Nội
dung bài phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Assuncion vể Roma
Chiều Chúa Nhật 12-7 vừa qua trên
chuyến bay từ Paraquay về Roma ĐTC
Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một cuộc phỏng vấn dài,
liên quan tới chuyến viếng thăm tại ba nước Ecuador,
Bolivia và Paraguay, cũng như liên quan tới một vài vấn đề thời sự như cuộc khủng hoảng của Hy Lạp, cuộc đối thoại giữa Cuba và
Hoa Kỳ, tình hình Colombia và Venenezuela vv…
Say đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung phần đầu bài phỏng vấn. Bốn câu đầu ĐTC đã
trả lời bằng tiếng Tây Ban
Nha, các câu sau bằng tiếng Ý.
Nhà báo Anibal Velazquez của nhật báo ABC
Color Paraguay hỏi: thưa ĐTC, dân chúng vui mừng vì ĐTC
đã nâng đền thánh Caacupé lên hàng Vương cung thánh đường, nhưng họ tự hỏi Paraguay
có tội gì mà chưa có Hồng Y?
Đáp: Không có Hồng Y không phải là một tội. Đa số các nước trên thế giới không có
Hồng Y. Quốc tịch của các HY
là thiểu số. Đúng thật là cho tới nay
Paraguay chưa có HY nào. Tôi không biết lý do. Đôi khi để chọn các HY
người ta cân nhắc, đọc và
nghiên cứu các hồ sơ của từng vị, xem xét
con người, nhất là đặc sủng của HY sẽ được chọn để cố vấn cho ĐGH
và trợ giúp Giáo Hoàng trong việc cai quản Giáo Hội hoàn vũ.
HY tuy thuộc về một Giáo Hội địa phương nhưng được gia nhập vào Giáo
Hội Roma và có một cái nhìn đại đồng. Điều này
không có nghĩa là tại Paraguay không có các Giám Mục có quan
điểm vũ hoàn. Nhưng lý do vì không thể chỉ định qúa 120
HY có quyền bầu Giáo Hoàng. Uruguay đã có hai vị. Một vài nước Trung Mỹ cũng đã
có HY, nhưng tất cả tuỳ thuộc các hoàn
cảnh, con người và đặc sủng. Nhưng sự kiện này không
có nghĩa là các Giám Mục Paraguay không có giá trị gì.
Paraguay có các Giám Mục thiên tài. Tôi nhớ là có hai
Giám Mục Bogarin đã làm nên lịch sử Paraguay.
Nếu nhìn vào Giáo Hội Paraguay
thì Paraguay đáng có hai HY, nhưng nó không liên quan gì tới công nghiệp.
Paraguay là một Giáo Hội sống động, tươi vui, một Giáo Hội chiến đấu và có một lịch sử vinh
quang.
Hai chị Priscilla Quiroga của đài truyền hình
Kênh A và chị Cecillia Dorado Nava của nhật báo El
Deber Bolivia thì hỏi: xin ĐTC cho biết ý kiến liên quan
tới ước muốn của Bolovia
trong cuộc thương thuyết với Chile để có lối ra Thái
Bình Dương. Trong trường hợp hai nước xin Tòa
Thánh làm trung gian ĐTC có nhận không?
Đáp: Làm trung gian là một việc rất tế nhị và như là bước cuối cùng.
Cũng như trong trường hợp giữa
Argentina và Chile để tránh một cuộc chiến. Tình
hình đã rất là căng thẳng nên Tòa Thánh đã dấn thân, vì
thế Thánh Gioan Phaolô II đã luôn chú ý, ngoài ra có thiện chí của cả hai nước muốn thương thuyết. Có điều lạ, ít nhất là bên
Argentina có một nhóm không muốn sự trung
gian này, và khi tổng thống
Alfonsin tổ chức trưng cầu dân ý có
muốn chấp nhận đề nghị trung
gian không, thì đương nhiên đa số dân nói
là có, nhưng có một nhóm
không muốn. Luôn luôn khi có vấn đề trung
gian, thì khó có chuyện toàn dân đều đồng ý. Nhưng việc làm
trung gian là bước cuối cùng, vì luôn luôn có các gương mặt ngoại giao và
các người tạo thuận tiện khác trợ giúp giàn
xếp vấn đề.
Trong lúc này thì tôi cho rằng phải rất tôn trọng để cho
Bolivia đưa vấn đề ra một toà án quôc
tế. Vì vậy, nếu tôi bình
luận trong lúc này – tôi là thủ lãnh của một quốc gia – nó
sẽ có thể bị giải thích như là xen mình vào hay gây áp lực hoặc gì khác.
Tôi cho rằng cần tôn trọng quyết định của nhân dân
Bolivia. Và cũng cần xem trước đây đã
có các yêu cầu đối thoại hay chưa. Tôi không rõ. Điều tôi biết đó là
vào thời tổng thống Lagos của Chile,
tôi không nhớ rõ thời gian chính xác, người ta đã
tìm một giải pháp. Đây là bình luận mà ĐHY
Errazuris nói với tôi. Do đó, tôi không muốn nói gì về điều này cả.
Điểm thứ ba mà tôi
muốn thừa nhận rõ ràng.
Đó là trong nhà thờ chính tòa Bolivia tôi đã đề cập đến một vấn đề rất tế nhị, khi chú
ý tới tình hình cậy nhờ toà án quốc tế. Tôi nhớ rõ mình
đã nói: “Là anh em thì cần đối thoại, các dân
tộc mỹ latinh cần đối thoại để tạo dựng quốc gia lớn, đối thoại cần thiết” Tới đó tôi
thinh lặng rồi nói “Tôi nghĩ tới biển”, và tiếp tục nói: “đối thoại và đối thoại”. Tôi
tin rằng sự can thiệp của tôi nhắc tới vấn đề này, nhưng tôn trọng tình hình hiện nay. Vì
trong một tòa án quốc tế thì không
thể nói tới việc làm
trung gian, cũng như tạo thuận tiện, mà chỉ hy vọng thôi.
Hỏi: Thưa ĐTC, như thế ước vọng của nhân dân
Bolivia có chính đáng không?
Đáp: Luôn luôn có một nền tảng công
lý, khi có việc thay đổi ranh giới, và nhất là sau một cuộc chiến. Cần phải liên tục xem xét
lại. Tôi sẽ nói rằng việc đề nghị một chuyện thuộc loại này, ước vọng này
không phải là không chính đáng. Tôi nhớ là hồi năm
1961, khi đang học triết học năm thứ nhất, chúng
tôi nhận được một tài liệu về Bolivia
do một cha từ Bolivia đem sang, tôi tin nó có đề tựa là “Mười ngôi
sao”. Cha hỏi: “Bolivia có mấy vùng?” Chúng tôi trả lời là có 9
vùng. Cha trả lời “có 10 vùng”, rồi giới thiệu từng vùng một ,và sau
cùng là vùng thứ 10 cha nhìn biển và không nói lời nào cả. Tôi rất xúc động. Đó là
hồi năm 1961. Nếu người ta thấy là có một khát vọng, thì rõ
ràng rồi, sau một trận chiến loại này dấy lên các
mất mát, thì tôi tin điều quan trọng nhất là đối thoại, là thương thuyết lành mạnh. Giờ đây trong
lúc này việc đối thoại có được là chạy tới tòa án
La Haye.
Ông Fredy Paredes, thuộc nhật báo
Teleamazonas Ecuador hỏi: Thưa ĐTC, trước chuyến viếng thăm của ĐTC nưóc Ecuador náo loạn, sau khi
ĐTC rời nước này, những người chống đối chính
quyền lại xuống đường biểu tình. Xem
ra sự hiện diện của ĐTC tại Ecuador
bị sử dụng cho mục đích
chính trị đặc biệt câu ĐTC
nói: “Nhân dân Ecuador đã đứng lên với phẩm giá”.
Con xin hỏi ĐTC theo thứ tự nếu được: “Câu
này trả lời cho cái gì? ĐTC có thiệm cảm với dự án chính
trị của tổng thống Correa
không? ĐTC có tin rằng các lời nhắn nhủ chung mà
ĐTC đã đưa ra trong chuyến viếng thăm tại Ecuador
nhằm khích lệ sự tăng trưởng, đối thoại, xây dựng dân chủ và không
tiếp tục đường lối chính trị gạt bỏ như ĐTC nói, có được thực thi tại Ecuador
hay không?
Đáp: Đương nhiên là có các vấn đề chính trị và các cuộc biểu tình. Điều này thì
người ta biết rồi. Tôi
không biết các khó khăn của nền chính trị tại Ecuador,
nên việc đưa ra một ý kiến từ phía tôi
sẽ là điều vô nghĩa. Thế rồi người ta nói với tôi,
như một dấu ngoặc trong
chuyến viếng thăm của tôi, là
tôn trọng chuyến viếng thăm của ĐGH, đó
là diều tôi xin cám ơn và trân trọng. Giờ đây các sự vật biến chuyển, và đương nhiên là các vấn đề và các thảo luận chính trị tiếp diễn. Liên
quan tới câu nói mà anh đề cập đến, tôi có
ý ám chỉ ý thức lớn hơn mà người dân Ecuador có đối với giá trị của họ. Một trận chiến biên giới với Peru
không làm được nhiều. Có các lịch sử chiến tranh. Rồi có một ý thức lớn hơn đối với sự khác biệt và phong
phú chủng tộc của Ecuador.
Và diều này trao ban phẩm giá.
Ecuador không phải là một nước bị gạt bỏ. Nó quy
chiếu toàn dân và tất cả phẩm giá của dân tộc này, sau
cuộc chiến biên giới, họ đã đứng lên với phẩm giá, và
đã có ý thức hơn về phẩm giá và sự phong phú
của sự hiệp nhất trong
khác biệt của mình. Không thể gán cho một tình
hình cụ thể, bởi vì cũng
chính câu này – người ta bình luận, nhưng tôi không thấy như thế - bị lèo lái để giải thích cả hai tình
trạng: chính quyền đã đứng lên tại Ecuador
hay những người chống chính quyền đã dứng lên. Một câu nói
có thể bị lèo lái, và vì thế tôi tin
là cần rất thận trọng. Tôi
xin cám ơn câu hỏi cuả anh, bởi vì đó là
một kiểu cẩn thận. Và anh
đang nêu gương cẩn thận đấy.
Nếu anh chị em cho phép. Việc giải thích một văn bản thật rất quan trọng trong
công việc của anh chị em.
Không thể giải thích nó chỉ với một câu. Có
những câu là chià khóa của việc giải thích,
và có những câu không là chìa khóa nhưng là những câu qua đi, hay linh động. Vì vậy, cần xem xét
hết bối cảnh, tình
hình và lịch sử. Nhìn lịch sử của lúc này,
hay chúng ta đang nói tới qúa khứ, giải thích một sự kiện quá khứ với kiểu giải thích của thời đó. Chẳng hạn như các cuộc chiến của thập tự quân cần phải giải thích
chúng với kiểu giải thích của thời bấy giờ. Điều nòng cốt là giải thích một diễn văn, hay
bất cứ bản văn nào,
với một loại giải thích
toàn vẹn, chứ không cô lập.
Chị Stefania Falasca của nhật báo
Avvenire của Italia hỏi: Thưa ĐTC, trong bài nói chuyện với các
Phong trào bình dân tại Bolivia ĐTC đã đề cập tới phong
trào tân thực dân và việc tôn thờ thần tiền khống chế nền kinh tế và áp đặt các
chính sách thắt lưng buộc bụng luôn
luôn thiệt thòi cho dân nghèo. Từ nhiều tuần nay bên
Âu châu chúng ta có trường hợp của Hy Lạp và số phận của nước này có
nguy cơ ra khỏi khối Euro.
ĐTC nghĩ gì về những điều đang xảy ra tại Hy Lạp và cũng
liên quan tới Âu châu?
Đáp: Trước hết bởi vì sự can thiệp này cuả tôi trong
đại hội của các
Phong trào bình dân là lần can thiệp thứ hai. Lần thứ nhất là tại Vaticăng
trong phong họp cũ của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, hồi đó có
120 tham dự viên. Cuộc hội này đã
do Hội Đồng Toà Thánh Công Lý và Hoà Bình tổ chức. Tôi gần gũi với nó, bởi vì nó là
một hiện tượng trên
toàn thế giới. Kể cả bên Đông
phương, bên Philippines, Ấn Độ, Thái Lan.
Chúng là các phong trào được tổ chức giữa chúng,
không phải chỉ để phản đối mà để tiến tới và có thể sống. Và
chúng là các phong trào có sức mạnh, và các
anh chị em này đông biết bao. Họ không cảm thấy được đại diên bởi các nghiệp đoàn, vì
họ nói rằng các nghiệp đoàn
ngày nay là một nghiệp hội, không
tranh đấu nữa – tôi đang đơn giản hóa một chút –
nhưng ý tưởng của biết bao
nhiêu người của các anh chị em này đó
là các nghiệp đoàn không tranh đấu cho các
quyền lợi của người nghèo.
Và Giáo Hội không thể thờ ơ. Giáo Hội có một Giáo lý
xã hội và đối thoại với phong
trào này và đối thoại tốt. Anh chị em đã thấy lòng
hăng hái cảm nhận được rằng Giáo Hội không xa
cách chúng ta, Giáo Hội có một giáo lý
giúp chúng ta tranh đấu cho điều này. Đó
là một cuộc đối thoại. Không
phải Giáo Hội lựa chọn con đường vô
chính phủ. Không. Họ không vô chính phủ. Họ là những người làm việc, tìm làm
biết bao công việc, kể cả với những gì bị vứt bỏ, những gì thừa thãi. Họ thực sụ là các
công nhân. Đó là tầm quan trọng của sự kiện này.
Liên quan tới Hy Lạp và hệ thống quốc tế: tôi rất dị ứng với kinh tế, bởi vì cha
tôi đã là một kế toán viên và khi không làm xong
việc ở sở, thì người đem về nhà làm,
cả ngày thứ bẩy và Chúa
Nhật, với các sách thời đó, viết theo kiểu chữ gô tích,
và người làm việc… và tôi trông thấy cha tôi
như vậy, và tôi dị ứng. Tôi
không hiều rõ sự việc ra
sao, nhưng chắc chắn sẽ đơn sơ khi nói rằng lỗi chỉ là tại phần này. Các
chính quyền Hy Lạp đã đưa tình trạng nợ nần quốc tế tới diểm này cũng
có phần trách nhiệm của họ. Với chính
quyền mới người ta đã đi
tới một việc duyệt xét hơi đúng. Tôi cầu mong và
đây là điều duy nhất tôi có thể nói với chị, vì tôi
không biết rõ… tôi cầu mong họ tìm ra một con đường dể giải quyết vấn đề Hy Lạp, và cả một con đường để giám sát
không để xảy ra vấn đề này trong
các nước khác; và ước gì điều này giúp
chúng ta tiến tới, bởi vì con đường vay mượn và nợ nần sau cùng
không bao giờ tận. Người ta đã
nói với tôi cách đây một năm rằng Liên Hiệp Quốc có một chương trình (nếu ai trong anh chị em biết thì xin
giải thích ), một chương trình theo đó một quốc gia có
thể tuyên bố mình vỡ nợ, không phải là tình
trạng default, nhưng một chương trình tôi đã nghe và không biết nó đã đi tới đâu rồi, và có
thật hay không. Tôi nói thể để minh giải thôi, nếu một hãng xưởng có thể tuyên bố mình vợ nợ, thì tại sao một nước lại không thể làm như thế, và đi tới sự trợ giúp của các nước khác? Đó
đã là các nền tảng của dự án, nhưng tôi không thể nói thêm
gì khác.
Liên quan tới các tân thực dân: đương nhiên là chúng liên quan tới mọi giá trị rồi. Thực dân của chủ thuyết tiêu htụ. Chiếc áo của huynh hướng tiêu thụ đã là một tiến bộ của thực dân. Vì
nó đưa tới cho bạn một thói
quen không phải là của bạn, và nó
cũng khiến cho bạn mất thăng bằng. Chủ thuyết tiêu thụ cũng khiến cho nền kinh tế bên trong
một nước mất thăng bằng, cả công lý
xã hội và sức khoẻ thể lý và tâm
thần cũng mất thăng bằng. Đó là
một thí dụ thôi.
Chị Anna Matranga, phóng viên của đài
trruyền hình CBS hỏi: Thưa ĐTC một trong
các sứ điệp mạnh mẽ nhất của chuyến công du
này đó là hệ thống kinh tế toàn cầu thường áp đặt tâm thức của lợi nhuận bằng mọi giá, gây
thiệt hai cho dân nghèo. Điều này bị dân Mỹ coi như là lời chỉ trích trực tiếp hệ thống kinh tế và kiểu sống của họ. ĐTC trả lời thế nào cho
nhận thức này? Và đâu là lượng định của ĐTC đối với ảnh hưởng của Hoa Kỳ
trên thế giới?
Đáp: Điều tôi đã nói, câu nói ấy không mới mẻ. Tôi đã
nói trong Thông điệp Niềm Vui Phúc
Âm: “nền kinh tế này giết chết”. Tôi nhớ rõ câu
này. Có một bối cảnh. Và tôi
cũng nói trong Thông điệp “Laudato si’ “, việc chỉ trích
không phải là một điều mới lạ, người ta biết đó. Tôi
đã nghe rằng bên Hoa Kỳ đã có vài lời chỉ trích.
Tôi đã nghe, nhưng tôi chưa đọc và nghiên cứu để rồi đối thoại. Chị sẽ hỏi
tôi nghĩ gì, nhưng nếu tôi chưa đối thoại với những người đã chỉ trích,
thì tôi không có quyền đưa ra một tư tưởng, cô lập khỏi cuộc đối thoại.
Hỏi: Thưa ĐTC giờ đây ĐTC sẽ sang Hoa
Kỳ, ĐTC có nghĩ mình sẽ được tiếp đón như thế nào
không, ĐTC có ý tưởng nào về quốc gia này
không?
Đáp: Không, bây giờ tôi phải bắt đầu nghiên cứu, bởi vì cho tới nay tôi
đã nghiên cứu ba nước rất xinh đẹp mới viếng thăm
này, chúng là một sự phong phú và là một vẻ đẹp. Bây giờ tôi phải bắt đầu nghiên cứu nước Cuba, vì
tôi sẽ viếng thăm trong hai ngày rưỡi, rồi Hoa Kỳ,
ba thành phố miền Đông - vì tôi không thể đi đến miền Tây - là
Whasington, New York và Philadelphia, tôi phải bắt đầu nghiên cứu các chỉ trích này
rồi đối thoại một chút.
Chị Aura Vistas Miguel hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC đã cảm thấy gì khi
trông thấy cây thánh giá hình búa liềm và Chúa
Kitô trên đó, do tổng thống Morales
dâng tặng? Và cây Thánh Giá ấy đâu rồi?
Đáp: Thật là lạ, tôi
không biết điều này và tôi cũng không biết là cha
Espinal đã là một nhà điêu khắc và cũng là thi sĩ. Tôi mới chỉ biết trong
các ngày này thôi. Tôi đã thấy cây thánh giá, và đối với tôi nó
đã là một ngạc nhiên. Điều thứ hai, có
thể coi nó như loại nghệ thuật phản đối. Chẳng hạn tại Buenos
Aires, cách đây vài năm, đã có một cuộc triển lãm của một điêu khắc gia rất giỏi, có óc
sáng tạo, người Argentina. Bây giờ ông ta chết rồi. Nó đã
là nghệ thuật phản kháng,
và tôi nhớ có một tác phẩm là “Chúa
Kitô bị đóng đanh trên một máy bay
bỏ bom đang lao đầu xuống”. Đó đã
là một chỉ trích chống lại Kitô
giáo liên minh với chế độ tư bản là máy
bay bỏ bom. Như thế, điểm thứ nhất tôi đã
không biết, điểm thứ hai tôi định tính nó
như là nghệ thuật phản kháng,
trong một vài trường hợp có thể gây xúc
phạm. Thứ ba, trong trường hợp cụ thể ở đây Cha
Espinal thuộc loại này. Điều này thì
tôi biết, vì hồi đó tôi là phân khoa trưởng phân
khoa thần học, và người ta đã
nói nhiều tới chuyện này, tới các
khuynh hướng khác nhau và ai là các người đại diện. Trong
cùng năm ấy Cha Bề Trên tổng quyền dòng Tên
Arrupe đã viết một bức thư cho toàn dòng liên quan tới việc phân
tích thực tại thần học theo
khuynh hướng mác xít, và khẳng định rằng làm như thế là không
được. Chúng là các điều khác
nhau, làm như thế là không được và không
đúng đắn. Và bốn năm sau, năm 1984 Bộ Giáo Lý Đức Tin công
bố tập sách nhỏ đầu tiên chỉ trích điều này, đó
là tuyên bố đầu tiên về nền thần học giải phóng. Rồi đến tập thứ hai mở ra các viễn tượng có tính
chất kitô hơn. Tôi đang đơn giản hoá một chút có
phải thế không ạ? Chúng ta
hãy giải thích thời đó Espinal đã là một người hứng khởi đối với phân
tích này của thực tại mác xít,
cũng như của thực tại thần học, bằng cách
dùng chủ thuyết mác xít. Tác phẩm này phát
xuất từ đó. Cả các bài
thơ của cha Espinal cũng thuộc loại phản kháng
này, nhưng đó đã là cuộc sống, tư tưởng của cha, cha
đã là một người đặc biệt, với biết bao
nhiêu tài năng thiên phú, và cha tranh đấu trong ý
hướng ngay lành. Tôi đã phải giải thích như thế và nói với anh chị em để đừng có các
ý kiến sai lầm. Cây thánh giá ấy giờ đây tôi
mang theo với tôi, đi với tôi. Có lẽ chị đã nghe
biết là tổng thống Morales
đã muốn trao tặng tôi hai huân chương, huân chương quan trọng nhất nước Bolivia
và huân chương kia thuộc Hội
cha Espinal, một hội mới.
Tôi đã không bao giờ nhận một huân chương, nó không thích hợp với tôi. Nhưng tổng thống đã làm
điều này với tất cả thiện chí với ưóc mong khiến cho tôi hài lòng. Và tôi nghĩ rằng chúng đến từ nhân dân
Bolivia. Tôi đã cầu nguyện
trên các huân chương ấy, và tôi
đã nghĩ, nếu tôi đem về Vaticăng, thì chúng sẽ nằm trong một viện bảo tàng, và
sẽ không có ai trông thấy. Do đó
tôi đã nghĩ để chúng lại cho Đức Bà
Copacabana, là Mẹ của dân nước Bolivia.
Chúng sẽ được đem đến đền thánh Đức Mẹ
Copacabana, tôi đã giao hai huân chương ấy rồi. Trái lại Chúa
Kitô thì tôi đem theo với tôi.
Chị Anaiis Feuga hỏi: Thưa ĐTC, trong thánh lễ tại
Guayaquil ĐTC đã nói rằng Thượng Hội Đồng Giám Mục phải làm chín
mùi một sự phân định để tìm ra
các giải pháp cụ thể cho các
khó khăn của gia đình. Rồi ĐTC đã
xin tín hữu cầu nguyện cho những gì đối với chúng ta
xem ra là ô uế, gây gương mù gương xấu, hay khiến cho
chúng ta sợ hãi, để Thiên
Chúa có thể biến đổi thành
phép lạ. Xin ĐTC xác định đâu là
các tình trạng ô uế hay gây
hoảng sợ hoăc gây gương mù gưong xấu mà ĐTC
muốn ám chỉ.?
Đáp: Ở đây nữa tôi cũng
sẽ giải thích bối cảnh văn bản. Tôi đã
nói tới phép lạ rượu ngon, và
tôi nói rằng các vại nước đầy, nhưng là để cho việc thanh tẩy. Mỗi người vào dự lễ cưới đều thanh tẩy và để các dơ nhớp tinh thần của mình ở ngoài. Đó
là lễ nghi thanh tẩy trưóc khi vào một nhà nào
hay vào đền thờ. Một lễ nghi mà
bây giờ chúng ta có trong nước thánh:
nó là phần còn lại của lễ nghi do
thái xưa kia. Tôi đã nói rằng chính
Chúa Giêsu đã làm ra rượu ngon nhất với nước để rửa các nhơ nhớp, rửa cái tồi tệ nhất. Nói
chung chung, tôi đã nghĩ tới việc chú giải này: gia
đình bị khủng hoảng - chúng
ta tất cả đều biết – chỉ cần đọc tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình
mà anh chị em biết đó, vì nó đã được trình bầy trong đó
rồi. Chúng tôi đã ám chỉ tất cả những điều ấy: ước chi Chúa
thanh tẩy chúng ta khỏi cuộc khủng hoảng này, khỏi biết bao
nhiêu điều được miêu tả trong Tài
liệu làm việc. Nó là một điều chung
chung, chứ tôi đã không nghĩ đến một điểm đặc biệt nào. Xin
Chúa khiến cho chúng ta trở nên tốt lành hơn, cho gia
đình của chúng ta trưởng thành và tốt lành hơn. Gia đình đang gặp khủng hoảng, xin
Chúa thanh tẩy chúng ta và chúng ta tiến tới. Nhưng các điểm đặc biệt của cuộc khủng hoảng này thì
ở trong Tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục, mà anh
chị em có.
Anh Javier Martinez Brocal của hãng
thông tin Romereports hỏi: Thưa ĐTC, xin cám ơn ĐTC vì cuộc đối thoại giúp cá
nhân chúng con cũng như công việc của chúng
con. Con hỏi thay mặt tất cả các nhà
báo nói tiếng Tây Ban Nha. Chúng ta đã thấy việc trung
gian giữa Cuba và Hoa Kỳ xuôi chảy. ĐTC có
nghĩ là có thể làm điều gì đó giống như thế trong các
tình hình tế nhị khác của Châu Mỹ Latinh
hay không, con nghĩ tời Venezuela và cả Colombia
nữa? Rồi con có một tò mò:
con nghĩ tới cha con ít hơn ĐTC vài tuổi, nhưng chỉ có phân nửa năng lực của ĐTC
thôi. Chúng con đã trông thấy năng lực ấy của ĐTC
trong chuyến viếng thăm
này, và từ hai năm rưỡi nay. ĐTC
có bí quyết nào vậy?
Đáp: Đâu là loại “ma tuý” ĐTC dùng, anh ấy muốn hỏi vậy ấy mà.
Đó đã là câu hỏi.
Tiến trình giữa Cuba và
Hoa Kỳ đã không có sự trung gian nào. Nó đã không có
tính cách trung gian. Đã có ước muốn từ hai phía.
Và tôi xin nói thật, điều này đã xảy ra hồi tháng
giêng năm ngoái và ba tháng trôi qua trong đó tôi đã chỉ cầu nguyện cho việc này thôi,
tôi đã không quyết định gì: mà có thể làm gì
cho hai nước này sau 50 năm họ ở trong
tình trạng như thế? Nhưng Chúa đã làm cho tôi nghĩ tới một Hồng Y. Ngài
đã qua đó, đã nói chuyện, rồi tôi cũng
đâu có biết gì đâu, rồi một hôm ĐHY
Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, cũng hiện diện ở đây, đến nói vơi tôi: Ngày mai chúng con có cuộc họp với hai phái
đoàn… “Mà làm sao?” “Vâng họ nói chuyện với nhau giữa hai nhóm
và họ đang làm điều đó”. Nó đã chạy một mình, đã
không có việc làm trung gian. Đó đã là thiện chí của hai nước: công
lao là của họ, chính họ đã làm điều này.
Chúng tôi hầu như đã không làm gì cả, chỉ làm các
điều bé nhỏ thôi, và giữa tháng 12
thì tin được loan ra. Câu chuyện là như thế, thực sự không có
gì khác nữa. Điểu tôi lo lắng là
trong lúc này đây tiến trình hòa bình đừng ngưng lại, và
trong nghĩa này chúng tôi luôn luôn sẵn sàng
giúp đỡ, trong biết bao cách thế. Nhưng sẽ là điều xấu, nếu câu chuyện không tiến tới. Bên
Venezuela HĐGM làm việc để đem lại một chút hòa
bình, nhưng ở đây cũng thế đã không
có việc làm trung gian. Trong trường hợp của Hoa Kỳ
đó đã là do Chúa và hai việc tình cờ, rồi nó tiến tới một mình. Đối với Colombia
tôi cầu mong và cầu nguyện,
và chúng ta phải cầu nguyện để tiến trình
này đừng dừng lại. Nó là một tiến trình đã
kéo dài hơn 50 năm nay rồi, và đã có biết bao
nhiêu người chết! Tôi nghe nói là có hàng triệu. Liên
quan tới Venzuela tôi không có gì để nói.
Ah còn chuyện “ma tuý”. Nhưng mà chỉ có trà mate giúp tôi thôi, tôi đã
không nếm coca. Điều này rõ rồi chứ?
Anh Ludwig Ring-Eifel thuộc hãng
thông tấn KNA của Đức hỏi: Thưa ĐTC, trong chuyến công du
này chúng con đã nghe biết bao nhiêu sứ điệp mạnh mẽ cho người nghèo, cả các sứ điệp mạnh mẽ và đôi
khi nghêm khắc nữa đối với người giầu và kẻ quyền th. Nhưng có một điều mà chúng
con đã nghe nói tới rất ít đó là
các sứ điệp cho giới trung lưu, nghĩa là những người làm việc, trả thuế, dân thường. Con muốn hỏi tại sao
trong huấn quyền của ĐTC lại có ít sứ điệp cho lớp trung lưu như vậy? Và nếu có thì
đó là sứ điệp nào?
Đáp: Xin cám ơn anh rất nhiều, đó là một sửa sai rất đẹp. Xin cám
ơn. Anh có lý, đó là một sai lầm từ phía tôi.
Tôi phải nghĩ tới điều này. Tôi
sẽ đưa ra vài bình luận, nhưng không phải để biện minh cho
tôi. Anh có lý, tôi phải suy nghĩ một chút. Thế giới này có
nhiều cực. Lớp trung lưu trở thành bé
nhỏ hơn. Có sự
toàn cầu hóa lớn giữa người giầu và người nghèo.
Đây là điều có thật, và có lẽ điều này khiến cho tôi
đã không chú ý tới giới trung lưu. Tôi nói về thế giới, vài nước thì
không, chúng chạy rất tốt, nhưng trên thế giới nói
chung người ta trông thấy việc tạo thành
hai cực này và con số người nghèo rất lớn. Thế rồi tại sao tôi
nói tới người nghèo? Bởi vì nó là
trọng tâm của Tin Mừng, và tôi
luôn luôn nói từ Tin Mừng về sự nghèo
khó, tự nó có tính cách xã hội học. Tôi
cũng có vài lời nói về lớp trung lưu, nhưng chỉ lướt qua. Nhưng người dân đơn sơ, ngưòi dân thường, lớp công
nhân, giai tầng ấy có giá trị lớn. Nhưng tôi tin rằng anh đã nói tới một điều mà tôi
phải làm, tôi phải đào sâu hơn giáo huấn về điểm này, Tôi
xin cám ơn anh về sự trợ giúp.
Chị Vania De Luca thuộc chương trình truyền hình
Rainews 24 giờ hỏi: Thưa ĐTC, trong các ngày này DTC đã nhấn mạnh trên sự cần thiết của các lộ trình hội nhập, bao gồm xã hội, chống lại tâm thức gạt bỏ. ĐTC đã ủng hộ cả các dự án đi
theo hướng này của việc sống hạnh phúc. Cả khi ĐTC
đã cho biết phải nghĩ tới chuyến viếng thăm
Hoa Kỳ, ĐTC có nghĩ tới việc đề cập tới các vấn đề này tại Liên Hiệp Quốc, tại Tòa Bạch Ốc hay
không? ĐTC có nghĩ tới chuyến công du
này khi nói tới các vấn đề này hay
không?
Đáp: Không, tôi đã chỉ nghĩ đến chuyến viếng thăm cụ thể này và tới thế giới nói
chung. Nhưng nợ nần của các nước trên thế giới trong
lúc này thật kinh khủng, Tất cả mọi nước đều nợ, và có một vài nước đã mua nợ của các nước lớn. Đây là
một vấn đề quốc tế. Nhưng với điều này tôi
đã không đặc biệt nghĩ tới chuyến đi Hoa Kỳ.
Anh Courtney Wals của đài Fox
News hỏi: Thưa ĐTC, chúng ta đã nói một chút về Cuba, nơi ĐTC sẽ viếng thăm
vào tháng 9 tới đây trước khi đi
Hoa Kỳ, cũng như nói tới vai trò
của Vaticăng trong việc làm cho
hai nước xích lại gần nhau.
Bây giờ Cuba sẽ có một vai trò
lớn hơn trong cộng đồng quốc tế, theo ĐTC
chính quyền La Habana có phải cải tiến danh tiếng của mình
liên quan tới việc tôn trọng các quyền con người kể cả quyền tự do tôn
giáo không? Và ĐTC có tin rằng Cuba có
nguy cơ mất đi điều gì trong
liên hệ mới này với quốc gia mạnh nhất thế giới hay
không?
Đáp: Các quyền con người là để cho tất cà mọi người và người ta tôn
trọng các quyền con người chỉ trong một hai nước mà thôi.
Tôi sẽ nói rằng trong biết bao
nhiêu nước, trong biết bao nhiêu miền trên thế giới này người ta không
tôn trọng các quyền con người.
Cuba mất cái gì và Hoa Kỳ mất cái gì?
Điều mà cả hai nước đều có được đó là
hòa bình. Đây là điều chắc chắn. Sự gặp gỡ, tình bạn, sự cộng tác: đó
là điều chiếm được. Nhưng hai nước mất cái gì
thì tôi chưa nghĩ ra được; sẽ là những điều cụ thể, nhưng luôn luôn trong một cuộc thương thuyết nguời ta
được và mất. Trở lại với các quyền con người và tự do tôn
giáo, anh chị em hãy nghĩ trên thế giới có các nưóc, kể cả vài nước âu châu,
vì các lý do khác nhau người ta không để cho bạn làm một dấu chỉ tôn giáo
nữa. Và trong các đại lục khác
cũng thế, đúng không? Điều này đúng, Tự do tôn
giáo không được tôn trọng trên toàn thế giới, trong
biết bao nhiêu nước xảy ra như thế.
Anh Benedicte Lutaud hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC như là vị lãnh đạo quốc tế mới của các
chính sách thay thế , con muốn biết tại sao ĐTC
lại chú ý tới các Phong trào bình dân, và ít
chú ý tới thế giới kinh
doanh như vậy, và ĐTC có nghĩ rằng Giáo Hội sẽ theo ĐTC
trong việc giang tay ra cho các phong trào bình dân rất đời hay
không?
Đáp: Thế giới của các
Phong trào bình dân là một thực tại; nó là một thực tại rất to lớn trên
toàn thế giới. Vậy tôi đã
làm gì? Điều tôi đã làm là trao ban giáo lý xã hội của Giáo Hội cho nó,
đó cũng là điều tôi làm đối với giới kinh
doanh. Có một giáo lý xã hội của Giáo Hội. Nếu anh đọc điều tôi đã
nói với các Phong trào bình dân, là một diễn văn khá
dài, nó là một tóm lược giáo lý của Giáo Hội. Tất cả những gì tôi
đã nói là giáo lý xã hội của Giáo Hội, và khi
tôi phải nói với thế giới kinh
doanh tôi cũng nói cùng điều đó, nghĩa là Giáo lý xã hội của Giáo Hội nói gì với thế giới kinh
doanh. Thí dụ trong Thông điệp “Laudato si’” có một đoạn về công ích
và cả nợ nần xã hội của tư sản đi theo
chiều hướng này đó là áp dụng giáo lý
xã hội của Giáo Hội.
Hỏi: ĐTC có nghĩ rằng Giáo Hội sẽ theo ĐTC
trong việc giang tay này không?
Đáp: Ở đây chính tôi theo Giáo Hội, bởi vì tôi
chỉ đơn sơ rao giảng Giáo Lý
xã hội của Giáo Hội cho
Phong trào này. Đó không phải là một bàn tay
giang ra cho một kẻ thù, nó không phải là một sự kiện chính trị, không.
Nó là một sự kiện dậy giáo lý.
Tôi muốn rằng điều này rõ
ràng.
Chị Cristina Cabrejas hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC có sợ hãi rằng các diễn văn của ĐTC bị lèo lái bởi các
chính quyền, các nhóm quyền lực, các
phong trào không?
Đáp: Tôi lập lại một chút những gì đã
nói từ đầu. Mỗi một lời nói, mỗi một câu của một diễn văn có
thể bị lèo lái. Đó là điều nhà báo
Ecuador đã hỏi tôi. Cùng một câu ấy nhưng có vài nguời nói là
phò chính quyền, và người khác thì nói là chống chính
quyền. Đôi khi có các tin tức chỉ lấy một câu và
bên ngoài bối cảnh. Vâng, tôi không sợ, tôi chỉ nói một cách đơn sơ nhưng anh chị em hãy
nhìn bối cảnh. Nếu tôi sai,
thì với một chút xấu hổ tôi xin lỗi thôi và
tiếp tục.
Hỏi: Thưa ĐTC, xin cho phép con hỏi đùa một chút.
ĐTC nghĩ gì về tất cả các hình
tự chụp giữa thánh lễ mà giới trẻ, trẻ em và các
bạn bè họ làm?
Đáp: Tôi nghĩ gì ấy à? Đó là
một nền văn hóa khác. Tôi cảm thấy mình là
ông cố nội. Hôm nay khi từ giã, một anh cảnh sát to
lớn, có lẽ khoảng 40 tuổi, đã nói
với tôi: con xin chụp một bức hình vói
ĐTC. Tôi đã nói với anh: mà anh là một thiếu niên.
Vâng, đó là một nền văn hóa khác, nhưng tôi tôn trọng nó.
Anh Andrea Tornielli hỏi: Thưa ĐTC, đúc kết lại, ĐTC đã
muốn để lại cho Giáo
Hội tại châu Mỹ Latinh sứ điệp nào
trong những ngày này? Và Giáo Hội Mỹ Latinh có
vai trò nào, kể cả như dấu chỉ trong thế giới?
Đáp: Giáo Hội Mỹ Latinh có
một sự phong phú lớn: đó là một Giáo Hội trẻ và điều này quan
trọng. Một Giáo Hội trẻ với một sự tươi mát, cả với một vài
không hình thức. Nó cũng có một nền thần học, một nghiên cứu phong
phú. Tôi đã muốn trao ban tâm hồn cho Giáo Hội trẻ này và
tôi tin rằng Giáo Hội trẻ này có thể cho chúng
ta biết bao nhiêu điều hay đẹp. Trong cả ba quốc gia dọc đường có các
người cha các bà mẹ với trẻ em; họ cho thấy các em.
Chưa bao giờ tôi đã lại trông thấy nhiều trẻ em như vậy, biết bao
nhiêu trẻ em. Đó là một dân, và Giáo Hội cũng như vậy, đó là một bài học cho
chúng ta, cho Âu châu, nơi số sinh giảm sút gây
hoảng sợ một chút, và
cả việc cũng ít có các đường lối chính trị trợ giúp các
gia đình đông con. Tôi nghĩ tới nước Pháp có
một đường lối chính trị đẹp trợ giúp các
gia đình đông con nên đã đạt hơn 2% số sinh,
trong khi các nước khác thì có số sinh gần zero, cả khi không
phải mọi nước đều như thế. Tôi tin
rằng bên Albania có 45%, nhưng bên Paraguay có tói hơn 70% dân số từ 40 tuổi trở xuống. Sự phong phú
của dân tộc và Giáo Hội này đó
là một Giáo Hội sống động. Đó là
một sự phong phú, một Giáo Hội của sự sống. Điều này quan
trọng. Tôi tin rằng chúng ta phải học hỏi từ điều này và sửa chữa lại, bởi nếu không, nếu không có
con cái… Đó là điều mà tôi đã nói biết bao lần về sự gạt bỏ! Người ta gạt bỏ trẻ em, người ta gạt bỏ người già, và
với sự kiện thiếu công ăn
việc làm người ta gạt bỏ người trẻ. Vì thế các dân tộc mới, các dân
tộc trẻ trao ban cho chúng ta nhiều sức mạnh hơn. Đối với Giáo Hội tôi sẽ nói rằng một Giáo Hội trẻ - với biết bao nhiêu
vấn đề, bởi vì có
các vấn đề - tôi tin rằng đó là sứ điệp mà tôi
tìm thấy: đừng sợ hãi cho
tuổi trẻ này và cho sự tươi mát này của Giáo Hội.
Có thể đó là một Giáo Hội hơi vô kỷ luật một chút, nhưng với thời gian sẽ kỹ luật và trao
ban cho chúng ta biết bao điều tốt đẹp.
(SD 13-7-2015)
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét