp thông với Giáo Hội hay không, là tinh thần tuân phục đối với quyền bính của những đấng kế vị các Tông Ðồ.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta tinh thần khiêm tốn, để luôn luôn biết đón nhận và tuân phục giáo huấn của Ngài được ủy thác cho các Tông Ðồ và Giáo Hội. Xin Chúa gìn giữ Giáo Hội được hiệp thông quanh đấng kế vị thánh Phêrô mà Chúa đã đặt làm thủ lãnh Giáo Hội.

(Veritas Asia)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ TƯ TUÀN XIV THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: Hos 10:1-3, 7-8, 12; Mt 10:1-7.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Đừng ăn trộm công ơn của Thiên Chúa.
Trong cuộc đời, ai cũng ghét kẻ vô ơn; nhưng còn có tội nặng hơn tội vô ơn là lấy của người khác làm của mình hay gán ơn ấy cho người không làm. Ví dụ: một người Thiên Chúa ban cho làm ăn phát đạt lại nghĩ là do tài khéo của họ, hay gán cho ông “thần tài” mà họ đã dâng hương cúng bái. Ngôn sứ Hosea dùng chữ nặng hơn để diễn tả hạng người này: họ làm điếm đã không được tiền thì chớ, lại còn lấy tiền của chồng cho khách (Hos 2:7-10). Ngôn sứ có ý muốn nói: Thiên Chúa đã ban mọi thứ cho Israel, họ lại nghĩ thần Baal đã ban cho họ và họ dùng những của cải Thiên Chúa ban để xây dựng đền thờ và dâng hương cúng bái thần Baal.
Các bài đọc hôm nay muốn chúng ta nhận ra tất cả những gì chúng ta có là do Thiên Chúa ban tặng. Chúng ta cần biết nhận ra và đáp trả cho tương xứng. Trong bài đọc I, ngôn sứ Hosea phơi bày tội lỗi của con cái Israel. Họ là những người “một lòng hai dạ:” một tay nhận của Thiên Chúa ban tặng, một tay dâng kính cho thần Baal. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chọn lựa, huấn luyện và ban quyền cho các tông đồ trước khi sai các ông ra đi rao giảng để mang các linh hồn về cho Thiên Chúa. Nếu các ông mang được linh hồn nào trở về, đó là công ơn của Thiên Chúa chứ không phải của các ông. Các ông chỉ là khí cụ Thiên Chúa dùng để giảng lời Thiên Chúa. Vì thế, các ông cần tránh hai thái độ: muốn người khác trả ơn mình hay cho mình là người đã cứu linh hồn người khác.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Hãy gieo công chính, rồi sẽ gặt được tình thương.

1.1/ Càng trở nên giàu có con người càng sống xa Thiên Chúa.
Một điều quá hiển nhiên là con người sống rất gần gũi với Thiên Chúa khi họ nghèo đói, trong đau khổ hay tuyệt vọng. Nhiều người cầu xin và hứa hẹn nếu Thiên Chúa cứu họ thoát hiểm nguy, họ sẽ dành trọn cuộc đời để thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Nhưng khi đã vượt qua đau khổ và trở nên phú túc giàu sang, họ nghĩ họ chẳng cần tới Thiên Chúa nữa. Họ hãnh diện và tôn thờ những gì họ có và cho những gì họ gặt hái được là do công sức của họ. Tuy họ không dám nói công khai là họ từ bỏ Thiên Chúa; nhưng lòng trí họ xa rời Thiên Chúa để gắn bó vào với các thứ thần: uy quyền, danh vọng, tiền của, thỏa mãn xác thịt. Ngôn xứ Hosea gọi họ là thứ người “lòng một dạ hai.”
Điều này đã xảy ra cho con cái Israel. Ngôn sứ Hosea nhận xét: “Israel vốn là một cây nho sum sê, hoa trái thật dồi dào phong phú. Nhưng hoa trái càng nhiều, chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng; đất nước càng giàu sang, chúng càng làm thêm những cột thần lộng lẫy.”
Tại sao những điều này xảy ra? Có nhiều lý do nhưng có lẽ lý do trên hết là tội kiêu ngạo và muốn hưởng thụ. Con người muốn chính họ là vua, là Chúa cho chính họ; chứ không muốn nghe lời bất cứ ai, và cũng không muốn người khác bắt họ phải làm điều họ không muốn. Ngôn sứ Hosea nhận định: Bây giờ chúng lại nói: "Chúng tôi không có vua." Vì Đức Chúa, chúng còn không kính sợ, thì nếu có vua, liệu ông làm gì được cho chúng? Nhiều người chối bỏ Thiên Chúa không phải vì họ không biết có Thiên Chúa, nhưng để khỏi phải làm theo những điều Ngài truyền; vì những điều Thiên Chúa truyền ngăn cản việc hưởng thụ của họ.

1.2/ Thiên Chúa phải sửa phạt để đưa con người trở lại.
Nếu con người biết ơn và trả nghĩa Thiên Chúa khi họ được giàu sang hạnh phúc, Thiên Chúa không cần phải sửa phạt; nhưng vì con người “lòng một dạ hai,” nên Thiên Chúa phải sửa phạt để họ nhận ra họ không thể sống thiếu Thiên Chúa và ăn năn quay về. Sửa phạt, như thế, là một điều cần thiết và biểu lộ tình thương; nếu không, Thiên Chúa sẽ mất những người con Ngài dựng nên.
Khi Thiên Chúa ra tay sửa phạt, con người sẽ nhận ra tội lỗi và lối sống hoang tưởng của họ. Họ sẽ xấu hổ, sợ hãi và không dám đối diện với tình thương cao cả của Ngài, Ngôn sứ Hosea diễn tả trạng thái này như sau: Bấy giờ chúng sẽ nói với núi đồi: "Phủ lấp chúng tôi đi!" và với gò nổng: "Hãy đổ xuống trên chúng tôi!"
Để tránh tình cảnh sẽ xảy ra, chúng ta hãy học bài học lịch sử như Hosea dạy: “Hãy gieo công chính, rồi sẽ gặt được tình thương... Đây là thời kiếm tìm Đức Chúa.” Nếu đang sống trong đầy đủ hạnh phúc, chúng ta hãy biết cám ơn Thiên Chúa và xử dụng những gì Ngài ban cho nên. Nếu đang thiếu thốn đau khổ, chúng ta hãy cầu xin cho vượt qua nếu đẹp ý Ngài.

2/ Phúc Âm: Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần.

2.1/ Chúa ban cho các Tông-đồ mọi quyền năng để phân phát cho dân chúng.
Trong sự quan phòng rất khôn ngoan, Chúa Giêsu không làm việc một mình; nhưng Ngài chọn các Tông-đồ để huấn luyện, ban quyền năng, và ủy thác cho sứ vụ tiếp tục loan truyền Tin Mừng đến mọi người. Noi gương Chúa Giêsu, Giáo Hội trải qua bao thế hệ vẫn tiếp tục sứ vụ này: một mặt không ngừng rao giảng Tin Mừng đến mọi dân tộc, một mặt lo đào tạo hàng giáo sĩ, ban quyền năng, và sai đi, để họ có thể tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho thế hệ tương lai. Nhìn lại lịch sử của Giáo Hội, chúng ta không còn gì nghi ngờ về sự hiện diện luôn của Đức Kitô trong Giáo Hội.

2.2/ Tập hợp của các môn đệ Chúa Giêsu:
"Sau đây là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông; sau đó là ông Giacôbê con ông Zebedee và ông Gioan, em của ông; ông Philíp và ông Bartholomeo; ông Tôma và ông Matthêu người thu thuế; ông Giacôbê con ông Alphê và ông Tađêô; ông Simon thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giuđa Iscariot, là chính kẻ nộp Người."
- Nhìn vào danh sách các Tông-đồ, điều đầu tiên chúng ta nhận ra là những con người tầm thường, chẳng có gì nổi bật so với tiêu chuẩn của thế gian, đấy là chưa kể đến yếu đuối, tội lỗi. Điều này chứng minh: sức mạnh và uy quyền hoàn toàn của Thiên Chúa. Ngài giúp con người tầm thường làm những việc phi thường.
- Con người thường hay chọn những người cùng một sở thích hay tính tình giống nhau. Chúa Giêsu chọn các Tông-đồ có tính tình khác nhau, nhiều khi đến chỗ xung khắc: một Phêrô nhanh nhẩu nói năng phải ở với Gioan thâm trầm, ít nói; một Simon nhiệt thành chống lại uy quyền ngoại bang phải ở với Matthew, người thu thuế cho ngoại bang; một Thomas từ chối không tin tất cả lời chứng Chúa đã sống lại và hiện ra của tất cả Tông-đồ khác. Thế mà Thiên Chúa có thể làm cho các ông dẹp khác biệt cá nhân, để sống chung và cùng nhau thi hành sứ vụ Ngài trao.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta đừng bao giờ ăn trộm công ơn của Thiên Chúa đã làm cho chúng ta trong cuộc đời, và luôn biết đáp trả tình yêu Thiên Chúa bằng lối sống công chính và yêu thương tha nhân.
- Chúng ta hãy luôn thờ phượng và sống gần gũi với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh: khi nghèo khó cũng như lúc sang giầu, khi bình an cũng như lúc gian nan khốn khó.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên,OP.

Thứ Tư tuần 14 thường niên
Sứ điệp: Chúa Giêsu sai các tông đồ và toàn thể Hội Thánh đi loan báo Nước Thiên Chúa đến gần, Chúa muốn chia sẻ chính sứ mạng của Chúa. Để ta chu toàn sứ mạng này, Chúa đã ban ơn chế ngự các thần ô uế.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, con được Chúa ban sự sống của Chúa, được làm con Thiên Chúa. Và đồng thời ngay lúc ấy, con cũng được Chúa trao ban sứ mạng cứu độ của Chúa. Chúa cho con trở nên một chứng nhân, một dấu hiệu của Nước Chúa, được trở nên ánh sáng cho thế gian, nên muối ướp cho đời, nên men thấm vào trong bột.
Đó là một ân huệ cao cả. Con dâng lời cảm tạ Chúa. Xin Chúa giúp con tích cực làm chứng cho Chúa trong môi trường sống của mình, trong gia đình, nơi giáo xứ, tại chỗ làm việc hay học tập của con. Chính trong môi trường sống hằng ngày mà Chúa đã sai con đến để loan báo Nước Trời đã đến. Xin cho con ý thức rằng mỗi lời con nói, mỗi công việc con làm, mỗi thái độ sống của con, đều có thể trở nên dấu chỉ của Chúa, đều có thể là tiếng loan báo sự hiện diện của Nước Trời.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho các tông đồ có quyền trên các thần ô uế. Hằng ngày con cũng được Chúa ban ơn thánh hóa để con được hiện diện giữa lòng đời như một yếu tố làm sạch cuộc sống. Để có thể góp phần thay đổi bộ mặt cuộc sống này, xin Chúa giúp con biết quý trọng và duy trì ơn thánh Chúa trong con. Xin giúp con sống trung thành với ơn gọi Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban cho các tông đồ sức mạnh chữa các bệnh hoạn tật nguyền. Nhưng hôm nay, chính Chúa đã đích thân đến chữa lành tâm hồn con bằng Mình Máu Chúa. Con xin dâng lời tạ ơn và đón nhận hồng ân cao quý này. Amen.
Ghi nhớ : "Các con hãy đến cùng chiên lạc nhà Israel".

11/07/12 THỨ TƯ TUẦN 14 TN
Th. Bênêđíctô, viện phụ
Mt 10,1-7

THAO THỨC VÌ CÁC CHIÊN LẠC

“Hãy đến với các con chiên lạc nhà ít-ra-en.” (Mt 10,6)

Suy niệm: Chúa Giêsu khi sai các tông đồ đi rao giảng đã căn dặn các ông đừng đến với “dân ngoại”mà chỉ đến với “các con chiên lạc nhà Ít-ra-en.” Chỉ thị đó không khỏi làm chúng ta thắc mắc: Chúa được sai đến là để cứu chuộc mọi người, và trước khi lên trời, Ngài còn sai các môn đệ đến với mọi dân tộc cơ mà? Vậy tại sao Chúa lại có thái độ phân biệt đối xử, kỳ thị chủng tộc như thế? Các ngôn sứ vẫn ví Ít-ra-en như cây nho được Thiên Chúa yêu quí chăm sóc đặc biệt; vì thế khi Ít-ra-en sống chung với các dân ngoại, bị sa lầy trong việc thờ ngẫu tượng, lạc xa đường lối huấn lệnh của giao ước Thiên Chúa đã ký kết với họ, Ngài đã không đành lòng để họ mãi mãi là những chiên lạc, mà mong muốn qui tụ họ lại thành một đàn chiên. Đó chính là việc ưu tiên hàng đầu trong sứ vụ của Đức Kitô. Vì thế, vừa mới chọn gọi mười tông đồ, Chúa đã sai họ đi ngay đến với các chiên lạc, sứ vụ đầu tiên và cấp bách nhất, trước khi mở rộng ra đến với mọi dân tộc.

Mời Bạn: Trong giáo xứ bạn, nơi bạn sinh sống và làm việc có ai vốn đã là kitô hữu mà nay vì hoàn cảnh nào đó đã không sống đạo không? Bạn có thao thức về điều đó không? Bằng lời cầu nguyện và những hy sinh cũng như bằng cuộc sống bác ái, bạn hãy nói lên rằng đàn chiên Hội Thánh chính là mái ấm gia đình mời gọi họ trở về sum họp.

Sống Lời Chúa: Sống bác ái mỗi ngày với ý thức đây chính là cung cách thiết yếu để sống và loan báo Tin Mừng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tấm lòng biết chạnh thương như Chúa, và xin sai chúng con đi để loan báo Tin Mừng tình thương của Chúa cho muôn dân.


 Mười hai tông đồ (11.7.2012 –Thứ tư Tuần 14 Thường niên)
Suy nim:
Đức Giêsu đã cần mười hai bạn trẻ cộng tác với mình,
để làm mục tử cho đàn chiên, làm thợ gặt cho mùa lúa chín vàng,
làm tông đồ cho một nước Paléttin nhỏ bé.
Ngài chia sẻ cho họ uy quyền mình có và sứ vụ mình làm (c. 1).
Con số mười  hai gợi nhớ mười hai chi tộc Israel ngày xưa.
Giáo Hội Ngài thiết lập sẽ là Israel mới, đặt nền trên mười hai bạn trẻ.
Chúng ta khó hình dung khuôn mặt riêng của mỗi vị tông đồ,
nhưng ta biết tên của họ qua các sách Tin Mừng, dù có chút dị biệt.
Họ có cá tính và cuộc đời riêng, nhưng đều được gọi bởi Thầy Giêsu,
và được Thầy sai đến với dân tộc mình là Israel (c. 6).
Tin Mừng Mátthêu kể tên nhóm Mười Hai theo từng cặp.
Simôn Phêrô đứng đầu danh sách, còn Giuđa Ítcariốt thì đứng cuối.
Chỉ sau này ta mới biết Simôn sẽ chối Thầy và Giuđa sẽ phản bội.
Có những cặp anh em ruột: Simon và Anrê, Gioan và Giacôbê.
Có người làm nghề thu thuế cho quân đô hộ: Mátthêu.
Có người lại muốn dùng vũ trang giải phóng đất nước: Simôn nhiệt thành.
Có ba người được coi là môn đệ thân tín: Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Nói chung đa số là những người ít học thức, làm nghề đánh cá.
Được sai đi thật là một thách đố đối với họ. 
Họ có làm nổi những việc Thầy giao không?
Vào thời Đức Giêsu, rao giảng “Nước Trời đã đến gần” là điều không dễ.
Để người ta tin chuyện đó, cần phải minh chứng bằng hành động cụ thể,
như chữa lành bệnh hoạn và khử trừ thần ô uế.
Vào thời nay, rao giảng Tin Mừng Nước Trời lại càng không dễ.
Rao giảng vẫn phải đi kèm với các việc phục vụ con người.
Lập một bệnh xá, bắc một cây cầu, đào một giếng nước,
giúp trẻ em nghèo đến trường, đưa người cai nghiện về lại với cộng đoàn,
cho các cô gái lầm lỡ có chỗ sinh con và nuôi con…
Giáo Hội đã làm nhiều việc và vẫn còn bao nhu cầu mới mẻ.
Nhưng có một việc mà xã hội hôm nay không biết là mình đang cần,
đó là được giải phóng khỏi những thần ô uế mới đang ám ảnh con người.
Mười Hai tông đồ ngày xưa đã đi khắp mảnh đất Paléttin,
và đã đặt chân đến những vùng đất mới.
Thế giới hôm nay rộng hơn và phẳng hơn xưa.
Chúng ta được Đấng Phục sinh sai đến mọi dân tộc (Mt 28, 20).
Các phương tiện truyền thông ngày nay giúp ta dễ dàng làm chuyện đó.
Nhưng chúng ta vẫn không được quên, trên quê hương Việt Nam
gần 80 triệu đồng bào chưa đón nhận Tin Mừng.
Cầu nguyn:
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.

 
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Các con hãy đến cùng chiên lạc nhà Israel".

 Một Hội Thánh bên ngoài Hội Thánh
Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Dọc đường hãy rao giảng rằng: “Nước Trời đã đến gần.” (Mt. 10, 1. 7)
Sai đi truyền giáo
Khi Chúa sai các Tông đồ đi truyền giáo, Chúa cho các ông một chỉ thị rất rõ ràng: “Tốt hơn là anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà It-ra-en”. Vậy là có những người mà các tông đồ phải ưu tiên đến với họ. Họ không phải là dân ngoại, cũng không phải là những người xa xăm chưa biết Chúa. Những người đầu tiên mà các môn đệ phải đi tới, đó là những đồng bào của các ông đang sống bất trung và tội lỗi. Các ông phải đến với họ. Các ông phải ra đi tiếp xúc gặp gỡ để loan báo cho họ biết rằng Nước Trời đã đến gần.
Hãy đi ra bên ngoài giáo hội
Chỉ thị trên đây của Chúa, ta hãy đem ra áp dụng đúng vào hoàn cảnh hôm nay của ta. Những người mà ta phải nói cho họ biết về Chúa, lại đang ở rất gần ta. Họ là những người đồng hương với ta. Họ là những người bà con lối xóm của ta. Họ là những người cùn nghề cùng sở làm với ta. Nhưng ta phải đến với họ nhân danh Chúa Giêsu, có nghĩa là vì hạnh phúc đời đời của họ mà ta phải đi bước trước, phải tới gõ cửa nhà họ để giới thiệu cho họ biết có một đấng luôn yêu thương họ, và quan tâm đến vận mệnh đời đời của họ. Bởi vì rất có thể là họ sẽ không đến với ta và Giáo hội.
Có một thời Giáo hội đã quá quen với nếp sống ù lì là thích tiếp nhận những kẻ đến với mình hơn là ra đi đến với họ. Thời đó nay đã qua rồi. Giáo hội không thể là một biệt khu khép kín. Các linh mục không thể chỉ luẩn quẩn làm việc trong nhà xứ. Các tín hữu không thể chỉ coi mình là những nhà truyền giáo cho những người đang sống trong lòng Giáo hội mà thôi. Đã đến lúc phải vượt ra bên ngoài Giáo hội, phải ra khỏi các phòng hội họp của giáo xứ để đi đến những nơi công cộng, để thâm nhập vào mọi nơi, mọi tầng lớp xã hội. Để chu toàn sứ mệnh của mình, Giáo hội phải tỏ mình ra và hành động ở bên ngoài các nhà thờ. Nếu chỉ có ở tại nhà thờ, ta mới biết làm chứng lòng tin của mình, thì thiết tưởng ta vẫn chưa phải là những chứng nhân theo như Chúa muốn.





Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 6
11 THÁNG BẢY
Con Đường Tiến Tới Thành Toàn
Sự quan phòng bao trùm một cách đặc biệt những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài – tức con người. Con người nhận được “sự tự trị của những hữu thể thụ tạo” trong ý nghĩa đầy đủ nhất theo diễn tả của Công Đồng Vatican II (MV 36). Nhưng không chỉ con người mà thôi – vì còn phải kể đến các tạo vật có bản tính tinh thần thuần túy nữa. Nhưng chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này sau – vấn đề liên quan đến thế giới vô hình.
Trong thế giới hữu hình, đối tượng đặc biệt của sự quan phòng thần linh là con người. Theo ngôn ngữ của Công Đồng Vatican II, “con người là tạo vật duy nhất trong thế giới được Thiên Chúa yêu thương vì chính nó” (MV 24). Vì thế, “con người không thể hoàn thành chính mình nếu không chân thành trao hiến chính mình” (MV 24).
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Bênêđictô, viện phụ;
Hs 11,1-3.7-8.12; Mt 10,1-7
LỜI SUY NIỆM: “Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.” (Mt 10,1)
        Chúa Giêsu luôn đang sống: Chúa đã ban cho các môn đệ quyền trên các thần ô uế, và chữa hết bệnh hoạn tật nguyền khi các ông đang sống bên Ngài. Sau khi Ngài đã chết đã sống lại và đã về trời. Quyền Chúa Giêsu trao ban cho các ông vẫn còn hiệu nghiệm, chứng thực qua việc hai Tông Đồ Phêrô và Gioan đã cho anh què ở cửa Đẹp của Đền Thờ đứng dậy đi lại được. (Cv 3,1-10). Cũng như ngày hôm nay. Linh mục Emilianô Tardif dòng Thừa Sai Thánh Tâm Gia nã Đại, và cùng một số linh mục hiến thân phục vụ Chúa trong Phong Trào Canh Tân Đắc Sủng Công Giáo, đã nhận lãnh ân ban này. (Tác giả cuốn sách Chúa Giêsu Đang Sống).
        Chúng ta phải có đức tin là Chúa Giêsu đang sống, và Chúa cũng đang muốn trao ban những ơn đó để chúng ta phục vụ tha nhân một cách nhưng không. Hãy cầu nguyện và hiến dâng cho Chúa để phụng thờ Ngài.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 11-07:
Thánh BÊNÊDITÔ
Tu Viện Trưởng (480 - 547)
Thánh Bênêditô, tổ phụ các dòng tu bên tây phương, sinh khoảng năm 480 tại Nursia. Hai nguồn chính về cuộc đời thánh Bênêđitô là cuốn Dialogne (đối thoại) của thánh Grêgôriô Cả và cuốn qui luật của chính thánh nhân. Cuốn Dialogne thâu thập các phép lạ được coi là do thánh nhân thực hiện. Giá trị của các phép lạ này tùy theo thẩm quan và theo cách thức phê phán của mỗi người, nhưng cung ứng cho chúng ta những sự kiện quí giá. Cha mẹ Ngài có lẽ thuộc vào hàng quí tộc ở miền quê. Ngài lớn lên tại gia đình. Năm 14 tuổi, Ngài được gửi tới Roma để bổ túc việc học hành. Các độc giả ngày nay có thể ngạc nhiên khi thấy có chị vú nuôi Cyrilla của Ngài đi theo.
Sự suy đồi của Roma làm cho người thiếu niên nhà quê này khiếp sợ. Dầu có vú nuôi đi theo, thánh nhân trốn khỏi kinh thành hai hay ba năm sau đó. Ngài biết rằng: Thiên Chúa muốn gọi mình sống đời tu trì. Cùng với vài người đạo đức, Ngài lưu lại ít lâu ở Enfide, cách Roma 35 dặm. Sau đó một mình lên đường, Ngài tìm sống đời ẩn dật tu trì. Tại Subianô, Ngài gặp một ẩn sĩ tên là Rômanô, vị ẩn sĩ hỏi: - Bạn ơi, bạn đi đâu vậy ?
- Tôi trốn thế gian và đi tìm cô tịch.
Rômanô khen ngợi ý định đạo đức của thánh nhân, khuyên Ngài hãy kiên trì và ban cho những lời khuyên nhủ quí báu. Thầy cho Ngài một bộ áo nhà tu, là một tấm da cừu và chỉ cho Ngài một cái hang. Nhận bộ áo nhà tu, Bênêditô lần mò tới cái hang ở giữa triền dốc Montê Calvô. Ngài đã giam mình ở đó 3 năm, thinh lặng cầu nguyện và ăn chay hãm mình. Thực phẩm Ngài dùng là rễ cây và ít mẩu bánh thầy Romanô gởi tới bằng một cái thúng cột giây thả xuống.
Quỉ dữ tức giận vì các nhân đức của thầy dòng trẻ tuổi. Chúng dùng nhiều chước cám dỗ để lôi kéo Ngài bỏ sa mạc trở về thế gian. Ngài thường làm dấu thánh giá để xua đuổi các cơn cám dỗ. Một lần kia bị cám dỗ nghịch với đức trong sạch, Ngài liền cởi áo và lăn mình vào bụi gai đến chảy máu ra. Từ đó tư tưởng xấu hoàn toàn bị đè nén và không còn khuấy khuất Ngài nữa.
Tuy nhiên, các mục đồng đã khám phá ra Ngài và danh thơm nhân đức của Ngài đã lan rộng. Một tu viện gần đó mời Ngài về làm bề trên. Nhưng khi muốn chỉnh đốn những lạm dụng và muốn áp dụng một qui luật, Ngài đã bị một số thầy dòng bực tức khó chịu. Họ còn đi đến quyết định hãm hại người khác nữa. Đến bữa ăn thánh Bênêditô làm dấu thánh giá trên chén rượu như thói quen, chén liền vỡ tan. Ngài nói với họ: - Xin Chúa tha thứ cho các anh. Tại sao các anh làm như vậy ? Tôi đã chẳng nói với các anh rằng : chúng ta không thể sống chung được với nhau là gì ? Vậy các anh hãy đi tìm một bề trên khác hợp ý các anh hơn.
Rồi thánh nhân tìm lại cô tịch để sống thân mật một mình với Thiên Chúa. Dầu vậy danh tiếng của thánh nhân lan rộng tới Roma. Ngài không thể sống cô độc một mình được nữa. Nhiều người tìm đến xin làm môn đệ Ngài. Tiếp nhận họ, Ngài đã phải thiết lập 12 tu viện nhỏ. Có những gia đình quí phái mang con đến gởi thánh nhân. Chúng ta phải kể đến trong số này hai thiếu niên Placidê và Maurô là những người sau này đã trở nên các vị thánh.
Nhân đức các phép lạ của thày dòng cao cả này đã gây nên nỗi ghen tức và cả đến việc vu oan nữa. Thánh Grêgôriô cho chúng ta biết rằng: vì bị một linh mục ghen ghét xua đuổi, Bênêditô phải dời bỏ Subianô. Thi sĩ Marcô lại nói rằng: Ngài đã được Chúa gọi đến Cassinô. Dầu sự thực có thế nào đi nữa, thì vào khoảng giữa năm 520 và 530, thánh Bênêditô cùng với vài người bạn đã rời bỏ Subiacô tới Cassinô. Trên núi Cassinô có một ngôi đền cổ và một cánh rừng dâng kính thần Apollô. Ngài rao giảng Tin Mừng cho dân cư vùng này và phá rừng khai hoang. Sau khi triệt hạ ngôi đền cổ, Ngài đã thiết lập hai nhà nguyện kính thánh Gioan tẩy giả và thánh Martinô. Đó là nguồn gốc của tu viện nổi danh Montê Cassinô.
Thánh Bênêditô đã sống tại đây cho tới hết đời. Cũng tại đây, Ngài đã trước tác một bộ luật dòng ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tu trì của Giáo hội. Theo luật sống này, một ngày của tu sĩ được phân phối cho ba hoạt động chính là cầu nguyện, học hành và lao động.
Mọi hoạt động của thánh nhân đều nhằm thi ân. Người ta còn kể lại nhiều phép lạ Ngài đã thực hiện. Chẳng hạn như Ngài chữa cho nhiều người phong hủi, trừ quỉ và làm cho nhiều người chết sống lại, Ngài còn được ơn thấu suốt bí mật tâm hồn và bí mật về tương lai. Chúng ta ghi lại giai thoại về cuộc tiếp xúc giữa thánh nhân với vua Totila. Nhà vua muốn kiểm chứng tin đồn rằng: thánh nhân biết được những điều bí mật. Ông cho biết mình sẽ đến thăm thánh nhân. Nhưng thay vì đích thân đến, ông lại sai một viên chức tên là Riggon, ăn mặc như nhà vua và có đoàn tùy tùng đông đảo. Thánh nhân vẫn ngồi khi thấy ông tới và nói với ông: - Con ơi ! Cởi áo ra đi. Nó không phải là của con,
Đến luợt Tôtila, ông đến thăm người của Chúa, ông quỳ mọp dưới chân thánh nhân, nhưng đã ngạc nhiên khi nghe Ngài nói: - Hãy giảm bớt những bất công đi, bởi vì ông đã gây quá nhiều sự dữ. Ong sẽ tiến vào Roma, cai trị trong chín năm. Năm thứ 10 ông sẽ từ trần.
Lời tiên báo của thánh nhân đã được thể hiện đầy đủ. Ngài còn cho biết rằng tu viện Monte Cassinô sẽ bị tàn phá. Lời tiên báo này cũng đã xảy ra. Năm 590, tu viện bị người Combarde cướp phá. Năm 1943, bọn đồng minh tàn phá dữ dội tu viện.
Thánh nhân tiếp tục làm nhiều phép lạ, do lòng bác ái thúc đẩy. Vào cuối đời, Ngài được thị kiến, thấy địa cầu chói sáng và linh hồn của thánh Germain được các thiên thần đưa về trời.
Ngài cũng đã thấy linh hồn của em mình là thánh nữ Scolastica về trời như vậy. Bốn mươi ngày sau cái chết của người em gái thánh nhân cho biết về cái chết của em mình. Sau khi đào mộ cho mình, thứ bảy ngày 21 tháng 3 năm 543 Ngài từ trần như lời loan báo trước.
(Daminhvn.net)
+++++++++++++++++
11 Tháng Bảy
Một Quy Luật Ðơn Sơ

Hôm nay Giáo hội tôn kính nhớ thánh Bênêđictô, bổn mạng của toàn thể Châu Âu.
Vào cuối thế kỷ thứ 5, đế quốc La Mã bị lung lay vì cuộc xâm lăng của những người mà thế giới Kitô tại Âu Châu gọi là dân man di.
Một người thanh niên thuộc dòng dõi quý tộc tại miền trung nước Italia muốn trốn thoát khỏi cuộc loạn nhiễu nhương ấy, cho nên đã leo lên ngọn núi Subiaco để dìm mình trong cuộc sống ẩn dật. Chính giữa nơi thanh tịnh thoát tục ấy mà chàng đã nghe được tiếng Chúa phán trong tâm hồn: có nhiều giá trị của đế quốc La Mã cần phải được bảo tồn. Càng ra sức làm việc để đem lại sự thống nhất và văn minh cho các dân xâm lược ấy.
Lấy những thôi thúc ấy làm lý tưởng cho cuộc sống, Bênêđictô, người thanh niên quý tộc ấy đã quy tụ xung quanh mình một số người đồng chí hướng và thiết lập tu viện đầu tiên tại Montecassino.
Chàng đã nói với Mauro, Placido và những người môn đệ đầu tiên như sau: "Chúng ta giam mình trong bốn bức tường kiên cố không phải là để xa cách những người khác, nhưng là để tiếp nhận từ trên cao ánh sáng của Chúa và thông đạt cho thế giới, để học hỏi một cách sâu xa hơn nền văn minh vừa Kitô giáo vừa nhân bản và làm cho nền văn minh ấy chiếu sáng giữa những người anh em của chúng ta. Tôn chỉ của chúng ta là thập giá và cái cày, bởi vì một dân tộc chỉ có thể phát sinh và lớn lên với sự cầu nguyện, nghiên cứu học hỏi và lao động".
Những điểm chính trong quy luật của chúng ta là: Hát bảy lần một ngày để ca tụng Chúa và làm cho màn đêm tăm tối cũng được ấm cúng với lời ca tụng này. Thứ đến, mỗi ngày bỏ ra nhiều giờ để lao động ngoài đồng áng, học hỏi những sự trên trời và dịch lại những tác phẩm cổ điển. Sau cùng, phục vụ nhau như những người anh em của nhau, nhất là tại bàn ăn, là nơi vừa nghe đọc sách vừa thưởng thức chút rượu.
Vị thánh đã đưa ra chút quy luật đơn sơ trên đây đã được chọn làm bổn mạng của toàn thể Âu Châu, bởi vì nền văn minh của Kitô giáo hiện nay, nền văn minh nhân bản của thế giới ngày nay đã phát sinh từ chính lý tưởng cao quý ấy: sống chung trong yêu thương để ca tụng Chúa và phục vụ con người.
Giữa cơn khủng hoảng của đời sống tu trì như người ta đang chứng kiến hiện nay tại hầu hết các nước Tây phương, người ta lại thấy một dấu hiệu đầy hy vọng: các tu viện sống đời chiêm niệm vẫn tiếp tục thu hút thanh niên thiếu nữ. Giữa một thế giới dư dật, nhưng trống rỗng, hơn bao giờ hết, người ta càng ngày càng cảm thấy có nhu cầu phải cầu nguyện, phải sống kết hợp với Chúa.
Ðời sống tu trì, dù bất cứ dưới hình thức nào đi nữa, cũng không là một lẩn trốn đầy sợ hãi trước thế gian... Người tu sĩ đích thực xa lánh thế gian, chứ không xa lánh con người. Người tu sĩ đích thực xa lánh sự sa đọa của thế gian, để rồi lại kiến tạo một xã hội nhân bản hơn, dễ thở hơn, dễ sống hơn.
Ðó không chỉ là sứ mệnh của người được Chúa chọn cho cuộc sống chiêm niệm và cầu nguyện, mà cũng là sứ mệnh của mọi người Kitô. Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi để thoát tục, để đi ngược lại tinh thần của thế tục, để tiêu diệt nơi mình những sức mạnh của sự dữ để ra sức kiến tạo một thế giới đáng sống hơn. Sống giữa thế giới, nhưng không thuộc về thế gian: đó là thế đứng của người Kitô. Ơn gọi và sứ mệnh của họ là kiến tạo Nước Chúa nghĩa là xây dựng những giá trị vĩnh cửu ngay trên chính những cái chóng qua ở đời này.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++

Ngày 11
Thánh Benêdictô, viện phụ

Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Biển Đức, Bổn Mạng Châu Âu. Ngài sẽ là người đầu tiên nói cho chúng ta rằng thông điệp của Ngài, hay nói đúng hơn, thông điệp mà Thiên Chúa đã nhờ Ngài trao ban cho thế giới, có một tầm vóc phổ quát, cũng như thông điệp của tất cả các Thánh. Thông điệp ấy được tóm gọn trong lời này của sách Châm Ngôn: "Hãy đào bới như thể kho tàng" Nhưng đào bới ở đâu?
 
Biết bao nhiêu người đã và đang miệt mài đào bới mong tìm cho được kho tàng nhưng cuối cùng chỉ thấy bùn đất. Vấn đề không phải là đào bới ở chỗ nào nhưng là đào bới với thái độ nào, với trạng thái tâm hồn nào. Để nối kết hai Bài Đọc cho hài hòa, các nhà phụng vụ hẳn cũng có thể đã chọn cho ngày Lễ hôm nay, bài Tin Mừng về người kia, sau khi tìm được kho tàng chôn giấu trong ruộng, đã về bán hết tất cả những gì mình có để mua thửa ruộng đó. Ông Phêrô đã nói với Đức Giêsu "Này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy". Nếu như hôm nay chúng ta cũng nói như thế thì Đức Giêsu, Thánh Phêrô, Thánh Biển Đức cũng như tất cả các Thánh sẽ trả lời chúng ta: "Con đã tìm ra nơi chôn giấu kho tàng: Hãy tiếp tục đào, đào mãi, bởi vì nó được chôn rất sâu, sâu hơn con tưởng, và kho tàng chôn càng sâu thì giá trị càng lớn."

Một đan sĩ
Thứ Tư 11-7

Thánh Bênêđích (Biển Ðức)

(480?-543)
T
hật đáng tiếc là không ai viết nhiều về một vị đã thể hiện biết bao kỳ công ảnh hưởng đến nếp sống đan viện Tây Phương. Thánh Bênêđích được đề cập đến nhiều trong các Ðối Thoại của Thánh Grêgôriô Cả sau khi ngài chết khoảng năm mươi năm, nhưng đó chỉ là các sơ thảo của biết bao điều lạ lùng trong cuộc đời thánh nhân.
Ngài sinh trong một gia đình lỗi lạc ở Nursia, thuộc miền trung nước Ý, theo học tại Rôma và ngay từ khi còn trẻ, ngài đã thích đời sống đan viện. Lúc đầu, ngài là một vị ẩn tu sống trong một cái hang ở Subiaco, xa lánh thế giới nhiều chán nản mà lúc bấy giờ giặc ngoại giáo đang lan tràn, Giáo Hội bị phân chia bởi ly giáo, dân chúng đau khổ vì chiến tranh, đạo lý ở mức độ thấp nhất.
Sau đó không lâu, ngài thấy không thể sống cuộc đời ẩn dật ở gần thành phố, dù lớn hay nhỏ, do đó ngài đi lên núi cao, sống trong một cái hang và ở đó ba năm. Trong một thời gian, một số đan sĩ chọn ngài làm vị lãnh đạo, nhưng họ cảm thấy không thể theo được sự nghiêm nhặt của ngài. Tuy nhiên, đó cũng là lúc ngài chuyển từ đời sống ẩn tu sang đời sống cộng đoàn. Ngài có sáng kiến quy tụ các nhánh đan sĩ khác nhau thành một "Ðại Ðan Viện", đem lại cho họ lợi ích của sự hợp quần, tình huynh đệ, và luôn luôn thờ phượng dưới một mái nhà. Sau cùng, ngài khởi công xây dựng một đan viện nổi tiếng nhất thế giới ở núi Cassino, cũng là nơi phát sinh dòng Bênêđích.
Cũng từ đó, một quy luật từ từ được hình thành nói lên đời sống cầu nguyện phụng vụ, học hỏi, lao động chân tay và sống với nhau trong một cộng đoàn dưới một cha chung là đan viện trưởng. Sự khổ hạnh của Thánh Bênêđích được coi là chừng mực, và đời sống bác ái của ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người chung quanh. Trong thời Trung Cổ, tất cả các đan viện ở Tây Phương dần dà đều sống theo Quy Luật Thánh Bênêđích. 

Lời Bàn

Giáo Hội được nhiều ơn ích qua sự tận tụy của dòng Thánh Bênêđích về phụng vụ, không những chỉ các nghi thức phong phú được cử hành hiện nay nhưng còn các nghiên cứu học thuật của các phần tử trong dòng. Ðôi khi phụng vụ bị lầm lẫn với nhạc đời, với trống đàn đầy nhịp điệu kích động. Chúng ta phải biết ơn những người đã duy trì và thích ứng truyền thống đích thực về thờ phượng trong Giáo Hội.

Lời Trích

"Nói cho đúng, phụng vụ phải được coi là một sùng bái chức tư tế của Ðức Giêsu Kitô. Trong phụng vụ, con người được thánh hóa qua các dấu hiệu có thể cảm nhận được bằng giác quan...; trong phụng vụ, sự thờ phượng đầy đủ được thi hành bởi Nhiệm Thể của Ðức Giêsu Kitô, đó là, bởi Ðầu và các chi thể của Ngài.
"Từ đó xuất phát mọi nghi thức phụng vụ, vì đó là một hành động của Linh Mục Kitô và Thân Thể của Ngài là Giáo Hội, là một hành động thiêng liêng, vượt quá mọi thứ khác" (Hiến Chế Tín Lý về Phụng Vụ, 7).

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét