01/08/2015
Thứ Bảy sau Chúa Nhật
17 Quanh Năm
Thánh Anphong Maria
Ligôri, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ
* Thánh nhân sinh năm 1696 tại Napôli.
Người từ bỏ nghề luật sư để làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục
để loan báo tình yêu của Chúa Kitô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng năng giải
tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập Dòng Chúa Cứu Thế nhằm mục
đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền quê (1732). Người đã giảng dạy luân lý
và viết nhiều tác phẩm về đời sống thiêng liêng. Người qua đời năm 1787.
Bài
Ðọc I: (Năm I) Lv 25, 1. 8-17
"Trong
năm toàn xá, người ta làm chủ lại cơ nghiệp mình".
Trích
sách Lêvi.
Chúa
phán cùng Môsê trên núi Sinai rằng: "Ngươi cũng phải tính bảy tuần năm, tức
là bảy lần bảy, cộng chung là bốn mươi chín năm: Ngày mồng mười tháng bảy,
ngươi hãy thổi kèn trong thời gian đền tội trong toàn lãnh thổ ngươi. Ngươi hãy
làm cho năm thứ năm mươi nên năm thánh và hãy kể là năm tha tội cho mọi người
cư ngụ trong nước ngươi, vì đó là năm toàn xá. Người ta sẽ làm chủ lại cơ nghiệp
mình, và ai nấy đều được trở về gia đình cũ của mình, vì năm toàn xá là năm thứ
năm mươi. Các ngươi đừng cày cấy, đừng gặt hái hoa màu tự nhiên phát sinh trong
đồng ruộng, và đừng hái nho đầu mùa, vì phải kể năm toàn xá là năm thánh, và
các ngươi được ăn hoa màu tự nhiên phát sinh.
"Trong
năm toàn xá, mọi người nhận lại cơ nghiệp của mình. Khi ngươi mua bán vật gì với
người đồng hương, ngươi chớ làm phiền lòng người anh em, nhưng hãy mua theo số
năm toàn xá, và nó sẽ bán cho ngươi theo số hoa lợi của nó. Số các năm sau năm
toàn xá càng nhiều thì giá càng cao, và số năm càng ít, thì giá mua càng hạ, vì
nó tính mùa hoa lợi mà bán cho ngươi. Các ngươi chớ hà hiếp những người cùng một
chi tộc với các ngươi: nhưng mỗi người hãy kính sợ Thiên Chúa mình, vì Ta là
Thiên Chúa các ngươi".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 66, 2-3. 5. 7-8
Ðáp: Chư dân hãy
ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
Xướng:
1) Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con; xin tỏ ra cho
chúng con thấy long nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu thiên hạ nhìn biết đường
lối của Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.
2)
Các dân tộc hãy mừng vui và khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và
Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.
3)
Ðất đã cho chúng tôi hoa trái. Ðức Thiên Chúa, Chúa chúng tôi, đã chúc phúc
lành cho chúng tôi. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, để cho khắp
cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 94, 8ab
Alleluia,
alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. -
Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 14, 1-12
"Hêrôđê
sai người đi chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa
Giêsu".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy quận vương Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng:
"Người này là Gioan Tẩy Giả, ông từ cõi chết sống lại, nên mới làm được
các phép lạ như vậy". Tại vì Hêrôđia vợ của anh mình mà vua Hêrôđê đã bắt
trói Gioan tống ngục, bởi Gioan đã nói với vua rằng: "Nhà vua không được lấy
bà ấy làm vợ". Vua muốn giết Gioan, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi
Gioan như một tiên tri. Nhân ngày sinh nhật của Hêrôđê, con gái Hêrôđia nhảy
múa trước mặt mọi người, và đã làm cho Hêrôđê vui thích. Bởi đấy vua thề hứa sẽ
ban cho nó bất cứ điều gì nó xin. Ðược mẹ nó dặn trước, nên nó nói: "Xin
vua đặt đầu Gioan Tẩy Giả trên đĩa này cho con". Vua lo buồn, nhưng vì đã
trót thề rồi, và vì các người đang dự tiệc, nên đã truyền làm như vậy. Ông sai
người đi chặt đầu Gioan trong ngục, và để đầu Gioan trên đĩa đem trao cho cô
gái, và nó đem cho mẹ nó. Các môn đồ của Gioan đến lấy xác thầy và chôn cất, rồi
đi báo tin cho Chúa Giêsu.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Tương Quan Giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu
Trong
Tin Mừng hôm nay, tác giả hai lần nhắc đến Gioan Tẩy giả trong tương quan với
Chúa Giêsu.
Ở
khởi đầu trình thuật, vua Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì ông cho đó
chính là Gioan Tẩy giả, người mà ông đã cho chém đầu nay sống lại. Ơn gọi của
Gioan Tẩy giả như chính miệng ông Zacaria loan báo trong ngày lễ đặt tên cho
con mình: "Con là tiên tri của Ðấng tối cao, con sẽ đi trước dọn đường cho
Ngài". Ơn gọi đó Gioan đã chu toàn một cách tốt đẹp. Gioan chuẩn bị cho
Chúa Giêsu đến, không những bằng việc rao giảng thống hối, mà còn bằng chính
cái chết vì trung thành với sự thật. Dung mạo của Gioan Tẩy giả loan báo dung mạo
của Chúa Giêsu một cách tốt đẹp, đến nỗi khi Chúa Giêsu xuất hiện, vua Hêrôđê
tưởng Ngài là hiện thân của Gioan Tẩy giả sống lại.
"Các
con sẽ làm chứng về Thầy", đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu cho các Tông đồ,
cho mỗi môn đệ của Chúa. Chúng ta cần trở nên một Chúa Kitô cho anh em mình, vận
mệnh của Chúa sẽ là vận mệnh của chúng ta.
Một
chi tiết nữa, đó là các môn đệ Gioan Tẩy giả, sau khi chôn cất ông xong, thì đến
báo tin cho Chúa Giêsu. Chi tiết này nói lên mối liên hệ thân tình giữa Gioan Tẩy
giả và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Gioan Tẩy giả là hướng về
Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả không phải là Chúa Giêsu, nhưng là người giúp anh em
mình đến với Chúa. Chính Gioan Tẩy giả đã tuyên bố: "Tôi không phải là ánh
sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng".
Người
Kitô hữu được mời gọi sống hướng về Chúa, kết hợp với Chúa, trở thành một Chúa
Kitô thứ hai cho anh em. Nhưng đó là để giúp anh em đến với Chúa, chứ không dừng
lại nơi mình. Người Kitô hữu không được chiếm chỗ của Chúa trong tâm hồn anh
em: Chúa Kitô phải lớn lên trong tâm hồn anh em, còn tôi chỉ là phương thế, tôi
không được cản trở anh em đến với Chúa.
Xin
Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm và trung thành với sự thật, dù phải hy sinh
chính mạng sống mình, để giúp người khác đến với Chúa và tin nhận Chúa.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Bảy Tuần 17 TN1,
Năm lẻ.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải kính sợ Thiên
Chúa và thi hành những gì Ngài truyền dạy.
Thiên
Chúa quan tâm đến đời sống của tất cả tạo vật: đất đai, cây cỏ, thú vật, và
loài người; vì tất cả đều do Ngài dựng nên. Ngài tin tưởng trao tất cả vào tay
con người; đồng thời, Ngài cũng dạy họ biết quản lý cách khôn ngoan, và chia sẻ
cho nhau để đừng ai phải sống thiếu thốn quá. Ngược lại, con người luôn ích kỷ
để tích trữ cho mình, và chất chứa hận thù để tìm dịp hại nhau.
Các
Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật sự đối nghịch giữa Thiên Chúa và con người. Trong
Bài Đọc I, Thiên Chúa truyền cho ông Moses phải cử hành Năm Thánh mỗi 50 năm, với
mục đích là để cho mọi người có cơ hội làm lại cuộc đời và san phẳng các bất
công xã hội qua việc: phóng thích tù nhân, và trả lại nhà cửa và ruộng đất cho
những ai đã phải cầm để có phương tiện sinh sống. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả
bị bà Herodia ghen ghét vì đã ngăn cản cuộc hôn nhân giữa Bà và Herode. Khi cơ
hội tới, Bà đã bảo con gái xin vua Herode cái đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên
mâm cho Bà!
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Năm Thánh (Jubilee) và các việc phải tuân hành:
1.1/
Thời gian:
được cử hành mỗi 50 năm, căn cứ trên những gì Đức Chúa đã phán với ông Moses
trên núi Sinai: "Các ngươi phải tính bảy tuần năm, nghĩa là bảy lần bảy
năm; thời gian của bảy tuần năm đó là bốn mươi chín năm. Tháng thứ bảy, ngày mồng
mười trong tháng, các ngươi sẽ thổi tù và giữa tiếng reo hò; vào Ngày Xá Tội,
các ngươi sẽ thổi tù và trong toàn xứ các ngươi."
1.2/
Mục đích: Năm
Thánh này có mục đích để nhắc nhở cho con người hai điều:
(1)
Chỉ một mình Thiên Chúa là người sở hữu tất cả tài sản, con người chỉ là những
người quản lý: được Thiên Chúa trao ban để sinh lợi mà thôi.
(2)
Hễ kính mến Thiên Chúa, cũng phải biết yêu người. Thiên Chúa truyền lệnh:
"Không ai trong các ngươi được làm thiệt hại người đồng bào, nhưng các
ngươi phải kính sợ Thiên Chúa của các ngươi, vì Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của
các ngươi."
1.3/
Những việc phải thi hành:
(1)
Phóng thích tù nhân và giải phóng nô lệ: "Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm
mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại
đó. Đối với các ngươi, đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các ngươi sẽ trở
về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về giòng họ của mình."
(2)
Không được canh tác đất và thu hoạch mùa màng: "Đối với các ngươi, năm thứ
năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự
nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn
xá, một năm thánh đối với các ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng."
+
Đất cũng cần phải được "nghỉ ngơi" vào năm thứ bảy (Sabbatical year)
sau mỗi 6 năm canh tác (Lev 25:2-7). Năm này cũng rơi vào trong Năm Thánh. Đây
là một lệnh truyền khôn ngoan: con người có cơ hội nghỉ ngơi cho lại sức, và đất
có cơ hội để cho nhiều hoa quả hơn năm sau.
+
Để cho người nghèo có cơ hội sống bằng cách ăn những hoa quả do ruộng đồng mang
lại trong năm đó.
(3)
Trả lại ruộng đất và nhà cửa cho những ai đã cầm: "Năm toàn xá đó, mỗi người
trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình. Nếu các ngươi bán cái gì cho
người đồng bào hoặc mua cái gì từ tay người đồng bào, thì đừng ai làm thiệt hại
người anh em mình." Vì Thiên Chúa là chủ của các bất động sản, không ai có
quyền mua bán của cải đó mãn đời.
(4)
Giao kèo khi mua bán: "Ngươi sẽ mua của người đồng bào theo số năm sau năm
toàn xá, và nó sẽ bán cho ngươi theo số năm thu hoạch. Còn nhiều năm thì ngươi
mua giá cao, còn ít năm thì ngươi mua giá thấp, vì nó bán cho ngươi một số năm
thu hoạch." Lý do, người mua sẽ phải hoàn lại những gì đã mua cho người
bán khi Năm Thánh tới.
2/
Phúc Âm:
Con người tích trữ hận thù và dùng thủ đoạn để giết nhau.
Thời
ấy, tiểu vương Herode nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng:
"Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có
quyền năng làm phép lạ."
2.1/
Lý do của thù hận: Có
hai lý do chính:
(1)
Vì Gioan Tẩy Giả dám nói thật: "Số là vua Herode đã bắt trói ông Gioan và
tống ngục vì bà Herodia, vợ ông Philíp, anh của nhà vua. Ông Gioan có nói với
vua: "Ngài không được phép lấy bà ấy." Vua muốn giết ông Gioan, nhưng
lại sợ dân chúng, vì họ coi ông là ngôn sứ." Herode Antipas đã phạm hai tội:
(1) tội rẫy người vợ trước của mình là con vua Nabatean Arabs; và (2), tội loạn
luân, lấy chị dâu của anh mình là Philip.
(2)
Vì sợ ảnh hưởng của Gioan Tẩy Giả trên dân chúng: Sử gia Josephus cho đây là lý
do chính để Herode giết Gioan Tẩy Giả (Ant 18, 5, 2). Là tiểu vương, ông không
muốn có bất kỳ sự đối nghịch nào. Đây cũng là lý do tại sao Thượng Hội Đồng muốn
tiêu diệt Chúa Giêsu.
2.2/
Cái chết của Gioan Tẩy Giả: Cả vua Herode và bà Herodia đều phải chịu trách nhiệm cho cái chết
của Gioan Tẩy Giả. Trình thuật kể nguyên do cái chết như sau: "Nhân ngày
sinh nhật của vua Herode, con gái bà Herodia đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt
quan khách, làm cho nhà vua vui thích. Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua
cũng ban cho."
(1)
Phản ứng của bà Herodia: Cô con gái không biết nên xin gì; vì thế, cô chạy lại
để hỏi mẹ. Nghe lời mẹ xui bảo, cô thưa với vua Herode: "Xin ngài ban cho
con, ngay tại chỗ, cái đầu ông Gioan Tẩy Giả đặt trên mâm."
Một
bà mẹ nuôi thù hận, tàn nhẫn, vô luân, và phản giáo dục như bà mẹ này, làm sao
Bà có thể giáo dục con nên người? Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đó. Cô con
gái sau này cũng sống một cuộc đời loạn luân và tàn nhẫn như mẹ cô vậy.
(2)
Phản ứng của vua Herode: "Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại
thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. Vua sai người vào ngục chặt
đầu ông Gioan. Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho cô, và cô ta đem
đến cho mẹ."
Tất
cả mọi sự kiện chứng minh Herode không phải là một anh quân: ly dị vợ, lấy vợ của
anh, thề hứa vô lối, giữ lời thề cách không công bằng, và vi phạm đến sự sống của
người công chính.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Mọi người trong thế gian đều là con chung của một cha trên trời; vì thế, chúng
ta đều là anh/chị/em với nhau. Thiên Chúa muốn chúng ta phải yêu thương và chia
sẻ cho nhau tất cả những hồng ân và của cải Ngài ban.
-
Chúng ta phải loại trừ mọi hình thức ghen ghét, thù hận, bất công, và giết người
dưới bất cứ hình thức nào; đồng thời, biết noi gương Thiên Chúa để luôn yêu
thương và tha thứ cho mọi người.
-
Khi làm chứng cho sự thật và đấu tranh cho công bằng, chúng ta có thể bị cầm tù
và bị chém đầu như Gioan Tẩy Giả.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
01/08/15 THỨ BẢY ĐẦU
THÁNG TUẦN 17 TN
Th. An-phong Ma-ri-a Li-gô-ri, giám mục
Mt 14,1-12
Th. An-phong Ma-ri-a Li-gô-ri, giám mục
Mt 14,1-12
Suy niệm: “Điều đáng sợ nhất chính là nỗi
sợ của chúng ta” (Tổng
thống Mỹ Roosevelt). Đường đường là một vị vua, nhưng Hê-rô-đê rất yếu hèn:
cuộc đời ông đầy những nỗi sợ. Đầu tiên là sợ Gio-an, sợ lời phê bình thẳng
thắn của ông này về việc loạn luân của mình. Ông muốn giết ông Gio-an, nhưng
lại sợ dân chúng, vì dân tôn sùng Gio-an như ngôn sứ. Ông cũng sợ quan khách
chê cười nên không đủ can đảm rút lại lời thề, dù biết lời thề ấy rất dại dột.
Ông sợ khuôn mặt hờn dỗi của bà Hê-rô-đi-a hơn là sợ tiếng lương tâm khiển
trách. Ông sợ bị mất quyền lực, sợ người khác nghĩ xấu về mình, sợ người mình
yêu giận dỗi đến nỗi biết là tội ác mà vẫn ra tay thi hành. Chính nỗi sợ đã đẩy
Hê-rô-đê đi từ tội này đến tội khác.
Mời Bạn: “Sợ một điều gì là cho phép nó
có quyền lực trên bạn” (Ngạn
ngữ Moor). Nỗi sợ khiến bạn trở thành nô lệ, mất đi tự do của người con cái
Chúa. Sợ khổ, sợ mệt, sợ nhọc, sợ mất đi sự an toàn của bản thân sẽ khiến bạn
không dám vượt qua sự ích kỷ an nhàn của bản thân để dấn thân hơn cho hội đoàn,
hội dòng, Giáo Hội... Hiện nay nỗi sợ lớn nhất của bạn là gì?
Sống Lời Chúa: Tôi
dám vượt lên nỗi sợ mất tiện nghi, an nhàn của bản thân để tích cực tham gia
các sinh hoạt hội đoàn, hay các việc thiện nguyện xã hội.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã vượt qua những nỗi sợ cho bản thân để
sống trọn thánh ý Chúa Cha. Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, cũng vượt
lên trên những nỗi sợ vu vơ của dư luận chê cười, của “ném đá” chê bai vì dám
nói lên sự thật về Chúa và về con người. Xin cho chúng con không vì sợ mà đi xa
đường lối Chúa. Amen.
Vì đã trót thề
Rút lại một lời hứa có khi còn khó hơn giữ lời hứa
ấy. Tôi không dám nhận lỗi, vì tôi muốn mình vẫn đúng. Xin Chúa đưa tôi ra khỏi
cơn mê muội của tôi.
Suy niệm:
Theo các sách Tin Mừng, Gioan
bị giết trong khung cảnh một bữa tiệc.
Đó là tiệc mừng sinh nhật
Hêrôđê Antipas là tiểu vương vùng Galilê và Pêrê.
Nếu thế, bữa tiệc này hầu
chắc diễn ra ở Tiberias,
một thành gần hồ Galilê, nơi
Hêrôđê đặt trung tâm quyền lực của mình.
Gioan bị giết vì dám phản
đối cuộc hôn nhân bất hợp pháp
giữa Hêrôđê với bà Hêrôđia
là vợ của Philíp,
người anh cùng cha khác mẹ
với mình.
Chuyện ngoại tình của Hêrôđê
bị Gioan Tẩy giả kết án là có thể hiểu được.
“Ngài không được phép lấy bà
ấy” (c. 4).
Lấy vợ của người anh em là
phạm đến Luật Chúa (Lv 18, 16; 20, 21).
Gioan là một ngôn sứ không
lùi bước trước sự bất công.
Ông đã sẵn sàng bênh vực sự
thật, dù ông biết cái giá phải trả.
Hêrôđê đã dùng quyền lực để
ép Gioan phải im miệng.
Ông bắt Gioan, xiềng lại và
tống vào ngục.
Chỉ vì sợ phản ứng của dân
chúng mà Hêrôđê chưa muốn giết Gioan.
Bữa tiệc sinh nhật của
Hêrôđê hẳn có nhiều quan khách tham dự.
Chuyện cô công chúa như
Salômê, con bà Hêrôđia, múa cho quan khách xem,
là một chuyện lạ, nhưng vẫn
có thể đã xảy ra.
Không rõ vì cô xinh đẹp hay
vì múa giỏi mà Hêrôđê ngây ngất (c. 6).
Từ đó Hêrôđê không còn đủ
sáng suốt, tỉnh táo,
khi vội vã đưa ra một lời
hứa kèm theo lời thề với cô.
Cô muốn xin gì, nhà vua cũng
thề hứa ban cho (c. 7).
Chúng ta thấy Hêrôđê đã tự
đưa mình vào thế kẹt dại dột và nguy hiểm.
Ông đã không lường được hậu
quả của chuyện đó.
Hêrôđia chỉ chờ cơ hội này
để thanh toán kẻ dám phá hạnh phúc của bà.
Bà đã xúi con gái xin ngay
thủ cấp của Gioan, đặt trên mâm.
Hêrôđê hẳn đã lặng người khi
nghe cô bé xin điều ấy.
Ông lấy làm đau buồn vì đây
thật là chuyện không ngờ (c. 9).
Ông bị đặt trước một chọn
lựa: giết hay không giết Gioan.
Đám đông quan khách tạo một
áp lực vô hình trên ông.
Vì đã lỡ thề hứa trước mặt
họ, nên ông không dám rút lại.
Ông sợ rút lại sẽ bị mang
tiếng là nuốt lời, và sẽ bị mất uy tín.
Hêrôđê đã chọn mình, chọn
danh dự và cái ghế của mình hơn.
Ông hy sinh Gioan để giữ
được tiếng tăm và tình yêu với bà Hêrôđia.
Làm sao chúng ta có can đảm
nhận ra mình sai lầm và dừng lại?
Làm sao chúng ta không bị
cuốn từ tội này sang tội khác?
Rút lại một lời hứa có khi
còn khó hơn giữ lời hứa ấy.
Hêrôđê là người bị nô lệ bởi
nỗi sợ, sợ Gioan, sợ dân, sợ quan khách…
Đúng hơn là ông sợ mất chính
mình, sợ người ta nghĩ xấu về mình.
Có những lúc chợt tỉnh ngộ,
tôi vẫn ngần ngại không muốn nhận mình sai.
Tôi không dám nhận lỗi, vì
tôi muốn mình vẫn đúng.
Xin Chúa đưa tôi ra khỏi cơn
mê muội của tôi.
Cầu nguyện:
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng Tám
1
THÁNG TÁM
Tại
Sao Thiên Chúa Cho Phép Sự Dữ Xảy Ra?
Thánh
Kinh đảm bảo rằng “sự ác không lướt thắng được sự khôn ngoan” (Kn 7,30). Điều
đó khích lệ chúng ta xác tín rằng trong kế hoạch quan phòng của Đấng Tạo Hóa, rốt
cục sự dữ cũng ‘chịu thua’ sự thiện. Trong ánh sáng của sự quan phòng thần
linh, chúng ta bắt đầu hiểu hai sự thật này: một là, “Thiên Chúa không muốn sự
dữ vì chính nó”; hai là, “Thiên Chúa cho phép điều dữ xảy ra”.
Để
hiểu tại sao “Thiên Chúa không muốn sự dữ vì chính nó”, chúng ta cần nhớ lại những
lời trong Sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa không làm ra cái chết; Ngài cũng chẳng
vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Ngài đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu”
(Kn 1,13-14).
Để
hiểu tại sao Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra giữa những sự vật thể lý, rất cần
nhớ lại rằng vật chất thể lý – trong đó có thân xác con người – là những thứ dễ
hư nát và tiêu vong. Chúng ta cần nhấn mạnh rằng điều này ảnh hưởng đến chính
cơ cấu của bản tính vật chất của các tạo vật này. Nhưng điều này hoàn toàn
lô-gíc. Thật khó mà hình dung rằng các thụ tạo vật chất có thể tồn tại mà không
bị giới hạn trong tình trạng hiện hữu của thế giới vật chất chúng ta. Như vậy,
chúng ta có thể hiểu rằng nếu “Thiên Chúa không làm ra cái chết” – như Sách
Khôn Ngoan khẳng định – thì đồng thời Ngài vẫn cho phép cái chết xảy ra, trong
viễn tượng của sự tốt lành phổ quát của toàn vũ trụ vật chất.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
01-8 : Thánh ALPHONSÔ LIGUORI
Lv
25, 1. 8-17; Mt 14, 1-12
LỜI SUY NIỆM: Trong câu chuyện vua Hêrôđê, nghe danh về Chúa Giêsu với các phép lạ của Ngài làm. Hêrôđê đã liên tưởng đến Gioan Tẩy Giả, bởi vì nhà vua đã xúc phạm và bắt giam một người công chính, với một lý do là Gioan đã tố cáo nhà vua về tội chiếm đoạt vợ của anh mình, tội đã không dừng lại ở đó và đã lún sâu vào việc giết chết Gioan, vì thỏa mãn một màn vũ của con gái, vì một lời hứa thiếu cân nhắc; đã làm ám ảnh suốt đời của nhà vua. Điều này giúp cho chúng ta phải luôn biết lắng nghe những lời tố cáo phê bình về mình, nhất là tiếng nói của lương tâm để mà sửa đổi đời mình nên tốt hơn. Luôn tỉnh thức để chiến đấu với các cám đỗ, từ phạm tội nhỏ sẽ lún sâu vào trọng tội về sau, nguy hiểm cho cả xác lẫn hồn.
Mạnh
Phương
Gương Thánh nhân
Ngày 01-08
Thánh ALPHONSÔ
LIGUORI
Gíam mục, Tiến Sĩ Hội
Thánh (1696 - 1787)
Thánh
Alphongsô Maria Liguori sinh ngày 27 tháng 9 năm 1696 tại Marinella gần Naples
và là con trưởng trong 7 anh em. Ngay từ trong nôi, Ngài là giao điểm tập hợp
ân huệ đáng mơ ước như trí thông minh, danh giá, tài sản, thiên khiếu nghệ thuật
và một tấm lòng đại độ.
Trong
khi đó người mẹ rất đạo hạnh nghĩ rằng: - Các ân huệ tốt đẹp nhất sẽ chẳng có
giá trị gì nếu không hướng về Chúa. Người lãnh nhiều phải trả nhiều.
Như
vậy ân phúc kỳ diệu nhất mà Alphongsô nhận được chính là giáo huấn của người mẹ.
Alphongsô học tiếng Hy lạp, tiếng Latinh, tiếng Pháp và toán. Ngài say mê âm nhạc
và hội họa. Là một con người có chí. Alphongsô gây ảnh hưởng tốt đối với chúng
bạn. Bằng sự trong trắng tế nhị và lòng đạo đức của mình. Một người bạn kể lại
rằng: có lần thua cuộc chơi và giận dữ đến độ trở nên sỗ sàng. Alphongsô buồn
phiền nghỉ chơi và nói: - "Chúa không muốn tôi được chút tiền đã khiến cho
bạn làm phiền lòng Ngài"
Thế
rồi Alphongsô biến mất vào vườn. Các bạn đổ xô đi tìm Ngài và gặp Ngài đang quỳ
cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ đặt trên cành cây. Người bạn xấu xúc động nói : -
"Tôi đã làm phiền một vị thánh".
Alphongsô
thành công rất sớm trên cùng đời. 17 tuổi Ngài đậu bằng tiến sĩ luật khoa cả về
giáo luật lẫn dân luật và đã bắt đầu hành nghề luật sư. Khả năng hùng biện của
Ngài hứa hẹn một tương lai sáng lạn. Nhưng tuổi trẻ cũng có cớ dẫn Ngài tới lỗi
lầm với trong hậu quả bi thảm, năm 1723 trong một vụ kiện, Ngài biện hộ với một
giọng nói hùng hồn. Lý lẽ vững chắc, làm cho cả tòa án phải ngỡ ngàng tán thưởng.
Nhưng khi vừa dứt lời, đối thủ ôn hoà vạch ra một lỗi nhỏ mà Ngài không nhận thấy.
Chính lỗi nhỏ đó đã tiêu hủy luận chứng lẫn danh tiếng của Ngài.
Thất
bại Alphongsô rất đau buồn và đã đóng cửa phòng hai ngày liền. Ngài suy nghĩ và
tự hỏi rằng: "Đây không phải là lời mời gọi của Chúa hay sao ...? Bỏ nghề,
Ngài nói : - "Ôi thế gian, ta đã biết ngươi. Hỡi pháp đình, ngươi sẽ không
còn gặp ta nữa".
Ngài
tìm đường sống và dấn thân cho công cuộc bác ái. Một ngày kia, đang khi thăm viếng
các bệnh nhân trong một nhà thương, Ngài nghe hỏi: - "Ngươi làm gì ở thế
gian này ?"
Nhìn
chung quanh Ngài không thấy ai, nhưng Ngài vẫn nghe hỏi một lần nữa. Vào một
nguyện đường dâng kính Đức Mẹ từ bi gần đó, Ngài hứa sẽ gia nhập dòng giảng
thuyết và làm linh mục. Đặt thanh gươm trên bàn thờ Ngài nói:- "Lạy Chúa
này con đây, xin hãy làm nơi con điều đẹp lòng Chúa. Con là gì và con có chi,
con xin hiến dâng để phụng sự Chúa".
Nghe
tin này cha Ngài giận dữ, Ngài quyết bỏ nghề, bỏ cả vị hôn thê của Ngài sao ?
Ngài đã trả lời rằng: đối với Chúa chẳng có hy sinh nào gọi là quá lớn lao cả.
Ngài cương quyết giữ ý định và cha Ngài không thèm nhìn đến Ngài nữa. Năm 1726,
Ngài thụ phong linh mục.
Thánh
nhân rao giảng khắp vương quốc Naples. Cha Ngài giận dữ quyết không chịu nghe.
Ngày kia ông vào một thánh đường, đúng lúc con ông đang thuyết giảng. Thoạt đầu
ông giận dữ, nhưng rồi dần dần ông mềm lòng. Ơn Chúa đã đến nhờ lời giảng dạy của
con ông. Kết thúc giờ phụng vụ ra về ông nói: "Con tôi đã làm cho tôi được
biết Chúa".
Suốt
đời, thánh Alphongsô không những chỉ nỗ lực trong công việc tri thức mà còn lo
tiếp xúc với dân chúng. Ngài chỉ thích việc ngồi tòa hơn là việc nghiên cứu.
Ngài mang đặc điểm của một linh mục truyền giáo. Thành quả của Ngài thực hiện
được chính là dòng Chúa Cứu Thế, thành lập tại Scala tháng 11 năm 1732. Dầu cho
từ đầu, hội dòng đã bị phân rẽ thành hai phe và thánh Alphongsô phải khởi đầu lại,
với hai người bạn, nhưng hội dòng cũng khởi sự lớn dần. Dòng được chuẩn nhận
ngày 21 tháng 2 năm 1749.
Năm
1548 thánh nhân xuất bản bộ thần học luân lý, được đức giáo hoàng Bênêdictô XIV
phê chuẩn và gặt trong nhiều thành quả tức thời.
Năm
1762 Đức Clementô XIV đặt Ngài làm giám mục cai quản địa phận Agata. Ngài nỗ lực
thăng tiến lòng đạo đức trong điạ phận, khởi sự từ viêc canh tân hàng giáo sĩ.
Năm 1775 Ngài được đức giáo hoàng Piô VI cho phép từ nhiệm để về sống trong
dòng tại Nocera.
Những
năm cuối đời, thánh Alphongsô đã trải qua rất nhiều đau khổ cả thể xác lẫn tinh
thần. Dầu trong "đêm tối của linh hồn" Ngài vẫn không nao núng và
luôn kiên trì cầu nguyện. Ngài nói: "Ai cầu nguyện sẽ được cứu thoát, ai
không cầu nguyện sẽ tự luận phạt". Cuối cùng Ngài tìm được bình an và qua đời
năm 1787.
(daminhvn.net)
01
Tháng Tám
Bài Giảng Của Vị
Giáo Trưởng
Trong
một thị trấn nhỏ bên Liên Xô. Một số người Do Thái đang chờ đón vị giáo trưởng
của họ. Đã lâu lắm cộng đoàn của họ không có người lãnh đạo. Vị giáo trưởng lại
cư ngụ trong một thành phố khác. Ông chỉ đến thăm cộng đoàn nhỏ bé này mỗi năm
một lần. Ai ai cũng náo nức được gặp con người thánh thiện nổi tiếng này. Mọi
người chuẩn bị những câu hỏi mà họ sẽ lần lượt nêu lên để xin vị giáo trưởng giải
đáp.
Khi
ông đến nơi, sự căng thẳng càng hiện lên trên nét mặt của nhiều người. Ai cũng
đang trong tư thế giơ tay để đặt câu hỏi. Nhưng khi mọi người đã an tọa trong
phòng họp, vị giáo trưởng không nói lời nào. Ông đưa mắt nhìn mọi người. Một hồi
lâu, ông bỗng ngân nga một điệu nhạc. Mọi người đều bắt chước làm theo. Vị giáo
trưởng lại cất tiếng hát lên một bài ca quen thuộc. Mọi người cũng hát theo
ông... Mọi người tưởng nghi thức mở đầu ấy sẽ chấm dứt và vị giáo trưởng sẽ nói
lên những lời vàng ngọc.
Nhưng
không, trái với sự chờ đợi của mọi người, hết bài ca này đến bài ca khác, ông
không ngừng bắt lên những bài ca mới. Khi các bài ca vừa dứt, ông bước xuống khỏi
bục giảng và bắt đầu nhảy múa. Ông vừa nhảy vừa vỗ tay, không mấy chốc cả cử tọa
cũng bước ra khỏi ghế và nhảy theo ông. Tiếng vỗ tay, tiếng hát, tiếng nhịp
chân lôi kéo mọi người vào điệu múa khiến họ không còn nhớ đến những câu hỏi mà
họ đã chuẩn bị từ mấy hôm trước. Cả cộng đoàn hòa nhịp với nhau trong đôi chân,
cùng nắm tay nhau, cùng khăng khít với nhau trong phấn khởi, vui tươi, cảm
thông, hiệp nhất...
Khi
các điệu vũ đã chấm dứt, mọi người trở về chỗ ngồi của mình. Lúc bấy giờ, vị
giáo trưởng mới lên tiếng nói và ông chỉ nói có vỏn vẹn một câu ngắn ngủi như
sau: "Tôi tin chắc rằng tôi đã trả lời cho mọi thắc mắc của anh chị
em".
Cô
đơn là nguyên nhân gây ra mọi thứ xáo trộn, bệnh tật trong chúng ta. Cô đơn đưa
chúng ta đến sầu muộn. Sầu muộn đưa chúng ta đến nổi loạn. Nổi loạn đưa chúng
ta đến tội ác...
Có
những người bị người khác đày đọa cô đơn, nhưng cũng không thiếu những người tự
giam hãm vào cô đơn. Nhưng đày đọa kẻ khác vào cô đơn cũng có nghĩa là cắt bớt
đi một sợi dây liên kết, là tiến dần đến chỗ cô đơn.
Để
ra khỏi cô đơn, liều thuốc duy nhất chính là làm cho người khác bớt cô đơn. Một
tiếng hát vui tươi cất lên để mời gọi mọi người cùng hát với mình, một tiếng vỗ
tay tung ra để mời gọi mọi người cùng phấn khởi với mình, một nhịp bước đưa ra
để mời gọi mọi người cùng nhảy múa với mình: khi hòa nhịp với nhau trong một niềm
vui chung, người ta sẽ xóa đi được bao nhiêu vấn đề vướng mắc trong tâm tư.
Có
ra khỏi chính mình để chia vui sẻ buồn với người, có ra khỏi chính mình để chỉ
nghĩ đến những ưu tư phiền muộn của người, có ra khỏi chính mình để lo lắng cho
người, để giúp đỡ người, chúng ta mới làm vơi đi được nỗi cô đơn của mình và
cũng giúp người bớt cô đơn.
Cho
thì có phúc hơn nhận lãnh: càng trao ban, càng ra khỏi chính mình, chúng ta mới
cảm thấy vơi nhẹ đi những ưu tư, lo lắng của mình...
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét