Thứ Năm sau Chúa Nhật 19 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
II) Ed 12, 1-12
"Ngươi sẽ di cư giữa
ban ngày trước mặt chúng".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Có lời Chúa phán cùng tôi
rằng: "Hỡi con người, ngươi đang ở giữa dòng giống phản loạn, chúng có mắt
để thấy mà không thấy, có tai để nghe mà không nghe, vì đó là dòng giống phản
loạn. Phần ngươi, hỡi con người, hãy sửa soạn hành trang và hãy dời đi, giữa
ban ngày, trước mặt chúng. Ngươi sẽ đi từ nơi đang ở đến một nơi khác, trước
mặt chúng, để hoạ may chúng xem thấy, vì chúng là dòng giống phản loạn. Ngươi
sẽ phô trương hành lý của ngươi như hành lý của người di cư giữa ban ngày trước
mặt chúng, rồi ban chiều, ngươi sẽ ra đi trước mặt chúng như người di cư. Trước
mắt chúng, ngươi hãy khoét tường mà chui ra. Trước mắt chúng, ngươi sẽ mang
hành trang trên vai và đi ra trong bóng tối, Ngươi sẽ che mặt ngươi để đừng
thấy xứ sở, vì Ta đã làm cho ngươi thành biểu hiệu cho nhà Israel ".
Vậy tôi đã thi hành như Chúa
đã truyền cho tôi, tôi phô trương hành trang của tôi như hành trang của kẻ di
cư, giữa ban ngày, và ban chiều, tôi lấy tay khoét một cái lỗ trong tường, vai
mang hành trang, và ra đi trước mặt chúng trong đêm tối.
Và ban sáng có lời Chúa phán
cùng tôi rằng: "Hỡi con người, nào nhà Israel , dòng giống phản loạn, đã
chẳng hỏi ngươi rằng: 'Ông làm gì vậy?' Hãy bảo chúng: 'Chúa là Thiên Chúa phán
rằng: Sấm ngôn này chỉ về thủ lãnh ở Giêrusalem và cả nhà Israel ở đó'.
Hãy nói: 'Tôi là biểu hiệu cho các ngươi. Tôi đã làm thế nào thì việc sẽ xảy ra
như vậy'. Chúng sẽ phải di cư và đi làm tôi. Và ai là thủ lãnh các chúng, người
đó sẽ mang hành trang trên vai ra đi trong bóng tối, và chúng sẽ khoét tường mà
đem ông ra. Mặt ông bị che kín để mắt khỏi thấy xứ sở".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 77, 56-57.
58-59. 61-62
Ðáp: Các ngươi đừng quên lãng những kỳ công của Chúa (c. 7c).
Xướng: 1) Họ đã thử thách và
phản nghịch Thiên Chúa Tối Cao, và họ không tuân giữ các huấn lệnh của Người.
Họ lùi bước và bội tín cũng như tổ tiên họ, họ lầm lạc như cánh cung trật đường
giây. - Ðáp.
2) Họ chọc giận Người vì
những nơi "thờ tự" trên cao, họ khiêu khích lòng ghen Người vì bao
thần tượng. Thiên Chúa nghe biết và bừng cơn thịnh nộ, Người đã từ bỏ Israel một cách
đắng cay. - Ðáp.
3) Người trao nạp sức mạnh
mình cho thiên hạ bắt bớ, và vinh quang mình trong tay kẻ nghịch thù. Người bỏ
mặc dân tộc Người cho cảnh gươm đao, và Người đã xung giận phần gia nghiệp của
Người. - Ðáp.
*
* *
Alleluia: Tv 110, 8ab
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, mọi giới răn Chúa được lập ra cho tới muôn ngàn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 18, 21 - 19, 1
"Thầy không bảo con
phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng
Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ
cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy
không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
"Về vấn đề này, thì Nước
Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết người ta
dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên
chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ
liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất
một kỳ hạn, và tôi sẽ trả lại cho ngài tất cả". Người chủ động lòng
thương, trả tự do và tha nợ cho y.
"Khi ra về, tên đầy tớ
gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng:
"Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn
rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho
anh". Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ
xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ
tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: "Tên đầy tớ ác độc
kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi
không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y
cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
"Vậy, Cha Thầy trên trời
cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng
tha thứ cho anh em mình".
Khi Chúa Giêsu nói những lời
đó xong, thì Người bỏ xứ Galilêa mà đến Giuđêa, bên kia sông Giođan.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Những gì chúng ta tha thứ cho
nhau, thì không là gì cả so với sự tha thứ của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Thật thế, "Thiên Chúa là tình yêu", bản chất của Thiên Chúa chính là
tình yêu. Tình yêu của Ngài không bờ bến, nên Ngài cũng muốn tình yêu của chúng
ta trao cho nhau vô điều kiện, không giới hạn.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, lòng yêu
thương, tha thứ thật tuyệt vời, cao đẹp làm sao? Chúng con sẽ hạnh phúc biết
bao nếu chúng con biết mang trong mình khối tình rộng mở của Chúa. Xin Chúa là
Ðấng Tình Yêu biến đổi những hẹp hòi, ích kỷ của con người chúng con, để trở
thành hoa trái của tình yêu mến. Amen.
(Lời
Chúa trong giờ kinh gia đình)
Suy Niệm:
Tha Thứ
Một
đôi vợ chồng nọ đưa nhau ra tòa xin ly dị. Vị luật sư biện hộ cho quan tòa
biết: đôi vợ chồng này sống hoàn toàn yên lặng với nhau trong suốt 12 năm liên
tiếp. Họ cũng không muốn gặp nhau nữa, nếu cần cho nhau biết điều gì, thì họ
chỉ cần viết vào một mảnh giấy để sẵn trên bàn cho người kia đọc. Ðôi vợ chồng
này trước đây đã sống hạnh phúc với nhau trong vòng 18 năm, đã nuôi nấng con
cái khôn lớn, nhưng rồi không rõ vì lý do gì,
hai người đã không thèm nói chuyện với nhau, và giờ đây họ không nhớ đã giận nhau vì lý do gì.
Những hờn giận, phiền muộn
xẩy ra trong sinh hoạt hằng ngày, nếu không được nghiêm chỉnh giải quyết, vượt
qua, thì sẽ dễ dàng chồng chất làm thành những bức tường ngăn cách giữa cha mẹ
với nhau, hay giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình, hoặc giữa
bạn bè thân thích. Những tâm tình phiền muộn tiêu cực mỗi ngày một ít cũng đủ
ảnh hưởng đến cả cuộc sống, làm chúng ta không còn vui sống và bình an nữa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta phải tha thứ và tha thứ luôn luôn. Nhưng tại sao phải tha thứ? Vì tha
thứ là một điều cần thiết trong đời sống xã hội, trong gia đình, trong các đoàn
thể; vì tha thứ là đặc điểm của tình yêu: trong tình yêu Chúa, chúng ta tha thứ
cho nhau như Ngài đã tha thứ cho chúng ta. Tha thứ như thế không phải là yếu
nhược, mà là sức mạnh của tình yêu, là khí cụ của hòa bình. Cuộc đời là một
cuộc hành trình, nếu chúng ta cứ để mình mang nặng gánh ưu tư, phiền muộn thì
làm sao có đủ sức để đạt tới đích được. Do đó chúng ta hãy luôn sống tha thứ để
tâm hồn chúng ta được nhẹ nhàng thanh thoát trên đường đời với niềm hy vọng và
an vui.
Một nhà tâm lý người Mỹ đã
đưa ra nhận định như sau: Trên bình diện nhân bản, nếu suy nghĩ cho cùng, thì
tha thứ là giải pháp tốt nhất cho người tha thứ và kẻ được tha thứ: sự tha thứ
khai mở năng lực tinh thần con người và có tác dụng làm cho con người sống lành
mạnh vui tươi hơn. Trên bình diện thiêng liêng, sự tha thứ có giá trị tích cực,
chứng tỏ tình thương làm phát sinh nguồn an ủi trong tâm hồn; nếu chúng ta
không thật lòng tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng không tha thứ cho
chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta luôn
biết tha thứ cho những ai xúc phạm đến chúng ta, và như vậy chúng ta trở thành
khí cụ đem niềm vui đến cho mọi người.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ
Năm Tuần 19 TN2
Bài đọc: Eze 12:1-2; Mt 18:21-19
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tha thứ như đã được
tha thứ
Đọc lịch sử của Cựu
Ước, một người có thể thấy rõ tiến trình: tội lỗi -> sửa trị -> ăn năn
-> tha thứ, trong mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con cái Israel . Tội lỗi
là điều không tránh khỏi khi con người còn mang trong mình tính xác thịt. Khi
có tội, con người phải được sửa trị để nhận ra tội lỗi của mình trước khi có
thể ăn năn thống hối. Mục đích của việc sửa trị không phải là để hành hạ con
người, nhưng là để làm cho họ trở nên tốt đẹp hơn. Khi con người đã biết ăn
năn, Thiên Chúa sẽ tha thứ, Ngài sẽ quên mọi tội lỗi, phục hồi quyền làm con,
và nối lại tình nghĩa với họ. Nhưng nếu con người cứ ngoan cố trong tội lỗi của
mình và không chịu ăn năn quay về, tha thứ sẽ không thể xảy ra.
Các bài đọc hôm nay
xoay quanh tiến trình: tội lỗi -> sửa trị -> ăn năn -> tha thứ. Trong
bài đọc I, con cái Israel
đã phạm tội lỗi nghĩa với Đức Chúa. Ngài đã gởi ngôn sứ Ezekiel đến để tố cáo
tội lỗi của họ, và đe dọa chiến tranh và lưu đày sẽ xảy ra bằng việc đóng kịch;
nhưng họ vẫn không ăn năn sám hối. Đức Chúa gọi họ là giống nòi phản loạn, có
mắt không nhìn, có tai không nghe; vì thế họ sẽ bị tiêu diệt bởi chiến tranh và
đói khát. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải biết tha thứ cho tha
nhân bao lâu họ còn biết ăn năn quay về. Nếu người nào không chịu tha thứ cho
anh em khi họ đã ăn năn sám hối, Thiên Chúa cũng sẽ không tha thứ cho người
không biết thứ tha.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chỉ với hai
câu rất ngắn, Chúa cho tiên tri Ezekiel thấy sự cứng lòng của dân Do-thái,
không chịu ăn năn trở lại để được tha thứ.
Để hiểu rõ nghĩa hơn,
chúng ta cần đọc thêm những câu kế tiếp. Vì tuy họ có tai nhưng đã không chịu
nghe những lời dạy bảo của Thiên Chúa nói qua các tiên tri, nên Chúa truyền cho
tiên tri làm những hành động như đang diễn kịch đi lưu đày với hy vọng cho họ
nhìn thấy trước những gì sẽ xảy ra mà ăn năn trở lại. Ông mang hành lý đi lưu
đày ra giữa ban ngày cho dân xem thấy rồi xếp lại vào bao; chiều đến ông lấy
tay khóet vách đi ra, đầu trùm kín, vác hành lý lưu đày trên vai… Nếu dân tò mò
hỏi tại sao làm những điều kỳ dị như thế, ông sẽ cắt nghĩa cho họ biết những gì
cũng sẽ xảy ra tương tự như vậy cho họ nếu họ không biết ăn năn hối cải.
Dẫu đã nghe và đã
nhìn, nhưng dân vẫn ngoan cố không chịu ăn năn để được tha thứ nên Chúa đã nói
với tiên tri những lời như sau: “Hỡi con người, ngươi đang sống giữa một nòi
phản loạn, giữa những kẻ có mắt để nhìn mà không thấy, những kẻ có tai để nghe
mà không nghe, vì chúng là một nòi phản loạn.” Tuy thế, Đức Chúa vẫn mở đường
cho dân đang sống trong nơi lưu đày: Ai biết hối cải quay về, Ngài sẽ cho hồi
hương và tái thiết đất nước.
2/ Phúc Âm: Vấn nạn tha
thứ.
2.1/ Phải tha thứ bao
nhiêu lần?
Chúng ta phải biết ơn
sự mau miệng và tính thành thật của Phêrô, vì nhờ thánh nhân mà chúng ta có
được sự giảng giải rõ ràng của Chúa Giêsu về một vấn đề hết sức tế nhị và rất khó
thi hành. Phải tha thứ bao nhiêu lần? Tục ngữ Việt-nam có câu “quá tang ba
bận,” và phong tục của người Do-thái cũng thế “tối đa là 7 lần.” Phêrô lặp laại
truyền thống lần khi hỏi Chúa: “Có phải là 7 lần chăng?” Nhưng câu trả lời của
Chúa Giêsu đã làm cho Phêrô và chúng ta giật mình: "Thầy không bảo là đến
bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." Các nhà chú giải thường tranh
luận “bảy mươi lần bảy là bao nhiêu lần?” Có người cho là 70*7= 490 lần; người
khác cho là 707 hay 777, một con số rất to lớn. Điều quan trọng Chúa muốn nhấn
mạnh nơi đây là bất cứ lúc nào anh chị em nói lời xin lỗi là chúng ta phải tha.
Nhiều người đã lắc đầu và cho rằng: Nếu thánh trên bàn thờ còn phải nhảy xuống
để can thiệp thì làm sao con người có thể tha thứ mãi, nhất là với những người
cứ tái đi tái lại? Nhưng nếu chúng ta biết trở nên tốt là một tiến trình tập
luyện lâu dài thì việc phải kiên nhẫn tha thứ là chuyện tất nhiên phải làm.
2.2/ Tại sao phải tha
thứ?
Thay vì đưa ra câu trả
lời, Chúa kể một ví dụ rất rõ ràng và có thể giải quyết nhiều vấn nạn khác
chung quanh vấn đề tha thứ. Người nói: “Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện
một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. Khi nhà vua
vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. Y không
có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ.
Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: "Thưa Ngài, xin rộng lòng
hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết." Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh
lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ.”
Sự tương phản giữ hai
món nợ và cách xử cho ta thấy rõ sự ác độc của kẻ đã được tha thứ này. Số tiền
anh được tha là mười ngàn yến vàng (tálanton) tương xứng với khỏang 4.8 triệu
Mỹ-kim (một yến vàng giá 5000-6000 quan tiền) trong khi bạn anh chỉ nợ 100 quan
tiền (khỏang 10 Mỹ-kim). Nếu so sánh giữa hai món nợ, số tiền bạn anh nợ chưa
đáng số lẻ của món nợ anh được tha. Chúng ta hãy xem cách xử của anh với người
bạn nợ: Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: "Trả nợ cho tao!" Bấy giờ,
người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: "Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại
cho tôi, tôi sẽ lo trả anh." Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục
cho đến khi trả xong nợ.
Tại sao anh làm như
thế? Vì anh nghĩ rằng sẽ không ai biết cách cư xử của anh, nhất là vị vua đã
tha nợ cho anh. Nhưng tất cả những gì anh làm đã không giấu được các bạn của
anh vì những người này có thể cũng là bạn với con nợ của anh. Họ buồn lắm và
đến thuật lại cùng vị vua tất cả mọi điều xảy ra. Chúng ta thử tưởng tượng xem
phản ứng của nhà vua sẽ ra sao khi biết được tin này: Vua đòi đầy tớ đến mà
phán rằng: “Hỡi đầy tớ độc ác kia! Ta đã tha hết nợ cho ngươi vì ngươi cầu xin
Ta; tại sao ngươi không thương xót đồng bạn ngươi như Ta đã thương ngươi?” Chủ
nội giận, trao anh cho kẻ giữ ngục cho đến khi anh trả xong hết nợ.
Cũng vậy, trong mối
tương quan của chúng ta với Chúa: Nếu chúng ta không chịu tha thứ những khuyết
điểm nhỏ bé của anh em phạm đến chúng ta như kẻ bất lương hôm nay, làm sao
Thiên Chúa có thể tha thứ những tội lớn chúng ta đã xúc phạm đến Ngài? Vì thế,
tha thứ không còn là chuyện có thể làm hay không làm, nhưng là một bổn phận
phải làm kèm theo hình phạt nếu không làm như Chúa đã báo hôm nay: “Nếu mỗi
người trong các ngươi không hết lòng tha lỗi cho anh em mình, thì Cha Ta ở trên
trời cũng sẽ xử với các ngươi như vậy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Một trong những lý
do chính đưa đến ly dị và đổ vỡ trong gia đình hiện nay là rất nhiều người đã
không thể tha thứ cho nhau. Tha thứ giúp chúng ta hàn gắn đổ vỡ và giúp gia đình
được sống bình an.
- Để có thể tha thứ,
chúng ta cần thường xuyên nhìn lại quá khứ và xét mình để nhận biết yếu đuối và
tội lỗi của mình. Nếu mình không hoàn toàn, tại sao bắt người khác phải hoàn
toàn? Vì thế, thường xuyên lãnh nhận bí-tích Hòa Giải trong gia đình là điều
tối cần để giữ hạnh phúc của gia đình.
- Nếu không năng xét
mình, con người dễ rơi vào chỗ kiêu ngạo, tự cho mình là công chính. Một khi họ
cảm thấy bản thân tốt lành, họ sẽ dễ dàng xét tội và buộc tội tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
****************
16/08/12
THỨ NĂM TUẦN 19 TN
Th. Têphanô Hungari
Mt 18,21-19,1
Th. Têphanô Hungari
Mt 18,21-19,1
THA
THỨ VÌ ĐƯỢC THA THỨ
“Thầy không bảo là tha đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt 18,22)
Suy niệm: “Kẻ yếu không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của kẻ mạnh” (M. Gandhi). Kẻ không tha thứ cho người khác là tù nhân của sự thù ghét, bị dày vò, hành hạ do lòng thù hận. Họ quên mất là chính mình đã được Thiên Chúa bao lần tha thứ vô điều kiện. Chân dung méo mó của họ được phác họa qua hình ảnh người đầy tớ không biết thương xót. Số nợ 10.000 nén vàng là một con số khổng lồ – ta thử so sánh với 900 nén vàng là lợi tức hằng năm của vua Hêrôđê Cả! – đem so với 100 quan tiền mà người bạn chỉ mắc nợ anh là tỉ lệ một với một triệu! Đang khi Thiên Chúa luôn tha thứ không mệt mỏi cho ta, thì sao ta lại hẹp hòi với người xúc phạm đến mình?
Mời Bạn: Lịch sử đời bạn là lịch sử của ơn tha thứ. Thiên Chúa, người Cha nhân lành, không ngừng tha thứ và quên đi mọi lầm lỗi của bạn xúc phạm đến Ngài. Tha thứ là lựa chọn duy nhất của bạn nếu bạn muốn làm môn đệ Đức Giêsu. “Kẻ không tha thứ cho người khác làm gãy cây cầu mà chính mình phải bước qua, bởi con người ai cũng cần tới sự tha thứ” (T. Fuller).
Sống Lời Chúa: Tối nay, trước khi đi ngủ, tôi sẽ xét xem đang thù ghét người nào, tôi sẽ dâng lời cầu nguyện cho họ và xin Chúa biến đổi lòng mình.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy rất rõ ràng và mạnh mẽ: Nước Trời
của Chúa sẽ đóng lại với những ai không biết tha thứ cho người khác. Xin giúp
chúng con ý thức rằng tha thứ là hai lần phúc lành: một lần phúc lành cho chúng
con vì biết tha thứ theo Lời Chúa dạy; một lần phúc lành cho người được tha
thứ. Amen.
BẢY
MƯƠI LẦN BẢY
Thế giới hôm nay cần một trái
tim tha thứ hơn bao giờ. Người Kitô hữu chúng ta giúp gì cho sự tha thứ trong
thế giới hôm nay?
uy niệm:
Có khoảng
cách rất lớn giữa mười ngàn yến vàng với một trăm quan tiền.
Mười ngàn
yến vàng bằng một trăm triệu quan tiền.
Vậy mà người
vừa được tha món tiền cực lớn ấy,
lại không
tha được cho bạn của mình một món tiền tương đối nhỏ.
Thái độ độc
ác này khiến tôi nhìn lại mình và tự hỏi tại sao.
Tại sao tôi
không tha cho anh em tôi những điều nhỏ mọn hàng ngày,
trong khi
Chúa vẫn tha cho tôi những món nợ rất lớn?
Dù một trăm
quan tiền là hơn ba tháng lương của người lao động,
nhưng nó
chẳng là gì so với món tiền lớn tôi mắc nợ Chủ tôi.
Tôi mắc nợ
Ngài sự hiện hữu của tôi trên đời và tất cả những gì tôi có.
Tôi mắc nợ
Ngài vì tình yêu bao la Ngài dành cho tôi.
Món nợ lớn
vô cùng, vì tôi là thụ tạo, còn Ngài là Tạo Hóa.
“Thưa Ngài,
xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết” (cc. 26. 29).
Cả hai người
đầy tớ đều sấp mình van xin như thế
khi cả hai
đều không thể nào trả ngay được món nợ.
Nhưng hai
câu trả lời nhận được lại khác nhau.
Chỉ vị vua
mới biết chạnh lòng thương xót và tha toàn bộ số nợ (c. 27).
Còn người
đầy tớ vừa được tha món nợ lớn, lại không có lòng thương xót này.
Anh ta thích
dùng sức mạnh và quyền lực để giải quyết.
Túm lấy, bóp
cổ, tống bạn mình vào ngục cho đến khi trả xong.
Lẽ ra anh ta
phải cư xử với bạn mình như ông chủ đã cư xử với anh.
Đó chính là
nội dung lời buộc tội của ông chủ giận dữ:
“Ngươi không
phải thương xót đồng bạn,
như
chính ta đã thương xót ngươi sao ?” (c. 33).
Lòng thương
xót anh nhận được đã không trở thành dòng suối mát
chảy đến với
người bạn đang cần chút xót thương.
Chính vì thế
sự tha thứ mà anh nhận được từ chủ
phút chốc bị
rút lại, bị xóa sạch.
Anh lại bị
trở về tình trạng trước đây,
bị quân lính
hành hạ, bị tù đầy cho đến khi trả hết (c. 34).
Sự tha thứ
và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta
chỉ ở lại
với điều kiện là nó được chuyển đi, chứ không giữ lại.
Giữ lại đồng
nghĩa với bị rút lại.
Món quà tôi
nhận được từ Cha phải trở thành món quà tôi trao cho anh em.
Trong cuộc
sống, chúng ta là con nợ của nhau, người này nợ người kia.
Trước những
xúc phạm của người anh em trong cộng đoàn,
Phêrô nghĩ
phải chăng nên tha đến bảy lần.
Đức Giêsu
mời ta tha đến bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha đến vô cùng.
Ngài mời ta
đi vào chỗ sâu nhất trong trái tim Thiên Chúa.
Sự tha thứ
bắt nguồn từ tấm lòng, từ trái
tim (c. 35).
Một trái tim
tàn nhẫn chỉ biết đến một sự công bằng cứng cỏi.
Thế giới hôm
nay cần một trái tim tha thứ hơn bao giờ.
Những nước
nghèo mong chờ được tha những món nợ lớn.
Có những mối
thù cần được tha giữa các sắc tộc, quốc gia, tôn giáo…
Người Kitô
hữu chúng ta giúp gì cho sự tha thứ trong thế giới hôm nay?
Cầu nguyện:
Giữa một
thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy
con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một
thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy
con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một
thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy
con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một
thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy
con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa
Ba Ngôi,
Ngài là
mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của
Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Thầy
không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".
Bản sắc của người Kitô hữu
Cuộc
xung đột đẫm máu giữa người Do Thái và Palestin tại Trung Ðông cũng như những
người công giáo và tin lành tại Bắc Ailen, hay giữa những chủng tộc khác nhau
tại nhiều nơi khác trên thế giới cho chúng ta thấy rằng oán thù luôn sinh ra
oán thù, bạo động luôn kéo theo bạo động, thế giới sẽ chẳng bao giờ có được hòa
bình đích thực khi con người chưa biết tha thứ cho nhau.
Tin
Mừng hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta đi vào cốt lõi của Tin Mừng là sự tha
thứ, đây là tuyệt đỉnh của giáo huấn của Chúa Giêsu. Ngài sẽ chỉ là một kẻ lừa
bịp và tòa giáo huấn của Ngài sẽ sụp đổ nếu trong giây phút cuối đời, từ trên
thập giá, Ngài đã không tha thứ cho những kẻ đang hành hạ mình. Lời cầu xin tha
thứ của Chúa Giêsu là bảo chứng của những lời Ngài rao giảng. Suy niệm về sự
tha thứ, trước hết chúng ta phải hướng về tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa
là Ðấng giàu lòng thương xót, chậm giận và hay tha thứ. Toàn bộ Kinh Thánh là
lịch sử của những cử chỉ tha thứ của Thiên Chúa và sự bắt đầu lại của con
người. Mỗi một lần con người vấp ngã là mỗi lần Thiên Chúa thực thi lòng thương
xót. Ngay từ trang đầu tiên của Kinh Thánh, chúng ta đã thấy được sự tha thứ
của Thiên Chúa. Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã không bỏ mặc
hay trừng phạt, mà trái lại còn hứa ban ơn cứu rỗi. Xuyên suốt Kinh Thánh Cựu
Ước, Thiên Chúa trải dài tình yêu nhẫn nhục tha thứ cho dân riêng của Ngài. Qua
Chúa Giêsu, lòng tha thứ của Chúa Cha đã bộc bạch một cách trọn vẹn. Những
trang cảm động nhất trong Tân Ước hẳn phải là những trang về lòng tha thứ của
Thiên Chúa được thể hiện qua lời nói, cử chỉ của Chúa Giêsu.
Còn
bức tranh nào đẹp và cảm động cho bằng phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại
tình bị bắt quả tang. Từ buổi sáng tinh mơ, trong khi đám đông do các luật sĩ
và biệt phái động viên đang hậm hực sẵn sàng ném đá người đàn bà khốn khổ, Chúa
Giêsu đã giữ thinh lặng, và cuối cùng, khi đám đông đã rút lui, Ngài chỉ ôn tồn
nói với chị: "Chị hãy về đi, Ta không kết án chị".
Còn
áng văn nào đẹp cho bằng dụ ngôn về người con hoang đàng được ghi lại trong Tin
Mừng theo thánh Luca. Còn lời nào dịu ngọt hơn lời tha thứ của Chúa Giêsu dành
cho người được mệnh danh là kẻ trộm lành chịu đóng đinh bên hữu Ngài, và dĩ
nhiên còn cử chỉ nào hào hùng và cao thượng hơn lời cầu xin tha thứ cho những
kẻ lý hình trước khi trút hơi thở cuối cùng.
Thiên
Chúa giàu lòng thương xót, chậm giận và hay tha thứ. Ðó là tuyệt đỉnh của mạc
khải Kitô giáo. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu tỏ bày cho chúng ta qua lời giảng dạy
và cách cư xử của Ngài là Thiên Chúa hay thương xót và tha thứ. Lòng thương xót
và tha thứ thiết yếu là của Thiên Chúa, con người không thể tự mình tha thứ.
Trên thập giá, Chúa Giêsu đã không tự mình tha thứ, Ngài cầu xin Chúa Cha tha
thứ. Thiên Chúa thực thi lòng tha thứ qua con cái Ngài. Tự mình tha thứ không
phải là điều tự nhiên đối với bản tính con người. Chính vì thế mà Chúa Giêsu
dạy chúng ta phải kêu cầu ơn tha thứ của Thiên Chúa. Chỉ khi nào chúng ta cảm
nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tha thứ cho người
khác: "Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng
con".
Cảm
nhận được ơn tha thứ của Chúa và sẵn sàng tha thứ cho người khác, đó là cuộc
chiến đấu của cả một đời người nhưng đó cũng là cuộc chiến làm nên bản sắc của
người tín hữu Kitô. Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là tín hữu Kitô khi họ biết
tha thứ mà thôi.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Sáng tối.
Bấy
giờ ông Phê-rô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc
phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu
đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.”(Mt. 18,
21-22)
Ý
nghĩa hai dụ ngôn này đã rõ ràng. Chúng ta không thể khước từ tha thư cho người
khác vì Thiên Chúa cũng tha thứ cho mỗi người chúng ta hơn thế nhiều. Chúng ta
cũng không thể không biết rằng thái độ của chúng ta đối vời anh em lân cận. Thì
không có lý gì chúng ta sẽ tránh khỏi Thiên Chúa không sử với chúng ta như vậy.
Chúng ta là nạn nhân của chính lối cư xử và hành động chúng ta.
Tối.
Thường
những dụ ngôn của thánh Mát-thêu cũng như câu chuyện nhỏ này mang nặng bi quan.
Nó phác họa những con người, những cách đối xử với nhau đáng buồn và kết thúc
bằng kết án đầy tớ độc ác kèm theo sự đe dọa của hình phạt đối với kẻ không biết
tha thứ. Chắc là bi quan rồi, nhưng như thế có sai lầm không? Chúng ta có cư xử
cách khác đối với anh em ta không? Người ta nói: “Người là chó sói đối với
người”
Ở đây
nói về các môn đệ Chúa Giêsu, nói về mỗi người chúng ta, chúng ta có cư xử với
nhau như thế không? có độc ác như thế không? có dã man không? dụ ngôn này Đức
Giêsu không chỉ nói với các môn đệ hình như đã sống không có tình yêu huynh đệ,
nó còn nói với chúng ta hiện nay nữa.
Sáng
Xuyên
qua câu truyện dụ gôn này có thấy sáng lên hình bóng của nhà vua. Lòng thương
xót của nhà vua biểu lộ qua những cách cư xử ban đầu làm cho dụ ngôn này một vẻ
tươi sáng, nhưng rồi lại tuôn đi. Lối cư xử của đầy tớ ban đầu có vẻ lành mạnh:
Nó lăn xả vào tay Chúa. Chúa không bắt buộc nó nữa. Người Cha của đầy tớ van
xin này là người cha của đứa con phung phá. “Một người phủ đầy tội lỗi luôn
được quan tâm ưu ái, đó là cái đích cho lòng thương xót nhắm bắn” Lê-on Bloy
nói thế.
Nơi
pháp trường người tội lỗi như món nợ vô phương đền trả, được trông thấy một
người tiến lại cứu giúp. Gảii thoát nó hoàn toàn! Lòng tha thứ đưa đến một chân
trơì mới, đến đời sống mới và gắn bó lòng thương xót tha thứ lẫn nhau.
J.M
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 8
16 THÁNG TÁM
Cám Dỗ Tự Mãn
Nhìn con người trong thế
giới hôm nay, ta thấy dường như hoàn toàn phi lý việc nghĩ rằng con người làm
chủ tuyệt đối trên trái đất này, hoặc nghĩ rằng vai trò làm chủ ấy sẽ được
triển khai với sự giúp đỡ của sự quan phòng thần linh. Thật là một ảo tưởng hão
huyền và nguy hiểm việc người ta tự xây dựng cuộc sống mình và biến thế giới
này thành một vương quốc chỉ phục vụ cho hạnh phúc của riêng mình và chỉ dựa
vào sức mạnh của riêng mình mà thôi. Đây là một cám dỗ lớn mà con người hiện
đại đang lún vào. Người ta quên rằng các qui luật tự nhiên đặt điều kiện ngay
cả trên nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp của chúng ta (MV 26-27).
Nhưng thật dễ ngã vào
cám dỗ tự mãn khi chúng ta từng bước chứng tỏ quyền làm chủ của mình trên các
sức mạnh của thiên nhiên. Chúng ta có thể tự mãn đến mức quên Thiên Chúa và
thậm chí thoán đoạt vai trò chính đáng của Ngài. Trong thời đại chúng ta, sự
táo tợn như thế xâm lăng vào trong lãnh vực khoa học, nơi mà có những lúc xảy ra
những hình thức khác nhau của sự lạm dụng về mặt sinh học, di truyền học và tâm
lý học. Hãy coi chừng. Nếu khoa học không qui phục qui luật luân lý của Nước
Thiên Chúa, nó có thể dẫn đến sự thống trị tàn nhẫn của con người trên con
người với những hậu quả vô cùng bi thảm.
Công Đồng nhìn nhận sự
cao cả của con người hiện đại, nhưng Công Đồng cũng nhận ra những giới hạn của
con người trong việc dàn xếp sự tự trị chính đáng của mọi vật thụ tạo (MV 36).
Các Nghị Phụ Công Đồng nhắc chúng ta nhớ đến chân lý về sự quan phòng của Thiên
Chúa, sự quan phòng nhằm giúp con người trong công cuộc xây dựng thế giới và
phục vụ lẫn nhau. Trong mối quan hệ này với Thiên Chúa Cha, Đấng Sáng Tạo và
Quan Phòng, con người có thể không ngừng khám phá lại căn nguồn ơn cứu độ của mình.
Chúng ta hãy đến với Cha và đừng mù quáng cậy dựa vào sức mạnh và sáng kiến của
riêng mình.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 16-8
THÁNH STÊPHANÔ HUNGGARI;
Ed 12, 1-12; Mt 18, 21-19,1.
LỜI
SUY NIỆM: Bấy giờ, ông
Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến
con, thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” (Mt 18,21).
Trong câu vừa hỏi và cũng tự trả lời của Thánh Phêrô, không phải là câu gợi ý
cho Chúa Giêsu nói về việc tha thứ; nhưng: Chúa Giêsu đã nói trong Bài Giảng
Trên Núi: “Phúc cho những kẻ hay thương xót vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7)
Cũng như khi Ngài dạy cho các môn đệ của Ngài cách cầu nguyện, và Ngài giải
thích: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em ở trên trời
cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì
Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15). Chính Chúa Giêsu,
Ngài đã thực hiện sự tha thứ này trên Thập Giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ
không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Muốn trở thành người môn đệ của Chúa Giêsu,
con người phải thực hiện điều này không giới hạn; bởi bản thân mỗi người đêu
phải biết mình là tội nhân trước mặt Ngài và luôn luôn bất toàn.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 16-08
Thánh STÊPHANÔ,
Người Hungary (977 -
1038)
Người Hung, gốc từ Á
Châu, đã tiến vào lập cư trên bờ sông Danuble. Họ sống bằng chiến tranh cướp
bóc, và dữ tợn như thú hoang. Vào đầu thiên niên kỷ này, Geysa, con cháu dòng
Attila cai trị họ.
Hầu tước Geysa cưới
Sarolta, một thiếu nữ công giáo và dưới ảnh hưởng của nàng, ông đã trở lại đạo
công giáo. Nữ hầu tước rất nhiệt thành với đạo. Tương truyền rằng thánh Têphanô
đã báo cho bà biết rằng người con bà trông đợi sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và
sẽ tiêu diệt ngẫu tượng trong xứ.
Vì lòng sùng kính thánh
tử đạo, bà thêm tên Têphanô vào sau tên Vaik của con trẻ. Mười năm sau, Geysa
xin thánh Ađalbert rửa tội cho con trẻ và mời các nhà truyền giáo đến. Têphanô
được trao cho các nhà thông thái và thánh thiện giáo dục. 15 tuổi Ngài đã chia
sẻ với cha trách nhiệm trị nước và 22 tuổi Ngài kế nghiệp cha sau khi ông qua
đời.
Lên cầm quyền chính,
thánh Têphanô tìm thỏa hiệp với các lân bang và hiến thân cải hóa toàn dân.
Nhưng các lãnh Chúa theo ngẫu tượng bất mãn vì việc phóng thích nô lệ đã coi
dân Hungari là dân phản loạn. Têphanô chuẩn bị chiến tranh bằng lời cầu nguyện
và sám hối cùng thi hành việc bố thí. Trên kỳ hiệu dẫn đầu binh đội, Ngài trưng
hình thánh giá Martinô và Grêriô. Thắng trận Ngài cho xây tại chỗ là Vesprem
một tu viện kính thánh Martinô.
Để chinh phục các thần
dân cứng cỏi Ngài chạy đến các tu sĩ Cluny .
Từ các tu viện, chính các tu sĩ mở mang văn hóa cho xứ sở do các trường học
cạnh tu viện. Thánh Têphanô còn đề ra một chương trình ngoạn mục, Ngài sai sứ
giả sang triều yết Đức giáo hoàng Sylvester III, xin nhận Hungari vào số các
quốc gia Kitô giáo và phong vương cho Ngài. Đức giáo hoàng gởi cho Ngài một
triều thiên và một thánh giá vàng, ban cho Ngài đặc ân dành cho các tông đồ.
Thánh Têphanô được công nhận là vua và tông đồ. Thánh Astrik đã phong vương cho
vua năm 1001.
Một thời gian sau Ngài
đã hoàn thành được 10 giáo phận với một tòa tổng giám mục tại Esztergem. Rất có
lòng tôn sùng Đức Mẹ, Ngài xây một thánh đường nguy nga kính Mẹ tại Székes-Féhéwaz.
Lòng bác ái của thánh
Têphanô còn vượt ra ngoài biên giới Hungari. Ngài thiết lập nhiều nhà thương và
tu viện ở Roma, Constantinople và Giêrusalem, cũng như các nhà cho khách hành
hương Hungary .
Trong lãnh thổ mình,
Ngài ra các sắc luật chống
lại tội ác và lộng ngôn. Rất nghiêm khắc với những người lỗi luật Chúa, Ngài
lại rất nhân hậu đối với những bất công Ngài lãnh chịu. Ngài ân cần săn sóc các
người nghèo khổ, để hiểu rõ thực trạng, Ngài hay tàng hình đi tìm kiếm họ. Một
lần bọn ăn xin xô tới hành hạ Ngài và cướp của. Tiếng đồn vang xa. Các lãnh
chúa cười nhạo Ngài, nhưng Ngài càng hiến thân cho người cùng khốn nhiều hơn
nữa. Người ta nói rằng: Ngài được ơn chữa bệnh và nói tiên tri. Đêm kia có
tiếng bên trong giục Ngài sai người tới tin cho dân vùng biên giới rút lui khỏi
làng mạc của họ để khỏi bị tấn công. Sự việc xảy tới, vì được báo trước kịp
thời, dân chúng được cứu thoát.
Conrad, tấn vương Germany muốn xâm chiếm Hungary với một
đội quân hùng hậu. Têphanô truyền cho binh lính ăn chay cầu nguyện. Binh đoàn
của Conrad bị lạc giữa rừng cây, đầm lầy sông lạch, không thể tiếp tế được mà
phải lui binh. Têphanô toàn thắng mà không phải chiến đấu. Thánh vương ao ước
thanh bình, đã phải chiến đấu nhiều để bảo vệ thần dân. Ngài chiến đấu ở Balan,
cùng Balkan. Dầu chiến thắng Ngài không ngừng cầu nguyện cho dân khỏi thảm hoạ
chiến tranh. Thắng được hoàng tử Transyvania, Ngài thả tự do cho ông và chỉ đòi
điều kiện là ông cho phép các nhà truyền giáo đến xứ ông. Sự Thánh thiện của
Têphanô đã khuất phục được tất cả thủ địch lẫn những người thán phục Ngài.
Các thử thách lớn lao
hoàn tất việc thánh hóa nhà vua. Ngài đã lập gia đình với nữ công tước Gisèle,
con gái vua Henry II, bá tước miền Bavière. Hoàng hậu Gisèle là người đạo đức
đã giúp vua Têphanô rất nhiều. Nhưng chẳng may con cái họ đều qua đời lúc tuổi
còn xanh. Còn một mình hoàng tử Emeric sẽ kế nghiệp cha nhưng lại tử nạn trong
một tai nạn lúc đi săn. Thánh Têphanô vượt cùng mọi đau đớn bằng cách nhiệt tâm
với bổn phận. Ngài đã chịu bệnh trong một thời gian dài, lại còn bị ghen tương
ám hại. Theo một tường thuật, các lãnh Chúa giận dữ và sự công thẳng của Ngài
đã tìm cách sát hại Ngài. Kẻ sát nhân lận dao trong áo lẻn vào phòng Ngài.
Nhưng khi vừa thấy Ngài hắn bỗng hối hận và tự thú ý định tội ác của mình. Vua
chỉ nói: hãy giải hòa với Chúa và đừng sợ bị tôi trả thù.
Ngày lễ Mông Triệu 15
tháng 8, thánh Têphanô qua đời và được mai táng trong đền thờ Đức Bà ở
Székes-Féhéwaz.
(daminhvn.net)
++++++++++++++++++
16 Tháng Tám
Anh Ấy Chưa Bao Giờ Trưởng
Thành
Ngày 16/8 kỷ niệm ngày
qua đời của Elvis Presley, ca sĩ được xem như là thần tượng của nhạc Rock tại
Hoa Kỳ trong thập niên 70.
Xuất thân từ một gia
đình nghèo, lại mang tính nhút nhát, Elvis thường trở thành trò cười cho bạn bè
trong lớp. Nhưng luôn ôm ấp trong mình giấc mơ trở thành ca sĩ, Elvis đã thắng
được tính nhút nhát của mình để trở thành một ngôi sao sáng chói trong nền âm
nhạc Mỹ quốc...
Danh vọng và tiền bạc
đến quá nhanh khiến Elvis không kịp chuẩn bị cho mình một triết lý sống vững chắc.
Anh mua cho người mẹ một ngôi biệt thự lộng lẫy xa hoa. Cá nhân anh thì lại
vung vãi tiền bạc trong không biết bao nhiêu thú vui phù phiếm. Cuộc hôn nhân
đầu tiên đã đổ vỡ, chỉ để lại cho anh cay đắng buồn phiền...
Sự ái mộ của dân chúng
dường như không đủ để lấp đầy khoảng trống vắng quá lớn trong tâm hồn anh. Ma
túy và các thứ thuốc an thần cũng không đủ hiệu lực để xoa dịu bao nỗi khắc
khoải trong anh...
Buổi sáng ngày
16/8/1977, sau một đêm thức trắng để đọc sách, Elvis đã được tìm thấy trong
phòng tắm của anh, mặt úp xuống sàn nhà, sau một cơn chống trả mãnh liệt với tử
thần... Anh đã tắt thở ngay sau khi được trở vào bệnh viện.
Priscilla, người vợ
đầu tiên của Elvis đã thốt lên như sau: "Cái chết của Elvis khiến tôi nghĩ
nhiều về chính cái chết của tôi... Tôi chợt nhận ra rằng tôi cần phải chia sẻ
với người khác nhiều hơn. Khi trở thành một ngôi sao trong nền âm nhạc, Elvis
còn quá trẻ để có thể biết cách sử dụng tiền tài, danh vọng đang đến với anh.
Anh chỉ là một nạn nhân. Anh bị hủy diệt bởi chính những người ái mộ anh. Anh
cũng là nạn nhân của chính hình ảnh mà anh đã tự tạo ra. Anh chưa bao giờ sống
như một người thực sự, anh chưa bao giờ trưởng thành, anh chưa bao giờ ra khỏi
cái vỏ ốc ấm áp của anh để cảm nghiệm được thế giới bên ngoài".
Bảo rằng tiền bạc,
danh vọng không làm cho con người hạnh phúc có lẽ cũng bằng thừa. Biết bao
nhiêu người đã đi tìm hạnh phúc trong của cải chóng qua ở đời này, rốt cục, họ
chỉ gặp thất vọng, chán nản ê chề... Thánh Augustinô đã được coi như là một
hiện thân của một cuộc tìm kiếm không ngừng. Tìm kiếm hạnh phúc trong hiểu
biết, tìm kiếm hạnh phúc trong khoái lạc v.v..., tất cả chỉ để lại trong tâm
hồn ngài nỗi trống vắng ê chề. Cuối cùng ngài đã tìm ra chân lý: "Lạy
Chúa, Chúa dựng nên con cho chính Chúa, tâm hồn con chỉ ngơi nghỉ khi được yên
nghỉ trong Chúa...".
Phải, chỉ có Chúa mới
có thể lấp đầy nỗi khao khát hạnh phúc trong lòng người... Người Kitô chúng ta
luôn được mời gọi để tìm kiếm Chúa trong những cái chóng qua ở đời này. Giá trị
cao cả nhất để chúng ta đeo đuổi không phải là tiền của, danh vọng, nhưng chính
là Chúa và những giá trị của Nước Trời.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 16
Thánh Stêphanô Hungari
Thánh Máccô, khác với Thánh Mátthêu và
Thánh Luca, không mô tả bữa ăn một cách chi tiết. Đối với Ngài, điều cốt yếu là
ý nghĩa mà Chúa Giêsu sắp mang lại cho Lễ Vượt Qua này, qua ba giai đoạn. Giai
đoạn thứ nhất, Đức Giêsu đặt mình vào vị trí của con chiên bị sát tế: "Đây
là mình Thầy" - Chủ thể của tương lai, chủ thể của ơn cứu độ, đó là chính
con người trong khả năng làm một "con người sống động": con người
phải đảm nhận lịch sử của chính mình, và qua lịch sử ấy, tình yêu.
Giai đoạn thứ hai: Đức Giêsu đề nghị
chúng ta ăn cùng một tấm bánh và uống cùng một chén rượu. Loài
người được mời gọi nhận biết mình là anh chị em của nhau và bình đẳng với nhau trước mặt Cha
trên trời. Không có chỗ cho sự độc đoán toàn quyền. Chỉ có sự nhận biết người
khác như là một ân huệ - một thái độ từ bỏ chính mình.- mới giúp ta đạt tới tầm
vóc "con người sống động". Con chiên vượt qua là gì, cái gì nuôi
dưỡng con người như là chủ thể lịch sử của nó? Đó chính là khả năng chia sẻ
cuộc sinh tồn với người khác, là đi vào trong hiện thực của ước ao, là yêu mến.
Giai đoạn thứ ba: Đức Giêsu bảo:
"Hãy cầm lấy". Ngài khích động những ai đang lắng nghe Ngài, và vì
thế cả tự do của họ nữa... Việc nắm bắt tự do cũng là
một hành vi yêu thương.
Daniel Duigou - thánh giá
Ngày 16
tháng 8
THÁNH TÊPHANÔ I HOÀNG ĐẾ TIÊN KHỞI VÀ
TÔNG ĐỒ NƯỚC HUNGARI
(977-1038)
Là con
một vị hầu tước, Gaysa ngay từ bé đã được gửi đi học tại thủ phủ của Guyla, hầu
tước xứ Sylvania .
Chính tại đây cậu được dạy cả về giáo lý công giáo, và cũng tại nơi đây, ý Chúa
Quan phòng đã khiến cậu xe duyên với một thiếu nữ rất đạo đức tên là Sarôtta,
ái nữ của hầu tước Sylvania. Là một thiếu nữ rất thông minh lại có lòng đạo sốt
sắng, Sarôtta dần dần đã cảm hóa được chồng theo đạo Công giáo. Gaysa chịu phép
Rửa tội đồng thời cũng lôi kéo được một số đông nhân vật văn võ khác. Dĩ nhiên,
trong một cuộc theo đạo như thế khó tránh được một ít trường hợp tòng giáo vì
lý do chính trị hay vì những lý do không được chính đáng khác. Bởi vậy, tuy đã
rửa tội, nhưng một số vẫn tiếp tục tôn thờ các ngẫu tượng.
Trở về
quê hương nối nghiệp cha, Gaysa đem hết tài năng để kiến tạo một xứ sở giầu
mạnh và với chí tông đồ, ngài cũng không quên việc truyền bá Phúc âm cho đám lê
dân. Khoảng năm 977 đến năm 979, công chúa Sarôtta sinh hạ cho hầu tước một
hoàng nam và đặt tên là Têphanô. Têphanô nguồn hạnh phúc cho hoàng tộc, đồng
thời là một trẻ thơ được Chúa chúc phúc và dành để cho một vai trò trọng đại
sau này. Có lẽ theo phong tục bấy giờ, Têphanô không được rửa tội ngay, mãi tới
năm 18 tuổi cậu mới được hạnh phúc ấy do chính tay thánh Giám mục Ađalbetô làm
phép rửa cho. Khi đến tuổi khôn, Têphanô được trao cho Theodat, một nhân vật
đạo đức và là bá tước nước Ý, lo việc giáo huấn. Nhờ bá tước, cậu được hưởng
một nền giáo dục hoàn bị, nhất là về phương diện đạo đức. Quả thế, ngay từ hồi
còn trẻ, cậu đã tỏ ra là một hoàng tử gương mẫu nhất thế hệ về trí thức cũng
như đạo đức. Nhờ đó mà dù tuổi chưa đầy hai mươi, cậu đã được thân phụ tuyên bố
trước sự hiện diện của các lãnh chúa, sau này sẽ chọn cậu lên nối ngôi.
Hầu
tước Gaysa băng hà năm 997, Têphanô lên ngôi kế nghiệp cha. Điều quan tâm trước
hết của ngài là lo ký hòa ước với các nước lân bang. Rồi đồng thời với việc làm
cho dân thịnh nước giầu, ngài nỗ lực hoạt động để đem chân lý Chúa Kitô vào tâm
hồn toàn thể con dân trong nước. Nhưng chẳng may, một số khác lớn dân Hungari
còn nặng đầu óc mê tín, đã nổi lên phản nghịch: họ cướp phá nhiều thành phố, và
cuối cùng tiến tới vây hãm thành phố Vezprem. Têphanô tin tưởng vào sức mạnh
Thiên Chúa, chuẩn bị chiến đấu bằng ăn chay, bố thí và cầu nguyện. Ngài xin các
thánh hộ phù, nhất là thánh Martinô, với lòng dũng cảm và cậy trông nơi sức
mạnh thiêng liêng, ngài xông ra chiến trường và toàn thắng đối phương, mặc dầu
binh sĩ của ngài không đông bằng của họ.
Sau khi
chiến thắng, hầu tước Têphanô lại tiếp tục chương trình hoạt động truyền giáo
đã bị gián đoạn vì biến cố phản loạn mới xảy ra. Để có đủ số thợ làm mùa, ngài
yêu cầu các linh mục và tu sĩ ngoại quốc đến giúp việc giảng dạy, thiết lập tu
viện, xây cất thánh đường và nâng cao văn minh cho dân tộc. Trong số những tông
đồ ấy, sau này có mấy vị được phúc lĩnh triều thiên tử đạo. Chỉ trong một thời
gian tương đối vắn vỏi, nước Hungari không còn một tàn tích ngẫu tượng ngoại
giáo nào. Hầu tước Têphanô đích thân phân chia các địa phận và chọn những nhân
vật thông minh, nhân đức đứng ra đảm nhiệm việc trông coi chăm sóc giáo dân.
Nhờ đó đạo Công giáo được phát triển mạnh, ngày càng vững vàng, càng sâu rộng
trong toàn thể lãnh thổ.
Hầu
tước Têphanô muốn được Toà Thánh chính thức công nhận quyền hành của mình, nên
phái Đức Giám mục Astric đi sứ sang Rôma xin Đức Giáo Hoàng Sylvestrê III công
nhận nước Hungari, vừa mới trở lại Công giáo toàn tòng, vào số những quốc gia
Công giáo. Đồng thời xin Đức Giáo Hoàng ban phép lành Toà Thánh, chấp thuận
việc lập các toà Giám mục, xác nhận các Giám mục đã được chọn và ban cho ngài
tước ấy, để nhờ đó, ngài được đủ uy quyền hầu thực hiện những chương trình hữu
ích.
Đức
Giám mục Astric lên đường tới bệ kiến Đức Giáo Hoàng. Sau khi nghe trình bày
tất cả mọi hoạt động hầu tước Têphanô đã thực hiện tại Hungari, Đức Thánh Cha
hết sức vui mừng và sẵn sàng ban cho hầu tước toàn quyền để thành lập một Giáo
hội Hungari hoàn hảo, và lựa chọn những nhân vật xứng đáng để điều khiển giáo
dân. Ngài lại phong vương và ban vương miện cho hầu tước với một thánh giá
vàng, là dấu chỉ sứ mạng tông đồ của ngài.
Sau khi
đã hoàn tất nhiệm vụ, Đức Giám mục Astric hân hoan hồi hương, toàn thể hàng
giáo phẩm và giáo dân đều hết sức vui mừng. Họ hô vạn tuế Đức Thánh Cha và tung
hô tân vương Têphanô. Nhà vua thụ phong và long trọng đội triều thiên cho phu
nhân là Gisêla, em ruột thánh Hêicô vua nước Đức.
Được
Đức Thánh Cha ban cho toàn quyền trong việc tổ chức Giáo hội Hung, vua Têphanô
liền ra sức hoạt động để tỏ ra xứng đáng với lòng tín nhiệm của vị Cha chung.
Chỉ một thời gian ngắn Giáo hội Hung đã hoàn thành được mười Toà Giám mục và
một Tổng Giám mục tại Esztergom. Địa phận nào cũng được nhà vua chu cấp đầy đủ,
từ nhà thờ chính toà cho tới các nhà thờ bé nhỏ trong nơi đồng quê hẻo lánh đều
được trang bị đầy đủ các đồ thờ phượng cũng như hoa lợi vật chất để nuôi sống
hàng giáo sĩ.
Lòng
nhiệt thành của nhà vua còn lan rộng ra ngoài biên giới quốc gia nữa. Ngài xây
tại Giêrusalem một tu viện, và cung cấp đầy đủ hoa lợi cho các tu sĩ sinh sống.
Tại Rôma, ngài cũng cất một cư xá cho mười hai kinh sĩ trọ học và nhiều trung
tâm khác, để tiếp đón các người Hungari tới hành hương kính viếng mộ hai thánh
Tông đồ Cả tại Thánh đô. Và sau này một thánh đường uy nghi tại đô thành
Contantinôpôli.
Ngoài
việc mở mang xây cất ở trong và ngoài nước ra, vua Têphanô còn lo đến việc giáo
huấn nhân dân. Hễ ở đâu có giáo sư tận tâm là ngài liền mời về để giúp việc. Tu
sĩ thuộc bất cứ quốc tịch nào nếu muốn sống đời thánh thiện cũng đều được ngài
niềm nở tiếp đón. Chính nhà vua đã đứng ra xây cất các tu viện và cung cấp cả
những hoa lợi vật chất cần thiết cho các nhà dòng.
Vua
Têphanô lại có lòng kính mến Mẹ Thiên Chúa một cách rất nồng nhiệt. Ngài dâng
hiến cho Đức Mẹ tất cả cuộc đời của cá nhân ngài cũng như của toàn thể con dân
trong nước. Nhờ ngài mà dân Hungari được thừa hưởng một tâm tình sùng mộ đối
với Đức Mẹ. Vì trọng kính Thánh danh Mẹ, dân Hung không bao giờ nói đến tên
Maria, mà chỉ nói bằng một tiếng Đức Mẹ, và mỗi lần nói đến, họ đều cúi hay bái
gối, cung kính. Để tỏ lòng sùng mộ Đức Mẹ một cách cụ thể hơn, nhà vua đã cho
xây cất một thánh đường nguy nga đồ sộ tại Székes Féhéwaz dâng kính Đức Trinh
Nữ.
Mặc dầu
đã cố gắng nâng cao mức sống tinh thần cũng như vật chất của toàn dân, nhà vua
vẫn thấy còn có nhiều kẻ xấu số phải sống trong cảnh nghèo túng. Tuy nhiên, đó
cũng là dịp để cho nhà vua thi hành đức bác ái. Nhiều khi, nhất là trước mỗi
việc quan trọng, nhà vua thường mở kho phát của cho kẻ nghèo trong toàn quốc.
Nhưng cũng có lần với tính cách tư, ngài đem tiền của bố thí cho kẻ nghèo. Một
lần kia nhà vua cởi hoàng bào, mặc thường dân để dễ bề tiếp xúc với dân nghèo.
Vừa thấy ngài, mấy tên ăn mày vốn tính man rợ liền ùa đến cướp giật. Chúng vật
ngài ngã, vừa đánh vừa cướp tiền bạc rồi mau chân tẩu thoát. Nhà vua không một
lời than trách, liền vào một nhà thờ gần đó, đến quỳ dưới chân Mẹ lành cám ơn
Mẹ đã cho ngài chịu đau khổ vì Chúa, đồng thời, xin tha cho những kẻ vừa mới
đánh đập và bóc lột ngài. Và nhân cơ hội này, nhà vua quyết định sẽ “báo thù”
tất cả những kẻ nghèo khó. Nhưng thứ báo thù đây là của các thánh, nghĩa là
ngài quyết sẽ không bao giờ từ chối không làm phúc cho kẻ túng thiếu một cách
thật rộng rãi.
Để nhà
vua thêm công phúc, đôi khi Chúa cũng gửi đến những thử thách cam go. Chính nhà
vua phải mang một thứ bệnh đau đớn suốt ba năm trời. Rồi ngài lại phải chứng
kiến mấy cái chết của mấy người con yêu dấu. Tuy nhiên, ngài vẫn còn chút hy
vọng vì Chúa đã thương để lại cho ngài một Hoàng tử tên là Êmêric, sinh năm
1007, tại Sjékes Féhéwaj. Nhà vua biết đó là hồng ân của Chúa, nên ra sức chăm
nom và trao việc dạy dỗ thái tử cho thánh Gêrađô, viện phụ tu viện thánh
Gioócgiô Vênitia và được phúc tử đạo.
Hoàng
tử Êmêric được giáo dục hết sức chu đáo, nên đã trở thành một thiếu niên hết
sức đạo đức, cậu hứa với Chúa sẽ giữ mình đồng trinh suốt đời, nhưng vì vua cha
không biết lời hứa ấy nên đã lập gia đình cho cậu. Vâng lời vua cha, Êmêric kết
hôn với công chúa nước Phổ.
Ý Chúa
xếp đặt, chính công chúa cũng đã hứa sống trinh khiết, vì thế hai vợ chồng này
đã trung thành được với lời khấn hứa ấy.
Hoàng
tử Êmêric sống một cuộc đời rất thánh thiện và cùng cha san sẻ gánh nặng trị
nước. Đến năm 1031, bị bệnh nặng, Hoàng tử tạ thế không có con thừa kế. Hoàng
tử được mai táng tại Sjékes Féhéwaj, và tại đây ngài đã làm nhiều phép lạ. Giáo
hội tôn kính ngài như một đấng thánh, và mừng lễ vào ngày mồng 4 tháng mười
một.
Sau 40
năm trị quốc, với bao nhiêu vất vả nhọc nhằn, vua Têphanô cảm thấy không sống
được bao lâu nữa, định truyền ngôi cho người cháu tên là Phêrô, con của chị
ngài. Ngài bị bệnh sốt hoành hành không thể ngồi dậy được nữa. Trong khi vua bị
liệt, có mấy người bề tôi muốn mưu sát ngài để tiếm vị. Một trong bọn chúng ban
đêm, cầm gươm lẻn vào phòng ngài, nhưng Chúa muốn bảo vệ người tôi trung, nên
khiến tên phản loạn đánh rơi gươm. Tiếng động đã khiến nhà vua tỉnh thức. Thấy
âm mưu bị lộ, tên phản loạn liền đến quỳ dưới chân vua xin ân xá. Nhà vua liền
tha ngay, trước cử chỉ hào hiệp ấy, tên phản loạn liền đổi lòng hung bạo ra
lòng trìu mến. Nhà vua cảm thấy giờ lâm chung đã gần đến, liền triệu tập tất cả
các Giám mục và công chức trong triều đến, căn dặn phải luôn luôn bảo tồn đức
tin Công giáo. Sau đó ngài chịu xức dầu và chịu lễ lần sau hết một cách sốt sắng,
rồi linh hồn ngài bay lên hưởng nhan thánh Chúa, hôm đó là ngày Lễ Đức Mẹ linh
hồn và xác lên trời năm 1038. Xác ngài được chôn cất bên mộ Hoàng tử Êmêric
trong nhà thờ Sjékes Féhéwaj, và tại đây, Chúa đã cho ngài làm rất nhiều phép
lạ để chứng tỏ sự thánh thiện của ngài.
Giáo
hội ghi tên ngài vào sổ các thánh và kính ngài ngày 20 tháng 8, là ngày cải
táng và đặt hài cốt ngài lên bàn thờ. Còn ngày 02 tháng 9, là ngày đã được chọn
để kỷ niệm cuộc thắng trận nhân danh ngài khi vua Léopolđô chiến thắng quân Phổ
và giải vây Buđapest .
Thứ Năm 16-8
Thánh Stêphanô ở Hung Gia Lợi
(975-1038)
G
|
iáo Hội thì phổ quát, nhưng dáng vẻ bên ngoài thì luôn luôn bị ảnh
hưởng bởi nền văn hóa địa phương--dù tốt hay xấu. Không có Kitô Hữu nào được
coi là "nguyên bản" cả; có người là Công Giáo Mễ Tây Cơ, hay Công
Giáo Ba Lan, hay Công Giáo Việt Nam .
Dữ kiện này được nhận thấy hiển nhiên trong cuộc đời Thánh Stêphanô, vị anh
hùng dân tộc và quan thầy của nước Hung Gia Lợi.
Sinh trong một gia đình ngoại giáo, ngài được rửa tội khi lên 10
cùng với cha của mình là thủ lãnh nhóm Magyar, là những người khai phá đã đến
Danube trong thế kỷ thứ chín. Khi 20 tuổi, ngài kết hôn với Gisela, người em
của hoàng đế tương lai là Thánh Henry. Khi kế vị cha mình, Stêphanô theo chính
sách của một quốc gia Kitô Giáo vì các lý do chính trị cũng như tôn giáo. Ngài
triệt hạ được các cuộc nổi loạn của giới quý tộc ngoại giáo và thống nhất người
Magyar thành một tổ chức lớn mạnh trong nước. Ngài đến Rôma để xin Giáo Hội phê
chuẩn và cũng để xin đức giáo hoàng phong ban tước vua cho mình. Vào lễ Giáng
Sinh 1001, ngài được đội vương miện.
Thánh tích của Thánh Tê-pha-nô Hungari - Bàn tay phải của ngài. |
Stêphanô đã thiết lập một hệ thống thuế thập phân để hỗ trợ các
nhà thờ và cha xứ, cũng như giúp đỡ người nghèo. Cứ 10 thành phố thì một thành
phố phải xây một nhà thờ và cấp dưỡng cho một linh mục. Ngài bãi bỏ các tục lệ
ngoại giáo với ít nhiều sự ép buộc, và ra lệnh tất cả mọi người phải kết hôn,
ngoại trừ giáo sĩ và tu sĩ. Ai ai cũng có thể đến với ngài, nhất là những người
nghèo.
Vào năm 1031, con trai trưởng của ngài là thái tử Emeric từ trần
và quãng thời gian kế đó đầy dẫy những tranh chấp quyền kế vị. Ngay cả người
cháu cũng mưu toan ám sát ngài. Stêphanô từ trần năm 1038 và được phong thánh
năm 1083.
Lời Bàn
Ðược trở nên thánh thiện là có được lòng yêu mến Thiên Chúa và tha
nhân giống như Ðức Kitô. Ðức ái nhiều khi phải mang bộ mặt lạnh lùng nghiêm
khắc vì lợi ích của sự thiện. Ðức Kitô đã lên án sự giả hình của người
Pharisêu, nhưng khi từ trần, Người đã tha thứ cho họ. Thánh Phaolô ra vạ tuyệt
thông người loạn luân ở Côrintô "để có thể cứu rỗi linh hồn" ông ta.
Một số Kitô Hữu đã chiến đấu trong các cuộc Thập Tự Chinh với một tinh thần cao
thượng, bất kể các động lực bất chính của người khác. Ngày nay, sau các cuộc
chiến tranh vô nghĩa, và với những hiểu biết sâu xa hơn về sự phức tạp của các
động lực con người, chúng ta chùn bước trước bất cứ bạo lực nào, về hành động
hay "im lặng" đồng lõa. Sự phát triển tốt đẹp này vẫn còn được tiếp
tục khi người ta tranh luận rằng có thể nào một Kitô Hữu trở nên người yêu hoà
bình tuyệt đối hay đôi khi sự dữ phải bị tiêu diệt bằng vũ lực.
Lời Trích
"Dù Giáo Hội đã góp phần rất nhiều trong việc phát triển
văn hóa, kinh nghiệm cho thấy, vì hoàn cảnh, đôi khi thật khó để hài hòa văn
hóa với giáo huấn của Giáo Hội.
"Những khó khăn này không nhất thiết gây thiệt hại cho đời
sống đức tin. Thật vậy, chúng có thể khích lệ tâm trí để thấu hiểu đức tin cách
chính xác hơn. Vì các cuộc nghiên cứu và khám phá mới đây của khoa học, lịch sử
và triết học đã nêu lên các vấn đề mới có ảnh hưởng đến đời sống và đòi hỏi
phải có các cuộc nghiên cứu mới về thần học" (Hiến Chế Tín lý về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay, 62).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét