02/03/2014
CHÚA NHẬT VIII MÙA
THƯỜNG NIÊN năm A
(Phần I)
BÀI
ĐỌC I: Is 49, 14-15
"Ta
sẽ không quên ngươi đâu".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Sion
nói: "Chúa bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi". Nào người mẹ có thể
quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người
mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu.
Đó
là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 61, 2-3. 6-7. 8-9ab.
Đáp:Duy
nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi được an vui (c. 2a).
1)Duy
nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi được an vui; do chính mình Người, tôi được ơn cứu
độ. Phải, chính Chúa là Đá Tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến lũy của
tôi, tôi sẽ không hề nao núng.
2)Duy
nơi Thiên Chúa linh hồn tôi hãy nghỉ an, vì do chính mình Người, tôi được ơn cứu
độ. Phải, chính Chúa là Đá Tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến lũy của
tôi, tôi sẽ không hề nao núng.
3)Vinh
dự và an toàn của tôi ở nơi Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa, tôi có Đá Tảng kiên cố
và chỗ dung thân. Hỡi dân tộc, hãy trông cậy Người luôn mọi lúc, hãy đổ dốc niềm
tâm sự trước nhan Người.
BÀI
ĐỌC II: 1 Cr 4, 1-5
"Chúa
sẽ phơi bày những ý định của tâm hồn".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh
em thân mến, như vậy người ta coi chúng tôi như những thừa tác viên của Đức
Kitô, và những người phân phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Do đó, người ta
đòi hỏi nơi những người phân phát các mầu nhiệm là mỗi người phải trung tín. Phần
tôi, tôi không lấy làm quan trọng khi bị anh em hay toà án nhân loại đoán xét;
nhưng tôi cũng không đoán xét chính mình tôi. Vì chưng, mặc dầu lương tâm không
trách cứ tôi điều gì, nhưng không phải vì thế mà tôi đã được công chính hoá. Đấng
đoán xét tôi chính là Chúa. Vì thế, anh em đừng đoán xét trước thời gian cho đến
khi Chúa đến, Người sẽ đưa ra ánh sáng những điều giấu kín trong bóng tối và
phơi bày những ý định của tâm hồn; và bấy giờ Thiên Chúa sẽ ban khen tương xứng
cho mỗi người.
Đó
là lời Chúa.
ALLELUIA:
Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
PHÚC
ÂM: Mt 6, 24-34
"Các
con chớ áy náy về ngày mai".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mátthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ:
vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và
khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được. Vì thế Thầy
bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân
xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không
hơn áo mặc sao?
Hãy
nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha
các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai
trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư?
Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng, coi
chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với
các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục
sức được bằng một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai
bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các
con, hỡi những kẻ kém lòng tin.
Vậy
các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy
gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết
rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa
và sự công chính của Người, còn các điều đó, Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy
các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày
nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
Đó
là lời Chúa.
SUY NIỆM : Người Biết Rõ Các Ngươi Cần Ðến Các
Ðiều Ấy
Ðời
sống chúng ta hiện nay còn nhiều khó khăn. Vấn đề lương thực là một và có lẽ phải
đứng hàng đầu. Chúng ta đầu tắt mặt tối mà vẫn chưa đủ cơm ăn áo mặc. Thế mà Lời
Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay lại bảo chúng ta đừng lo lắng! Chúng ta có thể
bình thản sống như Lời Chúa dạy không?
Thiết
tưởng trước hết phải hiểu đúng ý của Chúa đã! Và cho được như vậy, chúng ta phải
nhờ chính Phụng vụ hôm nay giúp đỡ. Không phải vô lý mà trước khi đọc cho chúng
ta nghe bài Tin Mừng, Phụng vụ đã công bố mấy lời của sách Isaia. Và chúng ta sẽ
thấy những lời thư Phaolô cũng giúp chúng ta thi hành Lời Chúa.
A.
Hơn Một Người Mẹ Thương Con
Chắc
chắn những lời sách Isaia hôm nay không phải của nhà tiên tri đã hoạt động
trong dân Israel trước khi dân này mất Nước và bị đem đi lưu đày. Sấm ngôn của
vị tiên tri này chỉ chiếm 39 chương đầu trong sách Isaia thôi. Những chương
40-55 là của một ngôn sứ khác, mai danh ẩn tích, thường được gọi là Isaia II.
Và người ta phải nói đến một Isaia III làm tác giả cho những chương cuối cùng của
sách Isaia hiện nay, gồm những chương 56-66.
Bài
trích đọc hôm nay nằm trong Isaia II. Tác giả bấy giờ đang sống trong cảnh lưu
đày với con cái Israel ở Babylon. Ông được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng cứu độ:
Người sắp tái tạo và tái sinh Dân Người, tức là phục hồi Israel và trùng tu lại
Yêrusalem.
Sứ
mạng không dễ đâu. Sion đã kiệt quệ rồi. Nó chỉ còn biết nói: "Yavê đã bỏ
tôi, Ðức Chúa đã quên tôi". Và bề ngoài rõ ràng như vậy. Con cái Israel đã
tha phương lâu quá rồi. Các tin tức từ Yêrusalem cho biết Ðất Nước đã trở thành
của ngoại bang; Ðền thờ chẳng còn gì nữa; và ở tại nơi lưu đày này, đa số đã
xây dựng cơ nghiệp như là vĩnh viễn. Có chăng chỉ còn một thiểu số đạo đức chẳng
bao giờ chịu quên Sion và chỉ muốn được trở về để làm lại Dân Chúa. Nhưng đó là
thành phần khó nghèo, hy vọng gì làm được công việc đáng kể. Người ta hiểu rằng
"quyền năng của Thiên Chúa hay viên thành nơi sức yếu đuối của con người",
tức là Thiên Chúa càng biểu lộ sự cứu độ của Người khi con người tỏ ra bất lực.
Ðó
chính là trường hợp lúc bấy giờ, khi Thiên Chúa sai Isaia đến với Dân. Thay mặt
Người, ông phải công bố cho họ biết Thiên Chúa sắp ra tay cứu Dân. Họ tưởng Người
bỏ họ và quên họ rồi sao? Chỉ có họ đã bỏ Người và đường lối của Người, nên họ
mới như ngày hôm nay. Họ đã quên Người và huấn giáo của Người nên mới nghi ngờ
lòng tốt và quyền năng của Người. Trước kia, Người đã thi thố bao nhiêu kỳ công
cho họ, đâu phải vì họ xứng đáng? Chính lúc họ thất vọng, chán nản như đã quên
Người thì Người đã đến phục hồi họ. Tất cả quá khứ của lịch sử Israel là như vậy.
Và bây giờ cũng sắp như thế. Bởi vì:
"Mẹ
nào lại quên con đẻ của mình...?".
Isaia
cho chúng ta một hình ảnh khác về Êzêkiel. Nhà tiên tri này nói đến Thiên Chúa
như là một người chồng trung thành. Không những chính Người đã làm ra thân thể
kiều diễm, lộng lẫy của Dân Người khi lôi kéo nó ra khỏi cảnh bỏ rơi nhớp nhúa,
đói ăn, xấu xí; Người đã đem về tắm rửa, dưỡng nuôi, may mặc và trang sức và dạy
cho yêu thương... nhưng rồi nó đã trở thành bạc phục, chạy theo trăng gió để
phá hoại thân thể và đời sống. Tuy nhiên Thiên Chúa luôn trung thành và mãi mãi
trung thành. Người sẽ tìm cách đưa bạn Người vào sa mạc để khuyên nhủ, để cải
hóa... Theo Êzêkiel, tình yêu của Thiên Chúa nói lên sự trung thành không thể
nào tưởng tượng được.
Isaia
cũng nói đến tình yêu ấy. Nhưng nơi ông nó tha thiết, sâu xa, vô vị lợi và êm
ái như lòng mẹ. Và hơn lòng mẹ, bởi vì cho dù "chúng quên được con mình,
thì phần Ta, Ta sẽ không bao giờ quên ngươi".
Thiết
tưởng không cần giải thích thêm. Ai có thể phủ nhận tình hiền mẫu? Ai không biết
nó chân thật, sâu xa, êm ái và vô vị lợi? Nó đáng tin và đáng tin hơn hết: vì
người ta có thể đặt những nghi vấn về tình yêu vợ chồng hay bạn hữu, nhưng chẳng
ai dám nghi ngờ gì về tình yêu của người mẹ.
Isaia
có thể kéo được lòng con cái Israel trở về với Thiên Chúa nhờ lời sấm chân thật,
đơn sơ và cảm động này. Chúng ta hoan hô các bà mẹ. Chúng ta cảm mến lòng các
bà mẹ, nhất là các bà mẹ Việt Nam. Chúng ta hãy đi từ đó để hiểu về tình yêu của
Thiên Chúa đối với chúng ta, để hiểu lời Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về
Cha trên trời.
B.
Người Biết Rõ Các Ngươi Cần Ðến Các Ðiều Ấy
Thật
vậy, Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Người đã sinh ra chúng ta, nên Người không
thể bỏ và quên chúng ta được. Loài người lầm lạc sa ngã, thì Người đã sai Con của
Người đến để tìm gặp chúng ta, nơi Ðức Yêsu Kitô.
Nhưng
rất ít kẻ đón nhận Con Một Thiên Chúa giáng sinh làm người. Ðại đa số bộ phận
nhân loại vẫn dửng dưng với lời loan truyền Tin Mừng Cứu Ðộ. Vì sao, nếu không
phải vì như lời nhận xét của chính Chúa Cứu thế? Là: Không ai có thể làm tôi
hai chủ; người ta không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được.
Nhưng
chúng ta muốn thưa lại với Người: Chúng tôi không tìm tiền của thì chúng tôi ăn
gì, mặc gì? Thế là chúng ta mặc nhiên bỏ Thiên Chúa và quên Người đi, để lo có
cơm ăn áo mặc. Những yêu cầu này khẩn trương và bức thiết quá!
Tuy
nhiên chính vì vậy mà Thiên Chúa sai Con của Người đến. Người mời chúng ta coi
chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm và Cha các
ngươi, Ðấng ngự trên trời, nuôi nấng chúng. Các ngươi không hơn chúng sao? Chắc
chắn chúng ta phải hơn chúng, không phải chỉ vì chúng ta linh ư vạn vật, nhưng
nhất là vì Ðấng nuôi chim trời lại là Cha của chúng ta. Người phải săn sóc đến
chúng ta trước chứ. Lẽ tự nhiên là vậy; sau chúng ta yếu tin vậy?
Còn
về áo mặc chúng ta lo làm gì? Kìa xem cỏ đồng nội nay còn mai sẽ quăng vào lò
mà Thiên Chúa còn cho mặc đẹp hơn cả Salômon trong vinh hoa đời ông, huống chi
là chúng ta, con của Thiên Chúa toàn năng và đầy tình yêu thương?
Lời
Chúa dạy rất đơn sơ, chí lý. Nó chân thật rõ ràng. Nhưng sao chúng ta khó tin vậy.
Phải chăng chúng ta mới chỉ nhìn thấy khía cạnh tiêu cực trong lời giáo huấn
kia mà chưa đi sâu vào phương diện tích cực. Chúng ta mới chỉ nghĩ tới việc
"đừng" lo ăn lo mặc. Nhưng Chúa không bảo chúng ta như vậy. Cùng lắm,
chúng ta có thể hiểu rằng Người bảo chúng ta "chớ lo đến ngày mai, mai sẽ
lo cho mai; khó ngày nào đủ cho ngày ấy". Tuy nhiên đó cũng chưa phải là
giáo huấn tích cực, sâu xa và cốt yếu của Người. Ðiều Người muốn nói với chúng
ta là "hãy tìm kiếm Nước Ðức Chúa Trời trước đã, và các sự ấy sẽ được ban
thêm cho các ngươi". Vì Cha trên trời biết rõ chúng ta cần những điều ấy.
Người không thể bỏ và quên chúng ta. Chúng ta có lo cũng chẳng có thể thêm cho
đời mình một gang nữa. Khởi đầu sự khôn ngoan chân thật là lòng kính sợ Thiên
Chúa, là tin vào tình thương của Người, là được sự bình an của Người, rồi nhờ
Người hướng dẫn sống trong sự bình an ấy.
Những
con người như thế vẫn lo cơm ăn áo mặc; nhưng họ lo trong niềm tin vào tình yêu
của Thiên Chúa. Cũng chẳng thể nói được rằng họ "lo", bởi vì niềm tin
luôn giữ họ trong sự bình an. Họ không bị các lo lắng đời này lôi đi đến nỗi
chưa hết hôm nay đã lo sang ngày mai, để cuối cùng không còn suy nghĩ, yêu mến
gì khác nữa ngoài tiền của và những sự ở đời này. Họ đã bỏ và quên Chúa, vì
không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền của được. Còn kẻ tin Chúa, luôn tìm
Nước Ðức Chúa Trời và sự công chính của Người trước đã và sẽ tìm thấy mọi điều
cần khác ở đó; và sẽ thấy chúng chỉ là những phương tiện sinh sống chứ không phải
là đối tượng của đời sống con người. Những người như vậy dù có vất vả vẫn thư
thái bình an vì Chúa chẳng bỏ quên họ, hay nói đúng hơn vì họ chẳng bỏ quên
Chúa. Họ luôn thấy Chúa là Cha là Mẹ. Họ được an ủi nhất là thấy Chúa yêu
thương mình và Người không thể không săn sóc mình hơn chim trời và hoa cỏ ngoài
đồng nội.
Nhưng
con người không sống chỉ nhờ bánh, mà còn cần vinh dự, cảm thông của xã hội.
Chúng ta cũng lo điều này không ít. Lời thư Phaolô hôm nay có lẽ giúp được
chúng ta.
C.
Ðấng Xét Xử Tôi Chính Là Chúa
Chúng
ta ít có khi nào đau đớn như thánh Tông đồ. Người đã vất vả hình thành ra đoàn
chiên ở Côrinthô. Chính người đã sinh ra giáo đoàn ấy. Thế mà bây giờ vì có kẻ
thọc gậy bánh xe, và cũng vì tâm lý những người Côrinthô bồng bột nhẹ dạ không
những ưa mới nới cũ mà còn nông nổi thích chạy theo những sự bay bướm, uy tín của
Phaolô đang mất dần. Không thiếu những kẻ xấu miệng phê phán người thế này thế
khác. Nói đúng ra, thánh Tông đồ không buồn cho mình. Người chỉ sợ vì thế mà đức
tin ở Côrinthô sa sút và lầm lạc.
Người
không chủ quan, chỉ thấy những sự tốt ở nơi mình. Người có tự kiểm điểm và kiểm
điểm cả những dư luận về mình. Nhưng người không mảy may bận tâm. Không phải những
dư luận và đánh giá ấy làm cho người xao xuyến lo lắng. Ðấng xét xử tôi, người
nói, chính là Chúa. Chỉ có Chúa là quan trọng. Chỉ có tình yêu của Người là cần
thiết. Phaolô tìm Nước Ðức Chúa Trời trước đã và sự công chính của Người. Chính
Người là Cha là Mẹ và hơn cả cha mẹ vô vàn. Cho dù trước lương tâm chúng ta
không thấy có gì, nhưng không phải cứ thế là chúng ta được giải án tuyên công.
Không phải xã hội và người ta hay lương tâm của mình sẽ trao tặng lời tán thưởng
đời đời cho chúng ta, nhưng là Thiên Chúa, Ðấng xét xử chúng ta. Cho nên chúng
ta đừng vội xét đoán trước khi Chúa đến và mọi dư luận trước đó cũng chỉ là
không.
Tuy
nhiên không vì vậy mà ai muốn sống thế nào cũng được. Trong xã hội, tất cả
chúng ta đều là những người quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa. Và trong các sách
Tin Mừng, nhiều lần Người đã nói đến vai trò quản lý này. Người đòi họ phải
trung thành với chức vụ, phân phát các ơn của Chúa trong bác ái khiêm tốn, và tỉnh
thức cần mẫn chờ đợi chủ về. Tất cả những tư cách ấy, Chúa dạy chúng ta phải
đem ra thi hành trong đời sống xã hội. Nếu đã thi hành thì chúng ta cứ yên tâm,
không phải xao xuyến vì các dư luận đánh giá đoán xét công việc và thiện ý của
chúng ta. Chỉ có điều chúng ta có thật là người quản lý trung thành và khôn
ngoan không?
Giờ
đây chúng ta hợp dâng thánh lễ. Chẳng có điều gì cần hơn trong lúc này là đến gần
bên Chúa để cảm thấy tình Cha, tình Mẹ của Người. Ðời sống của chúng ta đang có
nhiều khó khăn và lo lắng ư? Kìa, Thiên Chúa đang ban Con Một của Người cho
chúng ta; và Con Một của Người đang trao cả Mình Máu Người cho chúng ta. Thiên
Chúa còn có thể tiếc gì, không muốn ban cho chúng ta khi hiến ban cho chúng ta
mối tình to lớn như thế? Chúng ta hãy có niềm tin, đón nhận mối tình ấy, lãnh
nhận chính Thiên Chúa. Chính Người ở trong chúng ta sẽ hướng dẫn chúng ta trong
đời sống hàng ngày, để dù lam lũ vất vả, dù gặp những xét đoán bất lợi, chúng
ta vẫn không mất niềm tin, vì có Chúa đang ở với chúng ta và giúp chúng ta là
các người quản lý tốt ở trong một xã hội.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ
Nhật VIII Thường Niên, Năm A
Bài
đọc:
Isa 49:14-15; 1 Cor 4:1-5; Mt 6:24-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần tin tưởng nơi sự
quan phòng của Thiên Chúa.
Trong
cuộc đời, chúng ta nhận thấy có ba hạng người rõ rệt: hạng người chỉ tin tưởng
nơi mình, hạng người chỉ tin tưởng nơi người khác, và hạng người vừa tin tưởng
nơi mình vừa tin tưởng nơi người khác. Hạng người chỉ tin tưởng nơi sự khôn
ngoan của mình nghi ngờ tất cả mọi người, cho dù là Thiên Chúa. Họ nghĩ phải
làm sao dùng sự khôn ngoan của họ để lo lắng, sắp xếp, và kiểm soát mọi sự. Hạng
người chỉ tin tưởng nơi người khác vì họ chưa có khôn ngoan đủ để phán đoán,
nên dễ bị người khác đánh lừa. Hạng người quân bình nhất là những người vừa tin
tưởng nơi khả năng của mình, vừa nhận ra có những điều vượt quá khả năng của
mình nên phải biết tin tưởng nơi người khác.
Các
bài đọc hôm nay dạy con người vừa phải biết tự tin nơi mình vừa phải biết tin
tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaiah muốn
con người phải tin tưởng nơi tình yêu Thiên Chúa, vì Ngài là Người duy nhất
không bao giờ phản bội và bỏ rơi con người. Trong bài đọc II, thánh Phaolô
khuyên nhủ các tín hữu phải biết tin tưởng nơi Thiên Chúa và tự tin nơi mình; đừng
để ý đến những lời dèm pha hay phán đoán để rồi xao lãng bổn phận mà Thiên Chúa
trao phó. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu vạch ra cho con người thấy sự vô lý của việc
chỉ biết tin nơi mình, biểu lộ qua thái độ lo lắng. Ngài dạy con người hãy biết
đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Cha trên trời và hãy biết dành thời gian để đi tìm
Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Cho dù mẹ có quên ngươi đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.
1.1/
Con người chạy theo những thứ thần ảo tưởng, gian dối: Trước thời Lưu Đày,
dân tộc Do-thái chạy theo thờ các ngẫu tượng của Dân Ngoại, thay vì biết quí mến
mối tình chân thật của Thiên Chúa. Các ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến nhiều lần
để cảnh tỉnh và kêu gọi họ trở về; nhưng họ không thèm nghe lời các ngôn sứ. Rốt
cuộc, Thiên Chúa đành phải để cho họ rơi vào tay Dân Ngoại và bị lưu đày. Khi
phải đương đầu với tủi nhục và đau khổ trên đất khách quê người, họ lại kêu
trách Thiên Chúa như lời ngôn sứ Isaia tường thuật: "Đức Chúa đã bỏ tôi,
Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi!"
1.2/
Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi dân Ngài: Thiên Chúa luôn trung thành với tình yêu Ngài dành
cho con người, Ngài không bao giờ phản bội con người. Thế tại sao Thiên Chúa lại
để cho Israel bị dày xéo bởi tay quân địch? Các ngôn sứ đều cho họ biết rõ lý
do của việc sửa phạt là vì yêu thương: Nếu Thiên Chúa không ra tay sửa phạt,
Ngài sẽ mất họ vĩnh viễn. Ngài phải sửa phạt với hy vọng khi phải đương đầu với
đau khổ, họ sẽ nhận ra tội bất trung của họ và ăn năn quay về với tình yêu đích
thực. Khi hồi tâm, họ sẽ nhìn thấy tình yêu Thiên Chúa dành cho họ qua việc gởi
các ngôn sứ đến cảnh cáo và khích lệ họ đừng tuyệt vọng. Lời của ngôn sứ Isaiah
trong trình thuật hôm nay ví tình yêu của Thiên Chúa như tình mẫu tử: “Có phụ nữ
nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng
đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.”
Thiên Chúa không vui mừng khi thấy dân Ngài chịu đau khổ, và Ngài luôn tìm mọi
cơ hội để đưa họ trở về.
2/
Bài đọc II:
Bấy giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đích đáng.
2.1/
Sống trung thành với ơn gọi của mình: Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ của mình: Tôi tớ
không trọng hơn chủ, nếu họ đã truy tố Thầy, họ cũng sẽ truy tố anh em. Thánh
Phaolô chắc chắn cảm thấy rõ điều này, vì mỗi khi ngài vừa thành công trong việc
rao giảng và thiết lập một giáo đoàn; thì có những người theo sau quấy phá và
vu khống cho ngài đủ điều, nào là: Phaolô không phải là tông đồ, hay ông không
khôn ngoan, hay ông nói năng không theo kiểu hùng biện... Phaolô chẳng những
không buồn vì những lời dèm pha, ông còn lợi dụng những lời dèm pha để làm sáng
tỏ đức tin. Phaolô viết: “Vậy chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của
Đức Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mà người ta chỉ đòi
hỏi ở người quản lý một điều, là phải chứng tỏ lòng trung thành.” Đối với
Phaolô, ông chỉ là người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa, mà bổn phận của
người quản lý không gì khác hơn là trung thành rao giảng Tin Mừng mà ngài đã nhận
được từ Đức Kitô. Đức tin mà các tín hữu có được là do sự tác động của Thánh Thần,
chứ không phải do tài khéo của ông. Phaolô trung thành với sứ vụ rao giảng Tin
Mừng trong suốt cuộc đời, ông không để tâm chú ý vào bất kỳ điều gì khác, đêm
ngày chỉ miệt mài suy nghĩ để rao giảng những lời chân lý sao cho con người nhận
ra sự thật và trở về với Thiên Chúa.
2.2/
Phaolô tin tưởng nơi sự phán xét công minh của Thiên Chúa:. Dù bị đối phương
nói xấu và dèm pha đủ điều, thánh Phaolô rất tự tin nơi mình và nơi Thiên Chúa.
Ông viết: “Đối với tôi, dù có bị anh em hay toà đời xét xử, tôi cũng chẳng coi
là gì. Mà tôi, tôi cũng chẳng tự xét xử lấy mình.” Ngài chỉ sợ một Đấng có thẩm
quyền xét xử là Thiên Chúa. Tuy nhiên, ngài không dám nhận là mình vô tội;
nhưng chỉ biết cố gắng trung thành làm mọi sự Đức Kitô đã trao, phần còn lại,
ngài phó thác cho tình yêu Thiên Chúa.
Phaolô
khuyên các tín hữu biết khôn ngoan để đừng xét xử tha nhân trước kỳ hạn, vì 3
lý do: thứ nhất, đó không phải là công việc của con người; thứ hai, con người
không có đủ chứng cớ để xét xử; thứ ba, thời hạn để xét xử chưa đến. Vì thế,
chúng ta cũng đừng xét xử ai để khỏi bị Thiên Chúa xét xử.
3/
Phúc Âm:
Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo.
3.1/
Lo lắng sự đời làm con người xao lãng trách nhiệm Thiên Chúa trao: Chúng ta có
thể nhận ra sự thật này qua kinh nghiệm của cuộc sống. Một người mục tử lo lắng
sự đời, ông sẽ không có thời giờ để tâm dạy dỗ, chăn dắt, và bảo vệ đoàn chiên
Thiên Chúa đã trao phó. Cha mẹ ích kỷ chỉ biết lo cho mình sẽ không còn thời giờ
để dạy dỗ, chăm sóc, và bảo vệ phần hồn cũng như phần xác của con cái. Người
tín hữu chỉ biết quan tâm đến việc thỏa mãn những nhu cầu của xác thịt, sẽ
không thể chu toàn bổn phận Đức Kitô trao là làm sao cho Tin Mừng được loan báo
đến hết mọi người.
Trong
trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu buộc các môn đệ phải lựa chọn: "Không ai
có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó
với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm
tôi Tiền Của được.” Nếu con người yêu thương Thiên Chúa, họ sẽ tìm mọi cách để
làm đẹp lòng Ngài; nhưng nếu con người yêu thương chính mình hay những sự trong
thế gian, họ sẽ miệt mài chạy theo những lôi cuốn của thế gian để thỏa mãn bản
thân. Làm sao họ còn sức lực và thời gian để hoàn thành những gì Thiên Chúa muốn?
3.2/
Lo lắng vô ích: Chúa
Giêsu tiếp tục dạy: "Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống:
lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng
hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?” Nhiều người sẽ cãi lại: Biết
như vậy, nhưng không lo cho có của ăn làm sao sống? Nếu không lo cho có áo mặc
thân thể sẽ chết vì lạnh giá?
Chắc
chắn Chúa Giêsu không khuyên chúng ta cứ việc lười biếng mà vẫn có ăn, vì sau
khi nguyên tổ phạm tội trong Vườn Địa Đàng, Thiên Chúa đã phạt con người phải
làm lụng vất vả mới có ăn; nhưng chúng ta cần phân biệt hai điều:
1)
Thiên Chúa vẫn là người ban tặng: Con người có thể làm việc vất vả khổ cực mà vẫn
không có ăn, nếu Thiên Chúa không quan phòng cho thời tiết thuận hòa. Tác giả của
Thánh Vịnh 127 hiểu rõ điều này, nên đã thốt lên: “Bạn có thức khuya hay dậy sớm,
khó nhọc làm ăn cũng hoài công. Còn kẻ được Chúa thương dầu có ngủ, Người vẫn
ban cho đủ tiêu dùng” (Psa 127:2).
Chúa
Giêsu dẫn chứng hai ví dụ về sự quan phòng của Thiên Chúa cho các tạo vật: (1)
“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà
Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?”
(2) “Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc
lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy
bảo cho anh em biết: ngay cả vua Solomon, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp
bằng một bông hoa ấy.”
(2)
Con người chỉ là người nhận lãnh: Nếu Thiên Chúa không ban, con người có lo lắng cũng
chẳng làm thêm ra được gì. Chúa Giêsu thách thức các môn đệ: “Hỏi có ai trong
anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay?”
Vì
thế, thái độ thích hợp là con người vẫn phải làm và phải tin tưởng nơi tình yêu
quan phòng của Thiên Chúa. Ngài biết con người cần tất cả những thứ đó để sinh
sống và sẽ ban như con người cần.
3.3/
Biết dành giờ cho Thiên Chúa, cho mình, và cho tha nhân: Sau khi đã làm việc
để sinh sống, Chúa Giêsu muốn các môn đệ chú tâm vào những điều có lợi ích cho
họ hơn, Ngài phán: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của
Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” Làm sao gọi là dành thời
giờ và sức lực cho việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người?
Chúng ta biết con người không thể tự mình nên công chính, nhưng phải tin và nhờ
công nghiệp của Đức Kitô. Một số những điều căn bản con người phải làm trong việc
đi tìm Nước Thiên Chúa: (1) Chúng ta phải dành giờ để học biết về Chúa và về sự
thật qua Kinh Thánh; (2) chúng ta phải dành giờ cho việc cầu nguyện và đào sâu
niềm tin và mối quan hệ với Thiên Chúa; sau cùng, (3) chúng ta phải dành giờ để
dạy dỗ con cái và mọi người, sao cho họ biết về Thiên Chúa qua việc rao giảng
Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta cần xác tín mỗi ngày: Không ai yêu thương chúng ta bằng Thiên Chúa
trong cuộc đời; vì thế, chúng ta đừng dại dột hy sinh tình yêu Thiên Chúa cho bất
cứ tình yêu nào trên thế gian.
-
Chúng ta đừng bị phân tâm hay bị chia trí vào những chuyện thế gian, nhưng hãy
biết dành trọn vẹn thời giờ để chu toàn ơn gọi Thiên Chúa trao, sao cho hoàn
thành mọi sự.
-
Sau khi đã cố gắng chu toàn những bổn phận Thiên Chúa trao, chúng ta đừng lo lắng
gì nữa, nhưng hãy tin tưởng hoàn toàn nơi sự quan phòng của Thiên Chúa.
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Suy
niệm:
Chế
độ nô lệ tưởng như đã không còn trên thế giới.
Nhưng
ngày nay người ta vẫn nói đến những hình thức nô lệ mới.
Nước
nghèo mất chủ quyền, chịu nô lệ cho nước giàu,
các
phụ nữ trở nên nạn nhân của nô lệ tình dục,
trẻ
em nô lệ cho chơi game, thanh niên nô lệ cho ma túy.
Xem
ra khó tránh được chuyện bị làm nô lệ,
giữa
một thế giới đề cao tự do và giải phóng.
Khi
không muốn làm nô lệ cho ai,
con
người lại trở nên nô lệ cho cái tôi ích kỷ.
Khi
không chấp nhận lệ thuộc Đấng Tạo Hóa cao vời,
con
người lại trở nên nô lệ cho các thụ tạo do mình tạo ra.
Đức
Giêsu đặt chúng ta trước một chọn lựa.
“Anh
em không thể đồng thời làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được.”
Nếu
có hai chủ thì thế nào cũng yêu mến người này hơn người kia.
Giữa
Thiên Chúa và Tiền Của, tôi sẽ gắn bó với ai hơn, tôi sẽ chọn ai?
Tôi
không thể giả vờ thỏa hiệp để chọn cả hai, để được cả hai.
Thần
Tài hứa hẹn cho tôi sự an toàn và hạnh phúc giả tạo,
còn
Thiên Chúa hứa cho tôi hạnh phúc đích thực, vững bền.
Chỉ
khi đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự, tôi mới thật sự tự do.
Có
sáu động từ lo trong bài Tin Mừng trên đây.
Đức
Giêsu nhiều lần khuyên các môn đệ đừng lo (cc. 25. 31. 34).
Nhưng
làm người ai lại không lo về ngày mai, trừ phi là trẻ thơ?
Trên
thế giới bao người vẫn phải vật vã từng ngày với cơm ăn, nước uống?
Con
người có thể sống vô tư như chim trời không
khi
chim trời ngày nay cũng bị đe dọa không nơi trú ẩn?
Chúng
ta cần hiểu cho đúng chữ lo của Đức Giêsu.
Ngài
không dạy chúng ta sống vô trách nhiệm, phó mặc hay lười biếng.
Cái
lo mà ta nên tránh là cái lo âu, lo sợ của người kém lòng tin (c. 30),
không
tin rằng Thiên Chúa quý con người hơn mọi thụ tạo khác.
hơn
giống chim trời, hơn hoa ngoài đồng nội.
Lo
âu đó chi phối quá khiến người ta cứ loay hoay, bối rối tự hỏi:
ta
sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? (c. 31).
Lo
âu này khiến người ta bất an và sợ hãi, vì là lo âu một mình,
quên
rằng mình có Người Cha biết rõ những nhu cầu thiết yếu (c. 32),
và
sẵn sàng lo cho mình những điều cần dùng (c. 33).
Lo
âu này cũng khiến người ta tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu của mình
hơn
là ưu tiên tìm kiếm xây dựng Nước Thiên Chúa (c. 33).
Kitô
hữu không phải là người ngây thơ, sống không lo ngày mai.
Kitô
hữu là người biết lo liệu, lo toan cho cuộc sống của họ.
Nhưng
họ không căng thẳng vì phải bơ vơ lo một mình.
Họ
lo như một người con trưởng thành, cùng lo với Thiên Chúa Cha.
Họ
lo một cách thư thái nhẹ nhàng như loài chim buổi sớm đi tìm thức ăn.
Kitô
hữu nắm được chìa khóa của hạnh phúc, của no đủ và bình an.
Đó
là cứ tìm kiếm Thiên Chúa trước tiên, mọi sự khác sẽ được ban dư dật.
Cầu
nguyện:
Lạy
Chúa,
xin
cho con luôn vui tươi.
dù
có phải lo âu và thống khổ,
xin
cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng
biết nghĩ đến những người quanh con,
những
người - cũng như con -
đang
cần một người bạn.
Nếu
như con nên yếu đuối,
thì
xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông
cảm và nhân từ hơn.
Nếu
bàn tay con run rẩy,
thì
xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi
lâm tử,
xin
cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như
một lời kinh.
Ước
chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như
một lời xin vâng cuối cùng.
Và
con về nhà Chúa,
để
dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
Lm.An-tôn NGUYỄN CAO
SIÊU, SJ.
02/03/14 CHÚA NHẬT TUẦN 8 TN – A
Mt 6,24-34
Mt 6,24-34
PHẢI LO GÌ
“Trước hết hãy tìm kiếm Nước
Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm
cho.” (Mt 6,33)
Suy niệm: “Những thứ kia” mà Chúa Giêsu
muốn nói đến là cơm ăn, áo mặc, là những nhu yếu phẩm mà con người sống phải
có. Nhưng còn một thứ quan trọng hơn mà nếu thiếu thì “những thứ kia” dù có
cũng chẳng tích sự gì, đó là chính mạng sống mỗi người. Nếu có được “những thứ
kia”, hay “nếu được cả thế giới mà phải
thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16,26). Giống như một chiếc tàu chuẩn bị ra khơi, nếu chỉ lo
sơn phết thật đẹp, lắp đặt các tiện nghi thật thoải mái mà phao cứu sinh, canô
cứu nạn không có... thì mọi sự chuẩn bị kia lại chẳng vô ích lắm hay sao? Vì
vậy, theo thứ tự ưu tiên, điều quan trọng nhất là Nước Thiên Chúa, hãy lo tìm
kiếm trước “còn những thứ kia, Người sẽ ban
cho”. Và Thiên Chúa cũng theo
thứ tự ưu tiên đó: chim trời, Ngài còn cho chúng cái ăn, chẳng lẽ chúng ta lại
khong quí hơn chim sẻ sao?
Mời Bạn: Thiên Chúa là Cha, và Ngài thừa biết chúng ta
cần “những thứ kia”; nhưng Ngài cũng biết mạng sống chúng ta còn quan trọng
hơn, nên Ngài dám hy sinh Con Một yêu dấu để cứu chúng ta. Tiếc rằng, nhiều
người chỉ lo tìm kiếm “những thứ kia” mà thờ ơ với Nước Thiên Chúa!
Chia sẻ: Trong việc Phúc Âm hoá gia đình, điều quan
trọng nhất mà bạn định thực hiện là gì?
Sống Lời Chúa: Dành thời gian để đọc và suy niệm Lời Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa, xin cho con biết “mạng sống trọng hơn của ăn, và thân thể trọng hơn áo
mặc” để con chỉ biết tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2
THÁNG BA
Thiên Chúa Gọi Đích
Danh Chúng Ta
Cũng
như Mô-sê được gọi trong khi ông đang chăn giữ đoàn vật trong hoang địa, Thiên
Chúa gọi chúng ta trong hoang địa. Ngài gọi đích danh chúng ta, như Ngài đã gọi
Mô-sê: “Mô-sê! Mô-sê!” (Xh 3,4).
Thiên
Chúa truyền lệnh cho chúng ta cũng như Ngài đã truyền lệnh cho Mô-sê: “Hãy cởi
giày ra khỏi chân ngươi, vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh” (Xh 3,5).
Hãy
cởi bỏ sự cứng cỏi ra khỏi lòng bạn! Hãy nhổ rễ sự kiêu căng ra khỏi tâm trí và
ý chí bạn. Thời gian Mùa Chay là một thời gian thánh của Giáo Hội. Đó là một thời
gian đầy sức mạnh. Đó là một thời gian mà Thiên Chúa hiện diện với chúng ta một
cách đặc biệt.
Mùa
Chay truyền lệnh cho con tim và lương tri chúng ta quay về với Thiên Chúa – Đấng
đã tỏ hiện cho Mô-sê trong hoang địa. Ngài là Thiên Chúa của Abraham, Thiên
Chúa của I-sa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp. Ngài là Thiên Chúa của uy phong khôn
sánh, và cũng là Vị Thiên Chúa tìm kiếm con người để thiết lập một giao ước với
con người.
Hãy
lưu ý điều này: Thiên Chúa đã tự biểu lộ chính Ngài trong hình thức một bụi gai
bốc cháy mà không bị thiêu rụi (Xh 3,2). Vị Thiên Chúa tình yêu toàn năng tự tỏ
hiện chính Ngài trước mắt của Mô-sê trong hình thức của một bụi gai bốc cháy.
Đấy
là Thiên Chúa, là Đấng siêu việt. Người ta không thể nhìn thấy Ngài bằng mắt trần
khi còn đang sống trên mặt đất này. Mô-sê giấu mặt đi, bởi vì ông sợ không dám
nhìn Thiên Chúa (Xh 3,6). Rồi, ông nghe tiếng Thiên Chúa phán: “Đừng bước tới gần
thêm!” (Xh 3,5). Mô-sê vừa sợ hãi vừa bị hấp lực bởi Đấng đang phán bảo ông từ
trong bụi gai. Sự hiện diện của Thiên Chúa bao trùm lấy ông. Ông chìm đắm trong
sự thánh thiện của Thiên Chúa và được biến đổi một cách thâm sâu bởi cuộc gặp gỡ
này.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 02-03
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN
Is 49, 14-15; 1Cr 4, 1-5; Mt
6, 24-34.
LỜI SUY NIỆM: “Anh em đừng lo lắng về ngày
mai; ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.”
Sau khi Chúa Giêsu căn dặn:
“Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của”. Chúa kêu mời chúng ta
phải có lòng “Tin tưởng vào Chúa quan phòng” Chúa đưa ra hình ảnh sự sống của
con chim se sê và cái đẹp tuyệt vời của cành hoa huệ ngoài đồng. Rồi Chúa
khuyên chúng ta:”Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của
Người”
Lạy Chúa Giêsu. Gia đình
chúng con đã nhận được rất nhiều hồng ân của Chúa từ vật chất cũng như tinh thần.
Xin Chúa cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn tạ ơn Chúa và biết
chia sẻ lại cho tha nhân.
Mạnh
Phương
02
Tháng Ba
Bàn Thờ Cho Người Nô Lệ
Du
khách đến viếng thăm nước Tanzania bên châu Phi không thể không dừng chân trước
Nhà Thờ chính tòa Anh Giáo tại Zanzibar.
Bước
vào nhà thờ, người ta có thể đọc ngay lời chào đón được viết trên tường như
sau: "Bạn đang ở trong nhà thờ chính tòa của Ðức Kitô. Nơi đây đã từng là
chợ buôn người nô lệ".
Ngôi
thánh đường này đã được xây ngay trên chính khu đất mà ngày xưa người da trắng
đã tập trung không biết bao nhiêu người Phi Châu để buôn bán đổi chác như những
con thú. Ðặc biệt nhất là bàn thờ của ngôi thánh đường: đây là nơi mà trước khi
được bán, người nô lệ phải chịu đánh đòn. Sở dĩ người ta phải dùng roi để quất
vào người nô lệ là để xem người ấy còn khỏe mạnh không.
Cột
trụ ở ngay lối vào nhà thờ là một cây thánh giá gỗ có mang tên của nhà giải
phóng Livingstone, một nhà thám hiểm người Anh, đã hô hào chống lại cuộc buôn
bán vô nhân đạo này. Cây thánh giá mang tên ông đã được chạm trổ từ gốc cây nơi
ông thường đứng để hô hào cuộc chiến bãi bỏ việc buôn bán người nô lệ.
Mãi
đến ngày 06 tháng 6 năm 1873, việc buôn bán người nô lệ mới chính thức bị cấm
chỉ bằng một đạo luật. Kể từ đó, phẩm giá đích thực của người da đen mới được
nhìn nhận.
Cũng
như một đan viện dòng kín đã được dựng lên ngay bên cạnh trại tập trung
Auschwitz bên Ba Lan để âm thầm nhắc nhở về những độc ác dã man mà con người đã
có thể làm cho người khác, thì nhà thờ chính tòa Anh Giáo tại Zanzibar cũng là
một nhắc nhở về một quá khứ vô cùng đau thương và đen tối của cả nhân loại, khi
con người chỉ xem những giống người khác như thú vật để đổi chác. Nhưng một tưởng
niệm không chỉ dừng lại ở khía cạnh kết án, nó còn là một mời gọi để cam kết sống
đích thực hơn. Ðối lại với chà đạp dã man phải là sự tôn trọng yêu thương mà
con người phải có đối với tha nhân.
Cuộc
sống của người Kitô chúng ta được xây dựng trên một tưởng niệm vô cùng cao cả:
đó là cái chết của Ðức Kitô được thực hiện trong Thánh Lễ. Thánh lễ vừa là một
nhắc nhở về cái chết vô cùng dã man mà Ðức Kitô đã trải qua, vừa là một tưởng
niệm về Tình Yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, vừa là một mời gọi sống
yêu thương, yêu thương đến nỗi có thể chết thay cho người khác... Chúng ta
không thể tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu mà vẫn tiếp tục cưu mang hận thù,
mà vẫn nuôi dưỡng sự khinh rẻ đối với tha nhân.
(Lẽ
Sống)
2-3
Thánh
Agnes ở Bohemia
(1205
- 1282)
T
|
uy
Thánh Agnes hiếm muộn nhưng ngài đã đem lại sức sống cho tất cả những ai biết đến
ngài.
Agnes
là con của Nữ Hoàng Constance và Vua Ottokar I của Bohemia. Lúc lên ba, ngài được
hứa gả cho Công Tước xứ Silesia, nhưng ba năm sau đó ông này từ trần. Khi Agnes
lớn lên, thánh nữ định tâm dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì.
Sau
khi từ chối lời cầu hôn của Vua Henry VII của nước Ðức và Henry III của nước
Anh, Agnes phải đương đầu với sự cầu hôn của Frederick II, là Thánh Ðế Rôma
(Holy Roman Emperor). Thánh nữ cầu khẩn đến Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô IX để xin
giúp đỡ. Ðức giáo hoàng đã nghe theo; một cách cao thượng Frederick trả lời rằng
ông cũng không khó chịu khi Agnes yêu quý Vua Thiên Ðàng hơn ông.
Sau
khi Agnes xây một bệnh viện cho người nghèo và một nơi cư ngụ cho các tu sĩ,
ngài cung cấp tài chánh để xây cất tu viện Clara Nghèo Hèn ở Prague. Năm 1236,
cùng với bảy phụ nữ quý tộc khác, ngài đã gia nhập tu viện này. Thánh Clara đã
gửi năm nữ tu từ San Damiano đến tiếp tay với họ, và đã viết cho Agnes bốn lá
thư khuyên bảo về ơn gọi mỹ miều của ngài và đặt ngài làm tu viện trưởng.
Sơ
Agnes ngày càng nổi tiếng về sự cầu nguyện, đức vâng lời và hãm mình phạt xác.
Ðức giáo hoàng làm áp lực để ngài nhận chức vụ tu viện trưởng; tuy nhiên, ngài
thích được gọi là "sơ già" hơn là tu viện trưởng. Dù là tu viện trưởng,
ngài cũng không quản ngại nấu nướng cho các nữ tu khác cũng như may vá quần áo
cho người cùi. Các nữ tu trong dòng nhận thấy ngài rất tử tế nhưng rất nghiêm
nhặt về đức khó nghèo; ngay cả người anh ruột của ngài muốn tặng cho nhà dòng
ít của cải cũng bị ngài từ chối.
Sau
khi ngài từ trần ngày 6 tháng Ba 1282, việc sùng kính ngài ngày càng lan rộng.
Năm 1989, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài.
Lời
Bàn
Thánh
Agnes đã sống 45 năm trong tu viện Clara Nghèo Hèn. Một cuộc sống như vậy đòi hỏi
sự kiên nhẫn và bác ái lớn lao. Những cám dỗ về sự ích kỷ chắc chắn không tan
biến khi thánh nữ bước chân vào tu viện. Có lẽ chúng ta dễ nghĩ rằng các nữ tu
dòng kín "sẵn có" sự thánh thiện. Nhưng con đường của họ cũng giống
như của chúng ta: hàng ngày cố gắng thay đổi bản tính ích kỷ để đạt đến tiêu
chuẩn độ lượng của Thiên Chúa.
Lời
Trích
"Ðừng
dính dáng với bất cứ ai cản đường bạn và tìm cách thay đổi lời thề mà bạn đã hứa
với Ðấng Tối Cao, cũng như tách bạn ra khỏi cuộc sống tuyệt hảo mà Thần Khí
Thiên Chúa đã mời gọi bạn" (Trích trong Thư II Thánh Clara gửi
cho Agnes).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét