Chúa Nhật 17 Quanh Năm Năm B
Bài Ðọc I: 2 V 4, 42-44
"Họ ăn xong mà hãy
còn dư".
Trích sách Các Vua quyển thứ
hai.
Trong những ngày ấy, có một
người từ Baal-salisa mang đến dâng cho Êlisê, người của Thiên Chúa, bánh đầu
mùa, hai mươi chiếc bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa. Người của Thiên Chúa liền
nói: "Xin dọn cho dân chúng ăn". Ðầy tớ của người trả lời: "Tôi
dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?" Nhưng người ra lệnh: "Cứ
dọn cho dân chúng ăn, vì Chúa phán như sau: 'Người ta ăn rồi mà sẽ còn
dư'". Ðoạn người dọn cho họ ăn mà còn dư đúng như lời Chúa phán.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 10-11.
15-16. 17-18
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho chúng con
được no nê (c. 16).
Xướng: 1) Lạy Chúa, mọi công
cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài.
Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài. -
Ðáp.
2) Muôn loài để mắt cậy trông
vào Chúa, và Ngài ban lương thực cho chúng đúng theo giờ. Chúa mở rộng bàn tay
ra, và thi ân cho mọi sinh vật được no nê. - Ðáp.
3) Chúa công minh trong mọi
đường lối, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. Chúa gần gũi những kẻ kêu
cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 4, 1-6
"Chỉ có một thân thể,
một Chúa, một đức tin và một phép rửa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông
đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, tôi là tù
nhân trong Chúa, tôi khuyên anh em hãy ăn ở xứng đáng với ơn kêu gọi anh em đã
lãnh nhận. Anh em hãy hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng nhau
trong đức ái; hãy lo bảo vệ sự hợp nhất tinh thần, lấy bình an hoà thuận làm
dây ràng buộc.
Chỉ có một thân thể và một
tinh thần, cũng như anh em đã được kêu gọi đến cùng một niềm hy vọng. Chỉ có
một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi
người, Ðấng vượt trên hết mọi người, hoạt động nơi mọi người, và ở trong mọi
người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! - Chúa
phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết
nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 6, 1-15
"Người phân phát cho
các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang
bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì
họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và
ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới.
Chúa Giêsu ngước mắt lên và
thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua
đâu được bánh cho những người này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì
chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh
cũng không đủ để mỗi người được một chút". Một trong các môn đệ, tên là
Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có
năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho
từng ấy người". Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống".
Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn.
Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy
bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân
phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các
môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại
được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà
còn dư.
Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã
làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Ðấng tiên tri phải đến trong
thế gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm
vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Ðược chứng kiến phép lạ hóa
bánh ra nhiều, người Do thái cho rằng Ðức Giêsu là vị ngôn sứ của thời cuối
cùng. Vị ngôn sứ được sai đến để giải phóng dân tộc và phục hồi sức mạnh nước Israel .
Họ muốn tôn Ðức Giêsu làm vua với mục đích để Ngài bảo đảm đời sống cho họ bằng
những phép lạ tương tự. Nhưng Ðức Giêsu lánh đi, Ngài muốn cho thấy Ngài được
Thiên Chúa sai đến thế gian không phải để làm chính trị nhưng để cứu vớt
con người, dẫn đưa họ về Thiên Chúa. Phép lạ cho thấy Ðức Giêsu thương con
người. Ngài cứu chữa phần hồn, dưỡng nuôi phần xác.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hóa
bánh để nuôi dân Do thái. Ngày nay, Chúa cũng ban chính Thịt Máu Chúa để nuôi
dưỡng linh hồn chúng con. Xin cho chúng con ý thức được đó là một ân huệ lớn
lao mà Chúa dành cho chúng ta. Xin giúp mỗi người trong gia đình chúng con,
giáo xứ chúng con biết siêng năng nước Chúa để được lãnh nhận sức sống của
Chúa. Ðó mới là hạnh phúc đích thực mà Chúa đem lại cho chúng con. Chúng con
không đòi phép lạ nào khác mới tôn phục Chúa, vì hằng ngày chúng con vẫn được
chiêm ngắm một phép lạ cao cả là Bí tích Thánh Thể. Chúa vẫn hiện diện và nuôi
sống chúng con. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Quyền Năng Của Thiên Chúa
(Sách Các Vua II 4,42-44; Thư Êphêsô 4,1-6; Tin Mừng Yoan
6,1-15)
Suy Niệm:
Chúa Nhật XVII Thường Niên
Năm B
Sách Các Vua II 4,42-44;
Thư Êphêsô 4,1-6; Tin Mừng Yoan 6,1-15
Chúng ta có thể nghĩ cả ba
bài đọc hôm nay muốn chúng ta suy nghĩ về Thánh Thể là bánh hằng sống có sức
nuôi cả nhân loại để họ được hợp nhất nên một. Nhưng không tất nhiên phải hiểu
như vậy. Chúng ta cứ thử đọc lại từng bài. Sẽ có nhiều tư tưởng và chân lý
phong phú không ngờ, làm giàu đời sống hằng ngày của chúng ta.
1. Bài Học Về Quyền Năng
Của Thiên Chúa
Dĩ nhiên phụng vụ chọn đoạn
sách Các Vua hôm nay để dẫn vào bài Tin Mừng. Nhưng chính đoạn sách này cũng có
giá trị của nó. Và giáo lý ở đây cũng không kém phần sâu sắc.
Ðây là một câu chuyện lớn và
là một phép lạ. 20 ổ bánh mà dọn được cho 100 người ăn no mà còn dư nữa. Thế mà
tác giả hầu như không có một hứng thú nào khi kể lại một việc như thế. Người ta
muốn ông phải thuật truyện sống động hơn và phải thêm nhiều chi tiết nữa. Phải
nói người của Thiên Chúa tên là gì? Ðang ở đâu? Vì sao lúc ấy lại đang có 100
người ở tại chỗ đó? Và kẻ mang bánh từ nơi xa đến tên họ thế nào? Già hay trẻ?
v.v... Dường như đây không phải là một bài thuật truyện. Tác giả viết vắn tắt
và thiếu hứng khởi� đang khi lẽ ra phép lạ này phải làm ông kinh ngạc và gây
chấn động, như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Người ta đã cố gắng bổ khuyết
những thiếu sót trên đây bằng cách nại đến văn mạch... Quả vậy, nếu đọc nối với
đoạn trên, người ta có thể xây dựng lại câu chuyện như sau:
Bấy giờ Êlisê đã trở lại
Gilgal gần Yêrikô trong xứ đang có nạn đói. Con cái tiên tri (tức là môn đồ của
nhà tiên tri) đang ngồi trước mặt ông để nghe thuyết giáo. Chợt một người đến.
Anh ta từ Shalishah, tức khoảng 70 cây số lại đây. Anh đến dâng bánh đầu mùa cho
Thiên Chúa như luật dạy (Lêvi 23,20). Êlisê dùng quyền tiên tri, tương đương
với quyền tư tế, truyền lấy bánh đó cho môn đồ ăn. Họ thì đông mà lại đang đói,
thì 20 cái bánh kia sẽ thấm vào đâu? Êlisê bảo cứ dọn ra, vì lời Chúa phán:
chúng sẽ ăn mà còn dư nữa. Và đã xảy ra như vậy thật.
Nhưng dù có xây dựng lại câu
truyện như thế chúng ta vẫn chưa giải thích được thắc mắc trên đây: tại sao một
phép lạ lớn như vậy đã không khiến được ngòi bút của tác giả linh hoạt và hào
hứng hơn? Cuối cùng, đọc thêm nhiều đoạn khác trong quyển sách Các Vua này,
người ta mới thấy rằng: khi kể lại nhiều phép lạ trong cuộc đời của Êlisê, tác
giả không muốn kể truyện, nhưng chỉ ưu tư dạy đạo... Ông coi thường các nét tả
và chú ý tới giáo thuyết. Ở đây cũng như trong nhiều câu truyện về Êlisê, ông
muốn làm nổi bật nhà tiên tri này lên để tỏ ra vị này không kém gì Êlia là nhà
tiên tri lừng danh đã chọn Êlisê để kế nghiệp. Tác giả phải đề cao các môn đệ
chứng tỏ thần trí của Êlia vẫn còn tiếp tục và phong trào tiên tri trong dân Chúa
thật đáng kính phục. Bài của tác giả không muốn cho chúng ta chú trọng tới phép
lạ nhưng tới các nhà tiên tri, tới quyền năng của ông, tức là tới sức mạnh của
Lời Chúa trong con người được gọi làm tiên tri. Rõ ràng chính Êlisê không làm
phép lạ. Ông tuyên bố: Lời Chúa phán thế này: chúng sẽ ăn mà còn dư nữa. Và đã
xảy ra như vậy, thì người ta phải kết luận: Lời Chúa, tức là chính Chúa đã làm
phép lạ, củng cố uy tín cho nhà tiên tri.
Như vậy câu truyện trên đây
có thể được coi như là một "hạnh thánh". Tác giả không muốn làm văn
khi thuật truyện. Ông quan tâm làm nổi bật tính cách thiêng thánh. Những nét tả
trở thành không quan trọng. Chính sự can thiệp của Thiên Chúa vào đời sống con
người là điều phải ngưỡng mộ. Ở đây, chúng ta phải bỏ hết mọi chi tiết để nhớ
rằng: Thiên Chúa đã cho một người ở xa đến, mang một ít bánh nuôi sống một số
đông người đang đói để tăng uy tín cho người của Thiên Chúa và cho phong trào
tiên tri ở trong dân Người.
Những ý tưởng tốt đẹp của bài
sách Các Vua có thể dẫn chúng ta vào bài Tin Mừng hôm nay.
2. Quyền Năng Của Chúa Ðã
Tỏ Hiện
Như trên đã nói, chúng ta có
thể hiểu bài Tin Mừng này về Thánh Thể. Nhưng chúng ta hãy xem câu kết:
"Thấy phép lạ Ngài vừa làm, người ta nói: hẳn Ngài là vị tiên tri. Ðấng sẽ
đến trong thế gian". Như vậy hiệu quả trước mắt và cũng là ý nghĩa đầu
tiên của phép lạ bánh hóa ra nhiều này là mạc khải cho người ta thấy quyền năng
của Ðức Yêsu, và do đó nguồn gốc cao siêu của Người. Chúng ta không chối và
chúng ta sẽ làm chứng, tác giả bài Tin Mừng hôm nay khi kể lại câu truyện phép
lạ đã muốn có nhiều gợi ý về Thánh Thể. Nhưng đó là ý tứ thứ hai, có sau và tựa
vào ý tứ thứ nhất là mạc khải thêm về con người Ðức Yêsu.
Thật vậy, nếu đọc cả bốn sách
Tin Mừng, chúng ta có thể ngạc nhiên vì việc hóa bánh ra nhiều để nuôi dân
chúng là phép lạ duy nhất được cả bốn sách cùng thuật lại. Những phép lạ khác
có thể được hai hoặc ba sách cùng nói, nhưng chẳng bao giờ được bốn sách cùng
kể. Ðiều này cho thấy phép lạ hóa bánh ra nhiều có giá trị đặc biệt và giữ vai
trò quan trọng trong lời giáo huấn và đời sống của Hội Thánh thời khai nguyên.
Nhưng một truyện được bốn tác
giả viết lại, không ít thì nhiều sẽ có những sắc thái và những chi tiết hơi
khác nhau tuỳ theo người viết. Chẳng hạn, không có tác giả nào như Yoan đã có
một bài suy tư dài theo sau bài tường thuật phép lạ. Và cũng chẳng giống ai,
ông để cho một mình Ðức Yêsu đóng vai chủ động và hầu như độc diễn trong câu
truyện này. Nơi ba tác giả kia, các tông đồ như được kêu mời hợp tác tích cực.
Nào là có sáng kiến đến xin Ðức Yêsu cho dân về để mua thức ăn (Mt 14,15); nào
là bảo dân ngồi xuống từng hàng 100 người (Mc 6,39-40); nào là cầm bánh đi phát
cho người ta (Lc 9,16). Theo Yoan, một mình Ðức Yêsu làm tất cả; vì ông muốn
mọi cái nhìn của chúng ta phải quy về một mình Người. Sách của ông chỉ muốn làm
nổi bật một mình Ðức Yêsu: mỗi nhân vật khác chỉ đóng vai phụ.
Ở đây ông cũng nói đến tên
tông đồ Philipphê và Anrê, em của Simôn Phêrô. Nhưng ông này quê quán ở
Bétsaiđa, tức là địa phương mà Ðức Yêsu đang ở khi xảy ra câu truyện này. Có lẽ
Người đã trao đổi với hai người địa phương để làm cho người ta thấy rõ hoàn
cảnh thật là vô vọng, vì Người đã biến trước việc Người sắp làm. Họ trình
Người: "200 đồng quan bánh cũng không đủ cho họ để mỗi người được một chút
đỉnh". Số tiền lớn lắm chứ. Nó ngang với 200 công nhật. Bòn vét đâu cho ra
nơi hoang vắng này? Và nếu có số tiền ấy, cũng mua được đâu ra bánh? Tại chỗ,
nơi có khoảng 5,000 người tụ họp mà cũng chỉ có một đứa bé có 5 chiếc bánh lúa
mạch và 2 con cá. Chúng ta có thể coi em nhỏ này là "đứa bé bán bánh
mì" trong vùng, vì chỉ có một mình em thôi. Và phải có Anrê quê quán ở đây
mới tinh mắt nhận ra.
Nhưng ngần ấy thì thấm vào
đâu! Ðó là thực trạng của hoàn cảnh lúc bấy giờ. Philipphê và Anrê đã đóng vai
phụ để làm nổi bật công việc Ðức Yêsu sắp làm.
Tác giả Yoan còn chú thích:
hôm ấy Ðức Yêsu vượt qua biển sang bên kia bờ; một đám đông dân chúng đi theo
Người; và bấy giờ lại sắp đến lễ Vượt quan của người Dothái. Có lẽ chẳng khi
nào tác giả viết một mạc khải nào lớn về Ðức Yêsu mà lại không đặt nó vào trong
bối cảnh một ngày đại lễ. Ðiều này làm chứng Người có tinh thần phụng vụ; và
chúng ta phải hiểu các ý tưởng của Người theo phụng vụ nữa. Ðàng khác các ngày
lễ phụng vụ lại gợi lên lịch sử dân Chúa và lịch sử cứu độ. Thế nên sách của
tác giả Yoan đòi được giải thích cả trong chiều hướng lịch sử thánh cũng gọi là
nhiệm cục cứu thế.
Vậy ở đây, Yoan viết hôm ấy
là khoảng trước lễ Vượt qua, và Ðức Yêsu vừa mới vượt biển và sang bên kia bờ,
có đám đông dân chúng theo sau... Tác giả không muốn gợi lại hình ảnh một Môsê
đưa dân vượt qua Biển Ðỏ sao? Và việc hóa bánh ra nhiều vào ngày trước lễ Vượt
qua không muốn gợi lên ý tưởng bí tích Thánh Thể đã được thiết lập trước khi
Ðức Yêsu vượt qua đời này để về cùng Chúa Cha là gì? Ý tứ phụng vụ và ám chỉ
lịch sử thánh tỏ ra rõ rệt.
Chúng ta chưa vội suy nghĩ về
bí tích Thánh Thể. Căn cứ vào câu kinh ngạc người ta thốt ra sau khi thấy phép
lạ: "Hẳn Ngài là vị tiên tri, Ðấng sẽ đến trong thế gian", chúng ta
hãy theo gợi ý của tác giả Yoan và so sánh Ðức Yêsu với Môsê.
Bấy giờ chúng ta sẽ phải nhớ
lại sách Xuất hành đoạn 16 hay sách Dân số đoạn 11 kể chuyện dân Dothái sau khi
vượt qua Biển Ðỏ để đi vào sa mạc. Họ nhớ bánh nhớ thịt của đất Aicập. Họ trách
móc Môsê đã dẫn họ đến đây để họ chết đói, chết khát. Môsê chỉ còn biết đập đầu
ăn vạ với Chúa. Ngài mà không cứu, chắc mạng ông sẽ chẳng còn. Chúa bảo ông cứ
tuyên bố sẽ có thịt có bánh. Môsê phản ứng như các tông đồ hôm nay: ở nơi cô
tịch này lấy đâu ra bánh ra thịt? Ðàng khác đểnuôi đám dân đông đảo này, phải
mấy bầy súc vật lớn nhỏ? Nhưng rồi Chúa đã ban Manna và chim cút... khiến dân
khiếp sợ quyền năng của Chúa và kính nể uy tín của Môsê. Từ đó hình ảnh một
Môsê ban bánh thịt cho dân trong cơn quẫn bách, trở thành một tiêu chuẩn đển dân
mơ ước về Ðấng tiên tri sẽ đến lãnh đạo dân ở thời thiên sai. Và câu truyện kể
về Êlisê trong sách Các Vua muốn nói lên điều ấy. Dân trông chờ một vị tiên tri
như Môsê sẽ đến dẫn đưa họ vượt qua cảnh đời đau khổ và tội lỗi để đi vào thời
đại hạnh phục và sung túc.
Hôm nay vị tiên tri ấy đã đến
nơi con người Ðức Yêsu. Người ngước mắt lên thấy dân, một dân đang cần được
hướng dẫn. Người làm lại cử chỉ Môsê đã làm xưa, nhưng làm một cách siêu việt
hẳn. Người nuôi dân một cách dễ dàng vì với năm chiếc bánh và hai con cá, Người
nuôi cả khoảng 5,000 người. Mà lại còn dư, thu lại được 12 giỏ. Dân thấy ngay
Người là Môsê mới, nên họ kêu lên: hẳn thật Ngài là vị tiên tri, Ðấng sẽ đến
trong thế gian. Họ muốn rước Người như một Môsê đến làm vua ở đời này. Thế nên
Người vội bỏ họ, và rút lui lên núi một mình.
Nếu thế thì rõ rệt, bài Tin
Mừng hôm nay không có ý nói nhiều về Thánh Thể, nhưng chủ ý mạc khải Ðức Yêsu
là Môsê mới, đến lãnh đạo dân; nhưng dân chưa hiểu Người... Người vượt xa Êlisê
vì câu truyện bánh hóa ra nhiều của ông này thật là nhạt nhẽo sánh với phép lạ
Ðức Yêsu vừa làm. Người là vị tiên tri đích thực của Thiên Chúa đến cứu độ trần
gian.
Nói như vậy, chúng ta vẫn
không muốn phủ nhận bài Tin Mừng hôm nay có một ý nghĩa đưa về Thánh Thể. Ðặc
biệt những câu: Ðức Yêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, phát ra cho người ta... và bảo
phải thu lại các vụn dư kẻo hư đi... đều là những câu văn phụng vụ Thánh Thể.
Tác giả Yoan viết như vậy để đề cao bí tích Thánh Thể ở thời đại ông và để giới
thiệu bài suy tư tiếp nối đoạn Tin Mừng này, mà chúng ta sẽ suy nghĩ vào các
Chúa nhật sau.
Cố ĐGM.Bat.Nguyễn Sơn Lâm. |
Hôm nay chúng ta hãy bằng
lòng với lý tưởng: Ðức Yêsu là vị tiên tri mà Cựu Ước hằng hứa hẹn và Êlisê là
hình ảnh rất nhạt nhẽo; Người là Môsê mới đến lãnh đạo dân ở bình diện khác hẳn
với Môsê ngày trước. Người không hóa bánh ra nhiều để nuôi dân khỏi đói như
Êlisê và Môsê, nhưng để bày tỏ uy quyền của Người một cách khác thường để người
ta tin Người. Tất cả những điều ấy còn thiết thực đối với chúng ta, khiến giờ
đây chúng ta hãy dựa vào bài Thánh Thư để biết đáp trả như thế nào.
3. Chúng Ta Hãy Sống Trong
Hiệp Nhất
Thánh Phaolô khuyên chúng ta
hãy đi đứng sao cho xứng với ơn Chúa đã kêu gọi chúng ta. Lời kêu gọi này chứng
tỏ ơn gọi Kitô hữu có những đòi hỏi mà chúng ta phải có thiện chí và quyết tâm
thi hành. Chắc chắn những đòi hỏi đó không ít; nhưng tất cả chỉ để sống xứng
với ơn gọi. Chúng ta phải nắm vững ơn gọi này là gì để biết chấp nhận và thi
hành các đòi hỏi của nó.
Ðối với thánh Phaolô, ơn gọi
Kitô hữu biến chúng ta nên chi thể của một thân thể duy nhất mà chính Ðức Kitô
là đầu. Nó chính là ơn gọi của Israel
trở thành dân Chúa, là ơn gọi dân ngoại vào hưởng sản nghiệp các lời hứa, là ơn
gọi mọi người trở nên con cái Thiên Chúa. Nhưng tất cả những điều này chỉ xảy
ra nhờ Ðức Kitô và trong Ðức Kitô. Thế nên, nói rằng ơn gọi Kitô hữu muốn làm
cho chúng ta trở thành chi thể của một thân thể duy nhất mà Ðức Kitô là đầu,
nói như vậy là nói vắn tắt và gọn gàng hơn cả. Và đó là điều mà Ðức Yêsu muốn
làm trong bài Tin Mừng hôm nay và được bài sách Các Vua dẫn vào. Người muốn mạc
khải Người là vị Tiên tri Thiên Chúa sai đến, để làm một Môsê mới, kết nạp mọi
người nên một dân mới có sự sống mới và lý tưởng mới.
Nếu ơn gọi của chúng ta là
thế, thì muốn đáp lại chúng ta hãy sống hiệp nhất là điều rất phải. Một chi thể
không thể ở lẻ loi. Nó phải liên kết chặt chẽ vào thân mình. Và vì thế chúng ta
phải khiêm tốn, hiền từ đại lượng và chịu đựng để duy trì sự hiệp nhất. Ðó là
những đòi hỏi tất yếu không cần chứng minh. Tuy nhiên thánh Phaolô còn khai triển
thêm để chúng ta thấy ơn gọi của chúng ta cao quý như thế nào.
Người nói hiện tại chúng ta
đã được kêu gọi vào cùng một niềm hy vọng, tức là Nước Trời, sản nghiệp của bao
lời hứa mà việc tuôn đổ Thánh Thần xuống trong chúng ta là dấu hiệu và là bảo
chứng vững vàng. Chúng ta được như vậy nhờ cùng một niềm tin, một phép rửa của
một Ðức Yêsu Kitô để chúng ta hết thảy được một Thiên Chúa là Cha yêu mến của
tất cả mọi người.
Thánh Phaolô nhắc đến ba nhân
đức Tin, Cậy, Mến và Ba Ngôi Cha, Con và Thánh Thần. Không có quan niệm và từ
ngữ nào tốt đẹp hơn nữa để diễn tả ơn gọi và lý tưởng của chúng ta. Tất cả đòi
hỏi chúng ta một điều, là sống hiệp nhất.
Giờ đây chúng ta đang ở trong
bầu khí hiệp nhất này. Chúng ta tham dự thánh lễ để thấy Ðức Kitô đến như vị
tiên tri của Thiên Chúa và như một Môsê mới. Người ban thịt máu thánh kết hợp
chúng ta vào Người và khắng khít với nhau, để chúng ta được tràn đầy Thánh
Thần, hầu yêu mến một Cha chúng của mọi người thắm thiết hơn và sống cuộc đời
siêu nhiên, thánh thiện hơn, xứng đáng làm con Thiên Chúa. Chúng ta hãy giục
lòng tin yêu mạnh mẽ để cử hành bí tích hiệp nhất của thánh lễ này hầu sau đó
sẽ thể hiện tinh thần hiệp nhất sâu sắc hơn trong đời sống hằng ngày.
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA
MỖI NGÀY
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN
năm B
Bài đọc: II Kgs 4:42-44; Eph
4:1-6; Jn 6:1-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Phải tin tưởng quyền
năng Thiên Chúa và rộng lượng san sẻ cho mọi người.
Ca dao Việt Nam
có câu: "Ở đời muôn sự của chung. Hơn nhau một tiếng anh hùng mà
thôi." Tư tưởng này rất gần với quan niệm của người Công Giáo: Thiên Chúa,
Đấng dựng nên trời đất và ban cho mọi người cùng hưởng. Ngài muốn con người san
sẻ cho nhau để đừng có cảnh người quá giàu trong khi người khác không có của
ăn. Để làm được điều này, ca dao Việt Nam đòi con người phải có nhân đức
anh hùng; Thiên Chúa đòi con người phải tin tưởng hoàn toàn vào sự quan phòng
của Ngài. Con người không dám chia sẻ cho tha nhân những gì mình có, vì sợ sẽ
không đủ cho mình; nhưng nếu con nguời biết rộng lượng cho đi, Thiên Chúa sẽ
cho lại dư đầy. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: "Anh em đong đấu
nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em, và còn cho anh em hơn nữa.
Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ
bị lấy mất" (Mk 4:24-25).
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong hai tư tưởng này. Trong Bài
Đọc I, tiên tri Elisha truyền tiểu đồng phát quà tặng dân chúng mang đến cho
ông, mặc dù chẳng thấm vào đâu; nhưng Đức Chúa đã cho toàn dân ăn no. Trong Bài
Đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu bảo vệ sự hiệp nhất mà họ đã được kêu
gọi bằng cách ăn ở khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, và bác ái. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu làm phép lạ nuôi năm ngàn người đàn ông ăn và còn dư thừa 12 thúng, từ
năm chiếc bánh và hai con cá.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Chúa phán thế
này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư.
1.1/ Phải có lòng rộng lượng để chia sẻ cho tha nhân: "Có một người
từ Baal-Shalisha đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa: hai mươi
chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Elisha nói: "Phát cho người
ta ăn.""
Trình thuật hôm nay nằm trong phần cuối của chương 4 trong Sách
Các Vua II. Trong suốt chương 4, tác giả tường thuật sự kiện: Vì hành động tử
tế của người đàn bà thành Shunem, tiên-tri Elisha đáp lại bằng cách cho bà
có đứa con trai và cứu sống đứa bé khi nó chết vì nhức đầu (II Kgs 4:1-44).
1.2/ Phải tin tưởng nơi quyền năng Thiên Chúa: Nhưng tiểu đồng
hỏi ông: "Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn
được?" Ông bảo: "Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này:
Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư." Tiểu đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn
còn dư, như lời Đức Chúa phán. Chúng ta còn nhớ trình thuật: Vì hành động tử tế
của bà góa thành Zarephath mà tiên-tri Elijah đã làm phép lạ cho hũ bột và
chai dầu olive của bà không bao giờ vơi và còn cứu sống con trai của Bà (I Kgs
17:1-18).
2/ Bài đọc II: Hãy sống cho xứng với
ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em.
2.1/ Ơn gọi hiệp nhất của người Kitô hữu: Thánh Phaolô viết
lá thư này cho các tín hữu Ephesô, khi người đang bị tù tại Rôma. Ngài khuyên
các tín hữu như sau: "Vậy, tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ
anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em
hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận
hoà gắn bó với nhau."
Để hiệp nhất, con người cần biết những lý do tại sao họ phải
hiệp nhất. Thánh Phaolô đưa ra 7 lý do quan trọng:
(1) Chỉ có một thân thể: Tất cả các tín hữu là chi thể của một
thân thể là Hội Thánh với Đức Kitô là Đầu. Thân thể của Đức Kitô lành mạnh khi
tất cả chi thể lành mạnh. Chi thể nào tách rời khỏi thân thể sẽ không thể tồn
tại.
(2) Một Thánh Thần: Có nhiều quà tặng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh
Thần, Đấng ban mọi quà tặng cho việc xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô.
(3) Một niềm hy vọng: Tất cả các tín hữu đã được kêu gọi để
chia sẻ cùng một niềm hy vọng là cuộc sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa và
với nhau.
(4) Chỉ có một Chúa: là Đức Kitô.
(5) Một niềm tin: là tin vào Đức Kitô.
(6) Một phép rửa: bởi Nước và bởi Thánh Thần.
(7) Chỉ có một Thiên Chúa: Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi
người, qua mọi người, và trong mọi người.
2.2/ Những đức tính
cần thiết của người Kitô hữu: "Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà
chịu đựng lẫn nhau." Đây là những đức tính tối quan trọng không chỉ cho
người Kitô hữu, mà còn cho tất cả những ai muốn thành công và sống bình an với
mọi người.
+ Khiêm tốn (tapeinofrosu,nh): Con người khiêm tốn nhận ra chỗ đứng thực sự
của mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Những người kiêu
ngạo không nhận ra điều này, họ tự cho mình đã biết quá nhiều, quá hay, quá đủ;
nên bỏ qua những gì Chúa dạy, và lấy mình như tiêu chuẩn để phán xét tha nhân.
Họ quên đi một sự thật là sự khôn ngoan của họ chỉ là một giọt nước trong biển
khôn ngoan của nhân loại, và chẳng là gì so với sự khôn quan của Thiên Chúa.
Người khiêm tốn sẽ được Thiên Chúa đoái thương nhìn tới và được mọi người quí
mến; trong khi kẻ kiêu căng sẽ bị Thiên Chúa và tha nhân khai trừ.
+ Hiền từ (prau<thj): Con người hiền từ luôn biết cách cư xử nhã nhặn
với tất cả mọi người; họ không để cho tính nóng giận làm chủ con người họ.
Ngược lại, người dữ dằn để cho tính nóng giận làm chủ con người, họ nói những
lời cộc cằn thô lỗ, và sẵn sàng dùng bạo lực để giải quyết mọi vấn đề.
+ Nhẫn nại (makroqumi,a): Con người nhẫn nại luôn biết kiên trì và tìm mọi
cách để vượt qua những khó khăn và gian khổ trong cuộc đời. Họ không dễ nản
lòng, ta thán, và bỏ cuộc.
+ Bác ái (avga,ph): Thánh Phaolô nêu bật tầm quan trọng của nhân đức
này: "Trên hết mọi sự, anh em hãy có nhân đức yêu thương, vì đó là sợi
giây ràng buộc mọi điều toàn thiện." Chúng ta đã nói nhiều lần về nhân đức
này, nó chỉ tìm thấy trong khuôn khổ của Kitô Giáo, vì nhân đức này đến từ
Thiên Chúa qua Đức Kitô. Chỉ khi nào một người có nhân đức này, họ mới có thể
thi hành những điều khó khăn Đức Kitô dạy: phải cầu nguyện, tha thứ, và làm ơn
cho kẻ thù; họ mới có thể sẵn sàng hy sinh chết để làm chứng cho Thiên Chúa và
bảo vệ tha nhân.
3/ Phúc Âm: Người nói thế là để
thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi.
3.1/ Con người phải
tin nơi quyền năng của Thiên Chúa: "Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển
Hồ Galilee , cũng gọi là Biển Hồ Tiberia. Có
đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ
Người đã làm cho những kẻ đau ốm. Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ.
Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái. Ngước mắt
lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philíp:
"Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?""
(1) Uy quyền của Thiên Chúa trong biến cố Vượt Qua: Sự kiện Gioan đề
cập đến Lễ Vượt Qua không phải là chuyện tình cờ, nhưng mang ý nghĩa thần học.
Ngài có ý nhắc cho dân Do-thái nhớ lại uy quyền lớn lao của Thiên Chúa đã mang
dân vượt Biển Đỏ an toàn; trong khi quân đội của vua Pharao bị nhận chìm giữa
lòng đại dương. Nếu một Thiên Chúa có quyền năng đưa dân Do-thái vượt qua Biển
Đỏ, Ngài cũng có thể làm cho dân có bánh ăn no nê trong sa mạc, điều bị coi là
không thể đối với con người.
(2) Uy quyền của Chúa Giêsu khi nuôi năm ngàn người ăn: Đức Giêsu nói:
"Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi." Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta
ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy
bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng
phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Người bảo
các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi." Họ liền đi
thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất
đầy được mười hai thúng.
(3) Hình bóng của Bí-tích Thánh Thể: Chúa Giêsu dư biết sự cứng lòng của
con người, nên Ngài chuẩn bị cho họ bằng phép lạ "Bánh hóa nhiều."
Nếu Chúa Giêsu có thể làm phép lạ "Bánh hóa nhiều" để nuôi năm ngàn
người đàn ông ăn no nê, Ngài cũng có thể hiến thân mình để trở nên của ăn nuôi
dân hàng ngày. Hơn nữa trong Tin Mừng Gioan, chúng ta không thấy tường thuật sự
kiện Chúa Giêsu lập BT Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly, chúng ta chỉ có công thức
truyền phép "Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho
những người ngồi đó," và diễn từ về Thánh Thể trong phần kế tiếp của
chương 6.
3.2/ Thiên Chúa đòi hỏi sự cộng tác của con người.
(1) Con người chỉ quan tâm đến mình: Hai lý do làm con người sợ không
dám chia sẻ:
+ Sợ tốn tiền: Ông Philíp đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm quan
tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút." Các môn đệ không muốn bỏ
tiền của mình để mua bánh cho người khác, nhất là với một số dân đông đảo như
thế. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, các môn đệ khuyên Chúa Giêsu giải tán dân để họ
vào các thành mà mua lương thực. Ngược lại, Chúa Giêsu truyền: "Chính anh
em hãy cho họ ăn."
+ Sợ không đủ cho mình: Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh
ông Simon Phêrô, thưa với Người: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa
mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!" Phản ứng
của con người là lo đầu cơ tích trữ, nhất là trong những lúc khan hiếm lương
thực và mạng sống bị đe dọa.
(2) Thiên Chúa muốn
sự cộng tác của con người: Thiên Chúa làm được mọi sự, nhưng Ngài muốn con người biểu lộ
niềm tin giống như em bé sẵn sàng đưa cho Chúa 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con
cá để chia sẻ với mọi người. Trong Kinh Tiền Tụng, chúng ta cũng dâng bánh và
rượu là hoa mầu ruộng đất và lao công của
con người lên Thiên Chúa, để xin Ngài làm
cho trở thành Bánh
Trường Sinh và của uống thiêng liêng cho chúng ta.
Khi linh mục dâng bánh và rượu lên cho Thiên Chúa, người linh
mục cũng dâng những đau khổ của chính mình và của dân chúng, cộng với lễ hy
sinh đau khổ của Đức Kitô. Tất cả những điều này có sức mạnh để Thiên Chúa chấp
nhận và sinh ích cho con người.
(3) Thiên Chúa không muốn con người chỉ quan tâm đến nhu cầu vật
chất:
Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ,
Đấng phải đến thế gian!" Con người chỉ quan tâm đến những nhu cầu vật
chất. Họ muốn tôn Chúa Giêsu làm vua để Ngài cung cấp bánh ăn cho họ, như ma
quỉ đã từng cám dỗ Chúa trong sa mạc để biến đá thành bánh. Chúa Giêsu từ chối
việc dân tôn Ngài làm vua để có bánh ăn nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một
mình. Ngài muốn họ yêu mến Ngài và thực sự muốn mời Ngài làm vua trong lòng của
họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có dám rộng lượng cho đi để được Thiên Chúa cho lại
dư thừa không? Nếu không dám cho đi, ngay cả cái chúng ta đang có cũng sẽ dần
dần hao hụt dần.
- Thiên Chúa vì yêu thương đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để gia
tăng nghị lực cho tâm hồn chúng ta. Sau khi đã lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể,
chúng ta cũng phải trở nên tấm bánh để nuôi sống anh em về phần hồn cũng như về
phần xác.
Lm.An-tôn
Đinh Minh Tiên, OP.
Chúa Nhật 17 thường niên, năm B
Suy niệm:Ðược chứng kiến phép lạ
hóa bánh ra nhiều, người Do thái cho rằng Ðức Giêsu là vị ngôn sứ của thời cuối
cùng. Vị ngôn sứ được sai đến để giải phóng dân tộc và phục hồi sức mạnh nước Israel .
Họ muốn tôn Ðức Giêsu làm vua với mục đích để Ngài bảo đảm đời sống cho họ bằng
những phép lạ tương tự. Nhưng Ðức Giêsu lánh đi, Ngài muốn cho thấy Ngài được
Thiên Chúa sai đến thế gian không phải để làm chính trị nhưng để cứu vớt
con người, dẫn đưa họ về Thiên Chúa. Phép lạ cho thấy Ðức Giêsu thương con
người. Ngài cứu chữa phần hồn, dưỡng nuôi phần xác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hóa bánh để nuôi dân Do thái. Ngày
nay, Chúa cũng ban chính Thịt Máu Chúa để nuôi dưỡng linh hồn chúng con. Xin
cho chúng con ý thức được đó là một ân huệ lớn lao mà Chúa dành cho chúng ta.
Xin giúp mỗi người trong gia đình chúng con, giáo xứ chúng con biết siêng năng
nước Chúa để được lãnh nhận sức sống của Chúa. Ðó mới là hạnh phúc đích thực mà
Chúa đem lại cho chúng con. Chúng con không đòi phép lạ nào khác mới tôn phục
Chúa, vì hằng ngày chúng con vẫn được chiêm ngắm một phép lạ cao cả là Bí tích
Thánh Thể. Chúa vẫn hiện diện và nuôi sống chúng con. Amen.
Ghi nhớ : "Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai
muốn bao nhiêu tuỳ thích".
29/07/12
CHÚA NHẬT TUẦN 17 TN – B
Ga 6,1-15
Ga 6,1-15
CỘNG
TÁC VỚI THIÊN CHÚA
“Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá.” (Ga 6,9)
Suy niệm: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” Câu hỏi thử của Chúa Giêsu khơi lên ba thái độ. Philípphê trả lời cách vô vọng: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”, chưa kể là nơi đây cách xa làng mạc thành thị. Mọi sáng kiến đều tê liệt vì ông ngồi chờ từ trên trời rơi xuống đủ mọi điều kiện, lúc đó ông mới hành động. Thái độ của Anrê có loé lên một chút giải pháp: năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé, nhưng như thế cũng chỉ là vớt vát, “có thấm vào đâu?” Thái độ của em bé trai nọ mới đích thực là thái độ người môn đệ Chúa phải có: Số bánh và cá ít oi thật đấy, nhưng đó là tất cả của em; em trao hết cho Chúa và Ngài đã làm tất cả những gì còn lại. Dĩ nhiên, Chúa là Đấng toàn năng đã tạo dựng mọi sự từ hư không. Ngài không cần có chúng ta để có thể làm nên phép lạ. Nhưng ở đây Ngài mời gọi chúng ta cộng tác bằng cách hiến dâng Ngài tất cả những chúng ta có, dù ít oi, dù nhỏ bé. Và như thế để chúng ta cũng được dự phần hạnh phúc với Ngài.
Mời Bạn: Khi dựng nên con người, Chúa không cần ai cả, nhưng để cứu chuộc con người, Chúa cần chúng ta cộng tác. Bạn hiểu lời này của thánh Augustinô như thế nào?
Chia sẻ: Bạn có gì để đóng góp phần mình vào công cuộc của Chúa và Giáo Hội. Cá và bánh của bạn là gì ?
Sống Lời Chúa: Tham gia cộng tác vào những việc chung trong cộng đoàn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho con lòng tin tưởng và quảng đại để con biết cộng tác với Ơn Thánh của Chúa, mưu cầu phúc lợi cả phần xác lẫn phần hồn cho anh chị em con.
CHÚNG TA MUA ÐÂU RA BÁNH
CHO HỌ ĂN
Suy niệm:
Có người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm,
chỉ biết có đời sau, chỉ lo cho linh
hồn.
Khi đọc Tin Mừng, ta thấy một điều
khác hẳn.
Ðức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời,
vừa chữa mọi thứ tật bệnh cho dân
chúng.
Ngài quan tâm đến thân xác con
người.
Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn
lẫn xác.
Ðức Giêsu đã từng nếm cái đói trong hoang địa,
cái khát bên bờ giếng, cái mệt khiến
Ngài ngủ vùi,
cái lạnh của những đêm không chỗ
trọ,
Ngài biết con người có thân xác và
là thân xác.
Khi thấy đám đông kiên trì theo
Ngài,
Ðức Giêsu biết lòng họ rất vui,
nhưng bụng họ thì đói.
Ngài muốn tặng họ một bữa ăn đơn sơ,
bất ngờ,
một bữa ăn tập thể ngoài trời,
trên thảm cỏ xanh tươi sau những
trận mưa xuân.
Bữa ăn khiến niềm vui được trọn vẹn.
“Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn
đây?”
Ðức Giêsu đưa các môn đệ đi vào nỗi
bận tâm của Ngài.
Ngài cần sự cộng tác của họ.
Nhưng câu hỏi trên lại là một bài
toán khó.
Nó giúp các môn đệ nhận ra sự bất
lực của mình.
Dù có một số tiền lớn cũng chẳng
thấm vào đâu.
Khi con người bất lực thì Thiên Chúa
bày tỏ quyền năng.
Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá
nhỏ,
từ tay một cậu bé con đến tay Ðức
Giêsu,
đã trở nên lương thực nuôi năm ngàn
người.
Thế giới tiến bộ hôm nay vẫn là một thế giới
đói.
Ðừng vội nói đến cái đói tinh thần.
Cái đói trên thân xác vẫn làm con
người quay quắt.
Ðói cơm ăn áo mặc, đói nhà ở, đói
thuốc men,
đói chút nước sạch, rau sạch để
dùng,
đói an toàn và bảo hộ khi lao động,
đói một bầu khí trong lành và yên
tĩnh để nghỉ ngơi...
Có bao Kitô hữu đã xót xa trước cảnh
đói,
và đã bắt tay vào cuộc với niềm tin,
dù họ chỉ có năm cái bánh và hai con
cá.
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời
sống con người
đều là việc thánh thiêng, việc của
Chúa.
Khi thân xác con người được sống
xứng hợp,
tâm hồn con người dễ vươn lên các
giá trị tinh thần.
Thiên Chúa đã ban một trái đất đủ nuôi sống mọi
người.
Ðừng trách Thiên Chúa đã tạo ra
nghèo khổ.
Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay
nơi lòng mình.
Xã hội còn nhiều người nghèo đói
vì tôi không dám chia sẻ cả điều
mình dư thừa,
vì tôi bị hút vào cơn lốc của thời
trang và mua sắm,
vì tôi xa lạ với những Giêsu quanh
tôi
đang đói khát, không nhà, trần trụi
và đau yếu.
Ước gì tôi biết yêu mến con người
như Ðức Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 7
29 THÁNG BẢY
Vấn Đề Đau Khổ
Đối với nhiều người, thực
tại sự dữ và đau khổ là trở ngại chính khiến họ khó chấp nhận sự thật về sự
quan phòng của Thiên Chúa trên đời sống của họ. Trong một số trường hợp, trở
ngại này được thấy là rất lớn lao. Người ta chua cay nguyền rủa Thiên Chúa vì
những sự dữ và những đau khổ tung hoành trên thế giới, đến độ họ từ chối sự
thật về Thiên Chúa và phủ nhận chính sự hiện hữu của Ngài. Đây là quan điểm của
tư tưởng vô thần.
Một cách ít triệt để hơn,
nhưng không kém nhũng nhiễu, đó là trường hợp nhiều người chất vấn Thiên Chúa
và những ý định của Ngài. Khi người ta cố gắng dung hòa giữa chân lý về sự quan
phòng thần linh với thực tại sự dữ và đau khổ mà họ cảm nghiệm, thì bao nhiêu
ngờ vực, cật vấn, hay những mâu thuẫn lồ lộ bật lên.
Để thấu hiểu vấn đề này,
chúng ta cần trở lại với Thánh Kinh. Cái nhìn về thực tại sự dữ và đau khổ được
trình bày đầy đủ trong những trang Thánh Kinh. Thánh Kinh tiên vàn là một quyển
sách vĩ đại nói về đau khổ. Vì đau khổ là một trong những thực tại mà Thiên
Chúa dạy cho con người nhận hiểu “bằng nhiều cách … qua các tiên tri; và trong
những ngày sau hết … qua chính Con của Ngài” (Dt 1,1). Ý nghĩa của đau khổ bật
ra trong mạc khải của Thiên Chúa về chính Ngài cũng như bật ra trong chính Tin
Mừng cứu độ. Đó là lý do vì sao con đường duy nhất thích hợp để tìm câu trả lời
cho vấn nạn về sự dữ và đau khổ trên trần gian này không nằm ở đâu khác ngoài
Thánh Kinh.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN;
2V 4,42-44; Ep 4, 1-6; Ga 6, 1-15
LỜI SUY NIỆM: Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-Thái.
Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi
ông philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6, 4-5)
Những con người đứng ngoài tôn giáo, họ có một cái nhìn hoàn toàn sai lầm khi
cho tôn giáo chỉ chuyên tâm lo lắng những gì thuộc tâm linh mà quên đi phần thể
xác.
Hãy nhìn vào Giáo Huấn và những việc làm mà Chúa Giêsu đang thực hiện trong
trần gian và chính lúc này. Biết bao nhiêu con người đang mang những tật nguyền
bịnh hoạn Ngài đã và đang chữa lành, biết bao nhiêu người đang đói khát Ngài
ban cho no đủ dư thừa; qua trí tuệ của những nhà khoa học đã khám phá ra những
phương tiện cần thiết để phục vụ con người, đem lại hạnh phúc cơm no áo ấm và
bình an cho con người. Nhưng con người trong trần gian này khi sống với nhau,
không biết tôn trọng và yêu thương nhau, chỉ biết tranh dành, muốn thâu tóm tất
cả vào túi riêng mình; đã không nghe theo Giáo Huấn của Chúa Giêsu mà còn chống
lại Ngài. Chính tôn giáo và chỉ có tôn giáo mới giúp cho con người sống đúng phẩm
giá của mình và đem lại hạnh phúc cho con người thật sự trong an bình.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
29 Tháng Bảy
Cố ĐGH. Gioan-Phaolo I. |
Một Tiếng Cám Ơn
Trong một bài huấn đức ngắn ngủi trước khi đọc kinh truyền tin,
Ðức Gioan Phaolô I, vị Giáo Hoàng của mỉm cười, đã kể một câu chuyện như sau:
Trong một gia đình nọ, một người đàn bà phải lo phục dịch cho
một người chồng, một người anh và hai người con trai lớn. Bà phải làm tất cả
mọi sự trong nhà: từ đi chợ, nấu ăn, giặt giũ đến quét dọn trong nhà. Một ngày
Chúa Nhật nọ, sau một buổi sáng đi dạo ngoài trời trở về, những người đàn ông
bỗng nhận thấy có một điều lạ trong nhà, bàn ăn đã được chuẩn bị cho bữa trưa,
nhưng thay vì thức ăn, họ chỉ thấy toàn cỏ khô. Mọi người đều nhao nhao phản
đối người đàn bà... Chờ cho mọi người im tiếng, người đàn bà mới bình tĩnh giải
thích:
"Tất cả thức ăn đều có sẵn rồi, nhưng cho phép tôi được nói
một điều. Tôi phải chuẩn bị thức ăn hằng ngày cho các người, tôi phải dọn dẹp
trong nhà, tôi phải giặt giũ quần áo cho các người, tôi phải làm mọi sự trong
nhà này, nhưng chưa bao giờ các người mở miệng khen lấy một tiếng, hay nói một
lời cám ơn... Các người chỉ chực có một thiếu sót của tôi để la ó, phản đối mà
thôi".
Vô
ơn là thái độ thường xuyên của mỗi người trong chúng ta. Chúng ta dễ thấy những
thiếu sót của người khác đối với chúng ta, nhưng chúng ta lại thiếu nhạy cảm
đối với những gì người khác đang làm cho chúng ta. Một chút tế nhị, một chút
cảm thông, một lời nói an ủi vỗ về, một tiếng cám ơn, đó là men làm dậy niềm
vui trong cuộc sống của chúng ta.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 29
CHÚA NHẬT XVII MÙA THƯỞNG NIÊN
Thánh Matta
Bánh, tấm bánh lúa mạch đơn sơ, có từ
cổ xưa, xưa như con người, từ khi con người biết vãi gieo và gặt hái; bánh, quà
tặng của Thiên Chúa, lương thực đầu tiên nuôi sống chúng ta; và chính Đức Giêsu
đã chọn lấy bánh ấy để mặc khải cho ta một đời sống khác, đế nói về chính mình
Ngài đang tự hiến thân. Bánh, cũng như rượu nho, dầu ăn, hoa huệ ngoài đồng,
người con hoang đàng... tất cả đều phát xuất từ trái đất này và đều là những
dấu chỉ Đức Giêsu đã dùng để mở lòng ta hướng vể thượng giới.
Năm chiếc
bánh lúa mạch cho cả đám đông này đang tụ tập trên bãi cỏ mùa xuân dịp lễ vượt
qua... Tin Mừng tường thuật phép lạ như là việc tái diễn phép lạ manna trong sa
mạc, khi dân chúng ngóng đợi mọi thứ từ trời ban xuống. Người Do Thái đã hiểu
rằng đây là lương thực nuôi sống linh hồn hơn là thức ăn cứu đói thân xác. Đức
Giêsu nâng dấu chỉ của bánh lên cao, làm cho nó thâm sâu vời vợi. Chẳng bao lâu
nữa, Ngài sẽ tự giới thiệu mình như tấm bánh duy nhất từ trời xuống, tấm bánh
trường sinh đích thực. Đám đông, bên bờ hồ này, nơi diễn ra biết bao biến cố
nền tảng, cần phải hiểu rằng Chúa đang chuẩn bị bữa tiệc Thánh Thể. Bánh được
trao ban cho mọi người và sẽ còn dư lại Bánh Lời Chúa được dành cho mọi người,
và sẽ chẳng hư đi.
Lucien Guissard
29-7
Thánh Mácta
Ð
|
ức Giêsu yêu quý Mácta, Maria và Lagiarô." Câu nói độc đáo này trong Phúc Âm
của Thánh Gioan cho chúng ta biết về sự tương giao đặc biệt giữa Ðức Giêsu và
Mácta, người em Maria, và người anh Lagiarô của thánh nữ.
Hiển nhiên, Ðức Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mácta ở
Bêtania, một ngôi làng nhỏ bé cách Giêrusalem chừng hai dặm. Chúng ta thấy ba
lần đến thăm của Ðức Giêsu được nhắc đến trong Phúc Âm Luca 10:38-42, Gioan
11:1-53, và Gioan 12:1-9.
Nhiều người dễ nhận ra Mácta qua câu chuyện của Thánh Luca. Khi
ấy, Mácta chào đón Ðức Giêsu và các môn đệ vào nhà của mình, và ngay sau đó
Mácta chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách là điều rất quan trọng trong vùng Trung
Ðông và Mácta là điển hình. Thử tưởng tượng xem ngài bực mình biết chừng nào
khi cô em Maria không chịu lo giúp chị tiếp khách mà cứ ngồi nghe Ðức Giêsu.
Thay vì nói với cô em, Mácta xin Ðức Giêsu can thiệp. Câu trả lời ôn tồn của
Ðức Giêsu giúp chúng ta biết Người rất quý mến Mácta. Ðức Giêsu thấy Mácta lo
lắng nhiều quá khiến cô không còn thực sự biết đến Người. Ðức Giêsu nhắc cho
Mácta biết, chỉ có một điều thực sự quan trọng là lắng nghe Người. Và đó là
điều Maria đã làm. Nơi Mácta, chúng ta nhận ra chính chúng ta -- thường lo lắng
và bị sao nhãng bởi những gì của thế gian và quên dành thời giờ cho Ðức Giêsu.
Tuy nhiên, thật an ủi khi thấy rằng Ðức Giêsu cũng yêu quý Mácta như Maria.
Lần thăm viếng thứ hai cho thấy Mácta đã thấm nhuần bài học trước.
Khi ngài đang than khóc về cái chết của anh mình và nhà đang đầy khách đến chia
buồn thì ngài nghe biết Ðức Giêsu đang có mặt ở trong vùng. Ngay lập tức, ngài
bỏ những người khách ấy cũng như gạt đi mọi thương tiếc để chạy đến với Ðức
Giêsu.
Cuộc đối thoại của ngài với Ðức Giêsu chứng tỏ đức tin và sự can
đảm của ngài. Trong cuộc đối thoại, Mácta khẳng định rõ ràng là ngài tin vào
quyền năng của Ðức Giêsu, tin vào sự phục sinh, và nhất là tin Ðức Giêsu là Con
Thiên Chúa. Và sau đó Ðức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại từ cõi chết.
Hình ảnh sau cùng của Mácta trong Phúc Âm đã nói lên toàn thể con
người của ngài. Lúc ấy, Ðức Giêsu trở lại Bêtania để ăn uống với các bạn thân
của Người. Trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt. Lagiarô là người mà ai cũng
biết khi được sống lại. Còn Maria là người gây nên cuộc tranh luận trong bữa
tiệc khi cô dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Ðức Giêsu. Về phần Mácta,
chúng ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản: "Mácta lo hầu hạ."
Ngài không nổi bật, ngài không thi hành những việc có tính cách phô trương,
ngài không được hưởng phép lạ kỳ diệu. Ngài chỉ hầu hạ Ðức Giêsu.
Thánh Mácta được đặt làm quan thầy của các người hầu hạ và đầu
bếp.
Lời Bàn
Các nhà chú giải Kinh Thánh nói rằng trong đoạn văn diễn tả việc
Lagiarô sống lại, Thánh Gioan có ý nhắn nhủ chúng ta phải coi lời của Mácta nói
với Maria (trước khi Lagiarô sống lại) như tóm lược những gì một Kitô Hữu phải
vâng theo. "Thầy có mặt ở đây và đang hỏi đến em." Chúa Giêsu
kêu gọi mọi người chúng ta đến sự phục sinh -- mà sự phục sinh ấy hiện có trong
đức tin khi rửa tội, được chia sẻ vĩnh viễn sự chiến thắng của Người đối với sự
chết. Và tất cả chúng ta, cũng như ba người bạn của Chúa Giêsu, được mời gọi
kết tình bằng hữu với Chúa trong một phương cách độc đáo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét