Ngày 22 tháng 7
Lễ Thánh nữ Maria
Mađalêna
Lễ Nhớ
* Vốn là người phụ nữ tội lỗi đã được
Chúa Giêsu ban ơn tha thứ, Maria Mađalêna đã hết tình phục vụ Người. Trong cuộc
thương khó, khi các Tông Đồ mạnh ai nấy chạy thì thánh nữ đã can đảm đứng dưới
chân thập giá Đức Giêsu, cùng với Đức Maria, tông đồ Gioan và một số phụ nữ
khác. Đức Giêsu đã tưởng thưởng lòng trung thành đơn sơ của thánh nữ khi hiện
ra với thánh nữ sáng ngày phục sinh và trao cho thánh nữ trách nhiệm loan báo
Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ của Người.
Chẳng phải vô cớ mà phụng vụ Đông phương
đã gọi thánh nữ là “tông đồ của các tông đồ”.
Bài
Ðọc I: Dc 3, 1-4a
"Tôi
đã gặp người tôi yêu".
Trích
sách Diễm Ca.
Suốt
đêm trên giường ngủ, tôi đã tìm kiếm người tôi yêu: Tôi đã tìm kiếm chàng, nhưng
tôi không gặp được chàng. Tôi chỗi dậy, và đi quanh thành phố, đi qua các phố
xá và công trường, tôi tìm kiếm người tôi yêu. Tôi đã tìm kiếm chàng, nhưng tôi
không gặp được chàng. Các người lính canh gác thành phố gặp tôi và tôi hỏi họ:
"Các anh có thấy người tôi yêu không?" Tôi vừa đi qua khỏi họ, thì gặp
ngay người tôi yêu.
Ðó
là lời Chúa.
Hoặc: 2
Cr 5, 14-17
"Từ
nay chúng ta không biết Ðức Kitô theo xác thịt nữa".
Trích
thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh
em thân mến, lòng mến của Ðức Kitô thúc bách chúng ta; chúng ta xác tín điều
này là một người đã chết vì mọi người, vậy mọi người đều đã chết. Và Ðức Kitô
đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, thì không còn sống cho chính
mình nữa, mà là sống cho Ðấng đã chết và sống lại vì họ. Vì thế, từ nay chúng
ta không còn biết ai theo xác thịt nữa. Mặc dù nếu chúng ta đã biết Ðức Kitô
theo xác thịt, thì giờ đây chúng ta không còn biết như thế nữa. Vậy nếu ai đã
trở nên một tạo vật mới trong Ðức Kitô, thì những gì cũ đã qua rồi, vì đây mọi
sự đều được trở nên mới.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 8-9
Ðáp: Lạy Chúa là
Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa (c. 2b).
Xướng:
1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh
hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa như đất héo khô, khát mong mà
không gặp nước! - Ðáp.
2)
Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng
và vinh quang của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống; miệng
con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài. - Ðáp.
3)
Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con, con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn
con được no thoả dường như mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp
môi hoan hỉ. - Ðáp.
4)
Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của
Ngài. Linh hồn con bám thân vào Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người con. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Hỡi Maria, hãy nói cho chúng tôi biết bà đã thấy gì trên đường?
-Tôi đã thấy mộ của Ðức Kitô hằng sống và vinh quang của Ðấng sống lại. -
Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 20, 1. 11-18
"Bà
kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?"
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày
đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối, và bà thấy tảng
đá đã được lăn ra khỏi mồ.
(Bà
liền chạy về tìm Simon Phêrô và người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến, bà
nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi
không biết người ta để Thầy ở đâu".)
Bà
Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc, nhìn vào trong mồ, bà thấy hai
thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía
đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?"
Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi, và tôi không biết người ta
đã để Người ở đâu?" Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã
đứng đó. Nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu.
Chúa
Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn,
Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết
ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi:
"Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni", nghĩa là
"Lạy Thầy". Chúa Giêsu bảo bà: "Ðừng động đến Ta, vì Ta chưa về
cùng Cha Ta. Nhưng hãy báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: "Ta về
cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các
con".
Maria
Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa, và Chúa
đã phán với tôi những điều ấy".
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Nồng Nhiệt Ði Tìm Chúa
Maria
Mađalêna là mẫu gương cho chúng ta, mẫu gương với tình yêu nồng nhiệt đi tìm
Chúa, một tình yêu luôn thao thức muốn được sống gần bên Chúa. Và vì thế mà
sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Maria vội vàng lên đường đi tìm Chúa. Ðây là
quan tâm đầu tiên, quan tâm có ưu tiên trong cuộc sống của Maria, và khi chưa
tìm được đối tượng là Chúa Giêsu trong ngôi mộ đã an táng Chúa, Maria đứng
ngoài và khóc.
Chúa
Giêsu phục sinh đã không để cho Maria gặp thử thách lâu. Chúa đến với Maria và
gọi đích danh bà, rồi biến đổi cuộc đời từ bên trong để sai bà đi làm người chứng
đầu tiên cho Ðấng phục sinh nơi các môn đệ Chúa. Trong biến cố được ghi lại
trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây, chúng ta thấy rằng để gặp được
Chúa Giêsu, những cố gắng riêng của con người không mà thôi thì chưa đủ. Chính
Chúa Giêsu phục sinh là người đi bước đầu, Chúa hiện ra và gọi: Maria. Chúa đáp
lại thiện ý và cố gắng của Maria. Chúa luôn làm như vậy với tất cả những ai
thành tâm tìm Chúa.
Chúng
ta hãy noi gương Maria luôn đi tìm Chúa. Tìm Chúa trong lời cầu nguyện ngõ hầu
cuối cùng chính Chúa mạc khải chính mình ra cho kẻ tìm Ngài, ngõ hầu chúng ta
có thể nhận ra Ngài và loan báo cho anh chị em chung quanh: tôi đã gặp Chúa,
tôi đã nhìn thấy Chúa.
Lạy
Chúa,
Xin
cho con được gặp Chúa. Xin đừng để con phải rời xa Chúa là Thiên Chúa mãi mãi.
Veritas Asia
Thứ Tư sau Chúa Nhật
16 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) Xh 16, 1-5. 9-15
"Ta
sẽ cho mưa bánh từ trời rơi xuống".
Trích
sách Xuất Hành.
Con
cái Israel rời bỏ Êlim và đến hoang địa gọi là Sin, nằm giữa Êlim và Sinai, nhằm
ngày mười lăm tháng hai, kể từ khi rời bỏ đất Ai-cập. Toàn thể cộng đoàn con
cái Israel kêu trách Môsê và Aaron, họ nói với hai ông rằng: "Thà chúng
tôi chết trong đất Ai-cập do tay Chúa, khi chúng tôi ngồi kề bên nồi thịt và ăn
bánh no nê. Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết
đói như vầy?"
Chúa
liền phán cùng Môsê rằng: "Ðây Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa:
dân chúng phải đi lượm bánh đủ ăn mỗi ngày, để Ta thử coi dân có tuân giữ lề luật
của Ta hay không. Nhưng mỗi ngày thứ sáu phải lấy gấp đôi phần mình quen lượm hằng
ngày".
Môsê
nói cùng Aaron rằng: "Hãy ra lệnh cho toàn thể cộng đoàn con cái Israel biết:
Phải đến trước mặt Chúa, vì Người đã nghe lời các ngươi kêu trách rồi". Ðang
khi Aaron nói cùng toàn thể cộng đoàn con cái Israel, họ nhìn về phía sa mạc,
thì đây vinh quang của Chúa hiện ra trong đám mây. Và Chúa phán cùng Môsê rằng:
"Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel; ngươi hãy nói với họ rằng:
"Chiều nay các ngươi sẽ ăn thịt, và sáng mai sẽ ăn bánh no nê, như thế các
ngươi sẽ nhận biết rằng Ta là Thiên Chúa các ngươi".
Chiều
hôm ấy, có chim cút bay tới che rợp các trại, và sáng hôm sau có sương sa xuống
quanh trại. Tới lúc sương tan trên mặt đất, thì thấy có vật gì nho nhỏ tròn
tròn như hột sương đông đặc trên mặt đất. Con cái Israel thấy vậy, liền hỏi
nhau rằng: "Man-hu", có nghĩa là "Cái gì vậy?", vì họ không
biết là thứ gì. Môsê liền nói với họ: "Ðó là bánh do Chúa ban cho anh em
ăn".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 77, 18-19. 23-24. 25-26. 27-28
Ðáp: Chúa đã ban
cho họ được bánh bởi trời (c. 24b).
Xướng:
1) Họ đã thử thách Thiên Chúa trong lòng, bằng cách đòi lương thực theo sở
thích. Họ buông lời nói nghịch cùng Thiên Chúa, rằng: "Thiên Chúa dọn được
bàn ăn trong hoang địa này chăng?" - Ðáp.
2)
Nhưng Người đã ra lệnh cho ngàn mây trên cõi cao xanh, và Người đã mở rộng các
cửa trời, Người đã làm mưa Manna xuống để họ ăn, và Người ban cho họ được bánh
bởi trời. - Ðáp.
3)
Con người được ăn bánh của những bậc hùng anh; Người đã ban cho họ lương thực
ăn tới no nê. Người đã khiến gió đông từ trời nổi dậy, và trổ quyền năng dẫn luồng
gió Nam thổi tới. - Ðáp.
4)
Người làm cho thịt mưa xuống trên họ như thể bụi tro, và những loài cầm điểu
rơi xuống tựa hồ cát biển. Chúng đã rơi rớt vào trong dinh trại, chung quanh mọi
nơi cư xá của họ. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 14, 23
Alleluia,
alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến
người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 13, 1-9
"Nó
sinh hoa kết quả gấp trăm".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Ngày
ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh
Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng
thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Người nói:
"Này
đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường,
chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền
mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không
đâm rễ sâu, nên nó khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết
nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt
được sáu mươi, hạt ba mươi. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Hạt
Giống Lời Chúa
Một
em bé 13 tuổi bị phong cùi và bị xua đuổi ra khỏi làng, có nhà truyền giáo nọ
đưa em về nhà nuôi dưỡng, săn sóc. Cảm động trước tấm lòng tốt của nhà truyền
giáo, em bé hỏi:
-
Tại sao ông quan tâm lo lắng cho tôi như vậy?
Nhà
truyền giáo trả lời:
-
Bởi vì Thiên Chúa là Cha đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Ngài. Ngài yêu
thương chúng ta và muốn chúng ta yêu thương liên đới với nhau. Ngài đã sai Con
Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô xuống trần gian để dạy mỗi người chúng ta sống xứng
đáng với phẩm giá con người, vì thế vâng lời Ngài dạy, cha săn sóc cho con.
Từ
đó, em bé này không bao giờ quên được cử chỉ yêu thương của nhà truyền giáo. Chẳng
những thế, em còn xin làm môn đệ Chúa Giêsu và dùng thời gian còn lại để săn
sóc cho những người phong cùi khác tại trung tâm của nhà truyền giáo.
"Vâng
lời Chúa dạy, tôi săn sóc phục vụ anh chị em". Ðó là điều Thiên Chúa, qua
hình ảnh của người gieo giống trong Tin Mừng hôm nay mong đợi nơi những môn đệ
Chúa Kitô, những kẻ đã lãnh nhận hạt giống ân sủng và Lời Chúa trong cuộc đời của
mình. Câu chuyện trên đây là một trong muôn vàn sự kiện cụ thể để chứng minh Lời
Chúa qua các thế hệ phải trổ sinh hoa trái tốt đẹp trong lịch sử cuộc đời con
người. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện công việc của Ngài, nhưng nhiều khi
chính con người từ chối chấp nhận Ngài và làm cho hạt giống ân sủng và Lời Chúa
không trổ sinh được.
Người
Kitô hữu chúng ta có thể biến những cánh đồng xã hội thành những cánh đồng tốt
tươi, hoặc làm cho chúng trở thành những cánh đồng hoang, cỏ lác mọc um tùm. Ước
gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức bổn phận làm cho hạt giống Lời Chúa trổ
sinh hoa trái tốt đẹp, có sức biến đổi cuộc đời mình và làm chứng cho tình yêu
Chúa nơi những người chúng ta gặp gỡ.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Tư Tuần 16 TN1,
Năm lẻ. St. Mary Magdala
Bài
đọc:
Exo 16:1-5, 9-15; Jn 20:1, 11-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Người ta sống không
phải chỉ nhờ cơm bánh.
Nhu
cầu ăn uống tuy là nhu cầu căn bản của con người; nhưng không phải là tất cả
nhu cầu của cuộc sống con người. Cám dỗ của ma quỉ xưa cũng như nay là làm cho
con người giản đơn tất cả cuộc đời vào nhu cầu ăn uống này, như chúng đã từng
cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc: "Ông hãy biến những hòn đá này thành bánh,
thì người ta sẽ tin và theo ông." Chẳng lạ gì mà rất nhiều người thời nay
dành hầu như trọn ngày cho nhu cầu này: lao động, mua thực phẩm, nấu nướng, ăn
uống ... đến nỗi chẳng còn thời giờ cho các nhu cầu tâm linh, trí tuệ, và tình
cảm!
Các
Bài Đọc hôm nay cho hai ví dụ tương phản của những người tìm vật chất và người
tìm Chúa. Trong Bài Đọc I, chỉ mới một tháng sau biến cố xuất hành qua Biển Đỏ,
dân Israel đã quên tình thương và uy quyền của Thiên Chúa, và họ nhớ những đồ
ăn thức uống bên Ai-cập. Họ than phiền với ông Moses: "Phải chi chúng tôi
chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả
thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt
chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!" Trong Phúc Âm, vì yêu mến Chúa, nên
bà Mary Magdala đã ra mộ tìm Chúa khi mọi người vẫn còn an giấc. Hiểu tình
thương của Bà, Chúa Giêsu đã tỏ cho Bà thấy Ngài vẫn sống, và truyền cho Bà
mang Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Hiểu biết về Thiên Chúa giúp con người tránh được tầm nhìn thiển cận.
1.1/
Cái nhìn thiển cận của con người: Những lời ta thán của con cái Israel cho chúng ta
thấy họ đã quên đi mục đích, tình thương, và uy quyền của Thiên Chúa; mà chỉ
còn bận tâm đến
nhu
cầu ăn uống của con người. Một sự nhìn lại sẽ cho ta thấy rõ tầm quan trọng của
vấn đề:
(1)
Mục đích: Thiên Chúa giải phóng dân Israel khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập là để
phục hồi nhân phẩm và đem dân vào Đất Hứa mà Ngài đã hứa với các Tổ-phụ. Trước
khi cho dân vào Đất Hứa, Ngài đem dân vào sa mạc để thử thách đức tin và thanh
luyện mọi tính hư tật xấu. Cuộc sống của dân Israel lang thang trong sa mạc 40
năm có thể ví như cuộc đời dương thế của mỗi người. Thiên Chúa muốn con người
chứng tỏ cho Ngài thấy niềm tin yêu của họ vào Thiên Chúa, qua những đau khổ và
thử thách, để xứng đáng được vào Đất Hứa là Thiên Đàng mai sau.
Thời
gian cần thiết để con người nhận ra sự quan trọng của mục đích và để thanh luyện.
Thiên Chúa muốn con người phải chờ đợi và chứng tỏ họ xứng đáng để được vào Đất
Hứa; trong khi con người lại muốn được vào ngay.
(2)
Tình thương: là động lực thúc đẩy Thiên Chúa quan tâm đến những khổ cực mà con
cái Israel phải chịu. Vì tình thương, Thiên Chúa muốn cứu thoát họ khỏi cảnh
làm nô lệ cho người Ai-cập, và cõng họ trên vai như đại bàng cõng con qua Biển
Đỏ. Khi than trách Thiên Chúa và ham muốn "có bánh ăn và ngồi bên nồi thịt"
hơn là được tự do thờ phượng Thiên Chúa, họ đã khinh thường kế hoạch cứu độ và
nghi ngờ tình thương của Thiên Chúa dành cho họ.
(3)
Uy quyền của Thiên Chúa: Dân Israel đã chứng kiến không biết bao nhiêu phép lạ
Thiên Chúa tỏ uy quyền trên người Ai-cập, nhất là phép lạ Chúa cho họ qua Biển
Đỏ an toàn trong khi toàn bộ quân đội Ai-cập bị nhận chìm trong Biển Đỏ. Nếu
Thiên Chúa có thể làm những phép lạ huy hòang như thế, việc cung cấp cho dân có
của ăn thức uống trong sa mạc thấm chi đối với Ngài. Lẽ ra thay vì mở miệng
than trách những lời đau lòng Thiên Chúa, họ biết quỳ gối xuống cầu nguyện xin
Người cho bánh ăn, thì kết quả sẽ tốt đẹp chừng nào!
(4)
Thử thách: là cơ hội để con người chứng tỏ niềm tin. Nếu con cái Israel hiểu biết
những điều trên và luôn suy niệm trong lòng, họ sẽ lợi dụng thử thách để tăng
cường niềm tin và chứng tỏ niềm tin yêu của họ vào Thiên Chúa; chứ không càm
ràm, khó chịu, và thốt lên những lời độc địa xúc phạm đến Thiên Chúa, làm nản
chí các nhà lãnh đạo, và gây gương mù cho người khác. Hơn nữa, dù không muốn bị
thử thách và chịu đau khổ, họ vẫn phải ngang qua tiến trình đó, vì thử thách nằm
trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu họ có thái độ tích cực và lạc quan hơn
để xin sức mạnh của Thiên Chúa, họ có thể vượt qua thử thách và trở thành những
người có bản lãnh hơn, vì gian nan rèn nhân đức.
1.2/
Thiên Chúa có dư quyền năng để cung cấp thực phẩm cho dân trong sa mạc: Đức Chúa phán với
ông Moses: "Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo
chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ
được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của
các ngươi."
Chúa
nói và Chúa giữ lời. Ngài tìm được bánh ăn và thịt cho dân trong sa mạc, nơi
không một cây cỏ nào có thể sống được. Điều này Ngài muốn chứng minh cho con
người: Không chuyện gì là không thể đối với Thiên Chúa. Con người đừng thử
thách uy quyền của Ngài.
(1)
Chim cút: Để cho dân có thịt ăn, "buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả trại."
Thiên Chúa là Đấng dựng nên và điều khiển muôn loài. Theo sự quan phòng khôn
ngoan, Ngài có thể truyền lệnh cho bất kỳ tạo vật nào, chúng phải vâng theo lệnh
của Ngài.
(2)
Manna: Để co dân có bánh ăn, buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. Khi
sương tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ
như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Israel thấy thế, họ liền hỏi nhau:
"Manhu?" có nghĩa: "Cái gì đây?" Vì họ không biết đó là cái
gì. Ông Moses bảo họ: "Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của
ăn!" Manna là hình bóng của Bí-tích Thánh Thể: Nếu Thiên Chúa có thể nuôi
phần xác của dân bằng việc cho manna rơi từ trời xuống trong sa mạc, Chúa Giêsu
có thể nuôi sống phần hồn của con người bằng Bánh Thánh Thể mỗi ngày. Thế mà vẫn
còn biết bao con người nghi ngờ sự hiện diện của Chúa trong BT Thánh Thể!
2/
Phúc Âm:
Cuộc hội ngộ giữa Chúa Giêsu và Mary Magdala.
2.1/
Mary Magdala nhận ra Chúa Giêsu: Bà nhận ra Chúa Giêsu không bằng những gì nghe và thấy
bên ngòai, vì Bà đã nghe và thấy Chúa như trình thuật ở trên; nhưng bằng sự
rung động từ trong trí óc và con tim. Thánh sử Gioan mô tả phút giây hội ngộ giữa
Chúa Giêsu và Mary Magdala thật ngắn ngủi, nhưng vô cùng tuyệt vời. Đức Giêsu gọi
bà: "Mary!" Bà quay lại và nói bằng tiếng Do-thái:
"Rabbouni!" Chỉ có hai con tim đang yêu mới hiểu được ý nghĩa tuyệt vời
của hai tiếng gọi này. Sự kiện Chúa gọi tên Bà gợi lại cho bà nhiều điều: Chúa
đang sống, Ngài nhận ra Bà, Ngài hiểu sự đau khổ của Bà, và Ngài yêu thương Bà.
Nhận ra tiếng gọi thân thương của người mình yêu mến trong khi đang tuyệt vọng
đi tìm, còn gì xúc động và vui mừng hơn, Bà quay lại để nhìn Chúa. Khi nhận ra
Chúa, bà chạy đến, gieo mình xuống ôm chân Ngài, và sung sướng kêu lên “Thầy của
con.”
2.2/
Yêu Chúa không phải giữ chặt Chúa, nhưng làm theo những gì Ngài muốn: Hành động của Mary
Magdala như thầm nói với Chúa: “Con sẽ không để Thầy xa con nữa.” Nhưng Đức
Giêsu bảo bà: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha.
Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: "Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng
là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh
em."" Khác với tình yêu con người, khi con người yêu ai, họ muốn giữ
người họ yêu làm của riêng cho mình; tình yêu Thiên Chúa đòi con người tiếp tục
cho Chúa đi, chứ không giữ Chúa lại làm của riêng cho mình. Con người tìm thấy
niềm vui khi nhìn thấy mọi người yêu Chúa. Chúa Giêsu muốn bảo Mary: Nếu con
thương Thầy, hãy làm cho nhiều người nhận biết Thầy! Thầy còn nhiều anh, chị,
em mà con phải mang tin mừng đến cho họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta không thể nào đơn giản hóa cuộc sống vào những nhu cầu vật chất, vì
con người được Thiên Chúa tạo dựng cho những mục đích cao quí hơn loài vật.
-
Chúng ta phải dành thời giờ để học hỏi Lời Chúa và phát triển đời sống tâm linh
cũng như trí tuệ, để có thể nhận ra sự thật từ giữa bao cám dỗ sai trái và đạt
đích điểm của cuộc đời.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
22/07/15 THỨ TƯ TUẦN 16
TN
Th. Ma-ri-a Mác-đa-la
Ga 20,1-2.11-18
Th. Ma-ri-a Mác-đa-la
Ga 20,1-2.11-18
Suy niệm: Bàng
hoàng trước ngôi mộ trống, bà Ma-ri-a Mác-đa-la tất tả đi tìm “Thầy Giê-su”,
hay đúng hơn, bà đi tìm một chút dấu vết còn lại là thi hài bất động của Ngài.
Thế nhưng, đang lúc bà ràn rụa nước mắt, nước mắt của một tình yêu thống khổ và
tuyệt vọng, bà nhận ra người mà bà đã tưởng lầm bác làm vườn lại là chính Thầy
Giê-su yêu dấu đang gọi bà với tất cả cung giọng trìu mến: “Ma-ri-a!” Như một
chiếc lò xo bung ra mạnh mẽ sau khi bị ép tới cùng cực, lời đáp lại tức khắc
của bà: “Ráp-bu-ni!” là tiếng vọng hoàn hảo trước tình yêu mến của Chúa. Không
chỉ dừng lại đó, mà bằng một động tác cũng nhanh nhẹn không kém, bà chạy đi báo
cho các môn đệ lý do đem lại niềm vui choáng ngợp và sự biến đổi đột ngột của
mình: Bà đã gặp được Chúa phục sinh.
Mời Bạn: Bạn
bế tắc trong cuộc sống do buôn bán làm ăn thất bại? Bạn khủng hoảng tinh thần
vì bệnh tật ngặt nghèo, vì bất ổn gia đình? Bạn than khóc vì đứa con hư hỏng,
người chồng say xỉn, bỏ bê công việc? Bạn đang đau khổ vì người vợ cờ bạc, đua
đòi thời trang? Có một phương cách thần diệu cho bạn. Bạn hãy tìm vị thầy
Giê-su, chạy đến với Ngài và dâng hết nỗi lòng của bạn. Chúa Giê-su quyền năng
sẽ biến nước mắt của bạn thành niềm vui.
Sống Lời Chúa: Quì
trước Thánh Thể Chúa và thưa với Ngài: “Lạy Chúa, xin cho con gặp
Chúa.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang ở đây bên con, nơi những người đang sống
quanh con. Xin cho con khát khao gặp Chúa nơi họ để chúng con tràn ngập niềm
vui có Chúa ở cùng.
Họ để Người ở đâu?
Đời chúng ta nhiều khi như ngôi mộ, mất mát và trống
vắng. Chỉ mong chúng ta tìm kiếm Chúa với rất nhiều tình yêu như chị Maria, vì
biết mình sẽ gặp được điều quý hơn cái mình đã mất.
Suy niệm:
Mối tương quan thân thiết
giữa Đức Giêsu và Maria Mađalêna
đã được một vài tác giả khai
thác và dựng thành truyện.
Từ tiếng nức nở của Maria
Mađalêna bày tỏ tình yêu với Thầy Giêsu
trong vở nhạc kịch nổi
tiếng Jesus Christ Superstar của thập niên 70,
đến chuyện Đức Giêsu bị đóng
đinh mà còn mơ lấy Maria làm vợ, đẻ con,
trong truyện Cơn Cám
Dỗ Cuối Cùng của Nikos Kazantzakis.
Gần đây nhất là cuốn Mật
mã Da Vinci đã hấp dẫn cả triệu người,
dù câu chuyện giữa Đức Giêsu
và Maria Mađalêna hoàn toàn hư cấu.
Theo các sách Tin Mừng,
Maria Mađalêna không hề là gái gọi.
Chị không phải là cô Maria
ngồi dưới chân Chúa mà nghe (Lc 10, 39),
hay là cô Maria xức chân Chúa
ở Bêtania bằng dầu thơm hảo hạng (Ga 12, 3).
Chị cũng không phải là người
phụ nữ tội lỗi ở nhà ông Pharisêu (Lc 7, 36).
Maria Mađalêna là người quê
ở vùng Mácđala, gần bên hồ Galilê.
Chị đã được Đức Giêsu trừ
bảy quỷ,
và đã đi theo Thầy từ Galilê
cùng các bà khác (Lc 8, 1-3; 23, 49. 55).
Chị đã theo Thầy đến tận Núi
Sọ và đứng bên Thầy bị đóng đinh (Ga 19, 25).
Chị là người đầu tiên ra
viếng mộ buổi sáng ngày thứ nhất (c. 1).
Không thấy xác Thầy, chị hốt
hoảng chạy về báo cho hai môn đệ khác (c. 2).
Sau đó chị lại đến mộ lần
nữa để tìm xác Thầy (c. 11).
Nếu không mến Thầy, chị
chẳng thể can đảm theo đến cùng như vậy.
Ngôi mộ tự nó là nơi buồn,
buồn hơn vì xác Thầy cũng không còn đó.
Những giọt nước mắt của chị
làm ai cũng phải mủi lòng.
Thiên thần và Đấng phục sinh
đều hỏi một câu giống nhau: Sao chị khóc?
Maria khóc vì thấy mình mất
đi một điều quý báu.
Bận tâm duy nhất ám ảnh chị
là tìm lại được xác Thầy.
“Chúng tôi không biết họ để
Người ở đâu?”
Ba lần chị đã nói lời tương
tự như thế (cc. 2.13.15).
Đấng Phục sinh đến với chị
với dáng dấp của một ông làm vườn.
Ngài chạm đến nỗi đau của
chị: Sao chị khóc?
Ngài chạm đến khát vọng của
chị: Chị tìm ai?
Ngài gọi tên của chị bằng
tiếng gọi quen thuộc: Maria.
Với giọng nói ấy, chị nhận
ngay ra Thầy và reo lên: Rabbouni.
Đức Giêsu đã lau khô những
giọt lệ của chị và cho tim chị vui trở lại.
Chị chỉ mong tìm được xác
Thầy, thì lại gặp được chính Thầy đang sống.
Maria Mađalêna là người phụ
nữ được thấy Chúa đầu tiên (c. 18),
và được Chúa sai đi loan Tin
Mừng phục sinh cho chính các tông đồ (c. 17).
Đời chúng ta nhiều khi như
ngôi mộ, mất mát và trống vắng.
Chúng ta đau đớn vì mất
Chúa, mất những gì mình yêu quý xưa nay.
Nhưng nếu ngôi mộ không
trống thì làm sao có Tin Mừng phục sinh?
Chỉ mong chúng ta tìm kiếm
Chúa với rất nhiều tình yêu như chị Maria,
vì biết mình sẽ gặp được
điều quý hơn cái mình đã mất.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại,
xin dạy chúng con biết chiến
đấu
trong cuộc chiến mỗi ngày
để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại
trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của
thập giá,
xin biến mọi đau khổ cũng
như mọi thử thách
chúng con phải gánh chịu mỗi
ngày,
thành cơ hội giúp chúng con
thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng
chúng con không thể nên hoàn
thiện
nếu như không biết từ bỏ
chính mình
và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ nay,
không gì có thể làm cho
chúng con
khổ đau và khóc lóc
chỉ vì quên đi niềm vui ngày
Chúa phục sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha,
là hy vọng hạnh phúc bất
diệt,
là ngọn lửa tình yêu nồng
nàn;
xin lấy niềm vui của Người
mà làm cho chúng con nên
mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu
thương,
bình an và hiệp nhất giữa
chúng con. Amen.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Người
Bị Mạo Nhận
Ngoại
trừ Mẹ Của Chúa Giêsu, trong các Phúc Âm ít có phụ nữ nào được viét đến nhiều
và với đầy sự tôn kính bằng thánh nữ Maria Madalena mà Giáo Hội mừng lễ hôm
nay.
Tuy
nhiên, người ta có thể gọi Maria Madalena là thánh nữ của sự vu oan vì tuy các
Phúc Âm nói đến ba phụ nữ cùng mang tên Maria, nhưng truyền thống trong Giáo hội
Tây phương đồng hóa cả ba thành một người phụ nữ duy nhất. Bởi lẽ đó, Maria
Madalena cũng được cho là người phụ nữ tội lỗi không được nêu tên trong đoạn 7
của Phúc Âm thánh Luca, người đã bất chợt đem bình dầu thơm xức chân Chúa Giêsu
rồi lấy tóc lau và sau đó được Chúa Giêsu tha thứ mọi tội lỗi, vì bà đã yêu mến
nhiều.
Ngày
nay, người ta phân biệt ba thánh nữ mang cùng một tên Maria, mà từ lâu lịch phụng
vụ của Giáo Hội Hy Lạp đã kính riêng rẽ. Ðó là Maria làng Batania, chị bà
Martha và ông Lazarô. Rồi người phụ nữ đã được tha nhiều vì yêu mến nhiều và
sau cùng là bà Maria Madalena, hoặc Maria làng Madala, người được Chúa chữa khỏi
"7 quỷ dữ". Cách nói "7 quỷ dữ" này không thể hiểu là Maria
Madalena đã sống một cuộc đời vô luân, nhưng chỉ có nghĩa là bà bị quỷ ám nặng
nề.
Ðoạn
8 của Phúc Âm thánh Luca thuật lại hoạt động của thánh nữ Maria Madalena và một
ít phụ nữ khác như sau: "Sau đó, Chúa rảo qua các thành, các làng mà rao
giảng... Có nhóm Mười Hai đi với Ngài và ít phụ nữ đã được chữa lành khỏi quỷ dữ
cùng bệnh hoạn: Maria gọi là người Madala, đã được đuổi khỏi 7 quỷ dữ và
Gioanna... cùng nhiều bà khác: Họ đã lấy của cải mình mà trợ giúp Ngài".
Và
con đường nối gót theo thầy Giêsu đã dẫn Maria Madalena từ Galilêa đến Giuđêa,
cho tới chân thập giá và chính Marian Madalena cũng là người trước tiên tìm đến
mộ Thầy, vào sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, để được thấy Chúa Giêsu
Phục Sinh và được trao cho nhiệm vụ đi báo cho các tông đồ: "Hãy đi gặp
anh em Ta và nói với họ: Ta lên cùng Cha ta và cũng là Cha anh em, Thiên Chúa của
ta và Thiên Chúa của anh em".
Theo
truyền thống Hy Lạp, sau này Maria Madalena đến sống tại Êphêsô cho đến khi qua
đời.
Trải
qua nhiều thế kỷ, thánh nữ Maria Madalena bị mạo nhận là người đàn bà tội lỗi.
Nhưng thiết nghĩ: Thánh nữ chỉ mỉm cười và xác quyết rằng: "Sự mạo nhận
này cũng không có gì là quá đáng, vì chúng ta tất cả là những người tội lỗi, cần
thống hối ăn năn và cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng quan trọng hơn là
chúng ta hãy chấp nhận sứ mệnh rao truyền Tin Mừng Phục Sinh qua cuộc sống chứng
tá của chúng ta".
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thánh
Maria Madalena
Các
Giáo phụ đã tranh luận và các nhà chú giải vẫn còn tìm hiểu xem Giáo hội có
kính nhớ ba thánh nữ dưới cùng một danh xưng Maria Madalena hay không.
Người
thứ nhất là một người nữ tội lỗi. Khi Chúa Giêsu vào nhà ông biệt phái Simon, một
tội nhân vô danh đã được ơn tha tội, nhờ tình yêu bà bày tỏ trong việc xức dầu
thơm vào chân Chúa rồi lấy tóc mà lau (Lc VII, 36-39).
Đàng
khác, cũng chính việc thánh sử Luca (Lc VIII, 43-48) đã nói đến Maria Madalêna
được Chúa Giêsu trừ quỉ cho. Thánh nữ là một trong số phụ nữ đã theo Chúa trong
các cuộc hành trình của Người. Hiện diện trên đồi Calvê, Ngài cũng thuộc vào số
các bà đem dầu thơm đến mồ xức xác Chúa. Ngài là người đầu tiên báo tin cho các
môn đệ biết ngôi mộ trống. Trở lại mộ ngay sau đó, Ngài đã thấy và nói truyện với
các thiên thần. Sau cùng, Ngài đã nhận ra Đâng Phục sinh mà thoạt đầu Ngài tưởng
là một bác làm vườn (Ga 20, 1-18).
Maria
Bêtania, là chị em của Matta và Lazarô đã ngồi dưới chân Chúa Giêsu mà nghe lời
Người, trong khi Matta bận rộn chuẩn bị bữa ăn. Thế mà Ngài là người đã chọn phần
tốt nhất, phần chiêm niệm (Lc 10,38-42). Khi Chúa Giêsu đến cứu sống Lazarô,
thánh nữ vẫn giữ một phần tương tự. Ngài ngồi tại nhà cho tới khi Matta kêu
Ngài tới gặp “thầy”. Ít ngày sau, Ngài đã xức dầu Chúa Giêsu (Mt 26,6-13).
Mặc
dầu các sách Tin Mừng không bảo đảm đồng nhất ba khuôn mặt này thành một người
và ý kiến các giáo phụ còn trái nghịch, nhưng Giáo hội Tây phương từ thế kỷ thứ
VI đã đồng hóa thành một người. Sự đồng hóa này được diễn tả trong phụng vụ.
Với
sự đồng hóa ấy, lòng đạo đức thường diễn tả thánh Maria Madalena như một phụ nữ
có mái tóc dài, được Chúa Giêsu tha thứ nao nức đón nghe Lời Người. Bà đã được
chứng kiến Laxarô sống lại. Tiên cảm được về thảm kịch khổ nạn, bà đã đổ dầu
thơm quí giá lên chân Chúa Giêsu như một cuộc xức dầu cao cả. Hiện diện dưới
chân thánh giá, bà sẽ được Chúa Giêsu thân ái gọi tên “Maria” buổi sáng phục
sinh.
Sau
đó, người ta không nghe nói gì về Maria Madalena nữa. Theo truyền thuyết, Ngài
đã từ trần và được mai táng ở Ephêsô. Năm 889, hoàng đế Lêô VI đã chuyển thi
hài thánh nữ về một tu viện ở Constantinople.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét