Trang

Thứ Tư, 7 tháng 3, 2012

THỨ NĂM TUẦN II MÙA CHAY


Thứ Năm sau Chúa Nhật II Mùa Chay


Bài Ðọc I: Gr 17, 5-10
"Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời; phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây Chúa phán: "Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không người ở. Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn. Lòng người nham hiểm khôn dò, nào ai biết được? Còn Ta, Ta là Chúa, Ta thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can, trả công cho mỗi người tuỳ theo cách sống và hậu quả hành vi của họ".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39, 5a).
Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.
3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

Phúc Âm: Lc 16, 19-31
"Con đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: "Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng:
"Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này. Abraham nói lại: "Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn tự đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây được".
Người đó lại nói: "Ðã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này". Abraham đáp rằng: "Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài". Người đó thưa: "Không đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải". Nhưng Abraham bảo người ấy: "Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Qua dụ ngôn trên, Ðức Giêsu cho chúng ta biết số phận con người sẽ được hạnh phúc viên mãn hay bị luận phạt muôn đời tùy theo họ biết yêu thương tha nhân hay không. Ðức Giêsu vạch ra cho chúng ta con đường dẫn tới ơn cứu độ: Biết nghe lời hướng dẫn của Môisê, các ngôn sứ, đặc biệt lời Chúa để sám hối, hoán cải và yêu thương mọi người nhất là những anh chị em nghèo khổ. Thiên đàng không dành riêng cho một mình chúng ta. Chúng ta chỉ có thể tiến vào cùng với anh chị em trong tình yêu thương.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con điều kiện để được cứu độ là yêu thương và tin vào Tin Mừng. Xin cho gia đình chúng con được ánh sáng lời Chúa chiếu soi, để chúng con biết quan tâm, giúp đỡ anh em trong tinh thần hàng xóm láng giềng. Chúng con biết xót thương để chúng con được Thiên Chúa xót thương. Amen.

Người Phú Hộ Với Lazarô

Tất cả lề luật và các lời tiên tri đều quy về hai điều này: "Mến Chúa và Yêu Người". Ðó là cốt tủy của đạo Chúa truyền cho con người trong thời Cựu Ước của dân Do thái cũng như trong Tân Ước qua mạc khải trọn hảo của Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, câu nguyện ngụ ngôn trên của Chúa Giêsu nói về người giàu có và người ăn mày Lazarô xem ra muốn nhấn mạnh vào việc sử dụng tiền của như thế nào? Người giàu có trong dụ ngôn chỉ dùng tiền của mà ông có, để phục vụ những nhu cầu riêng của mình mà thôi. Ông vận toàn gấm vóc, lụa là và ngày ngày yến tiệc linh đình. Ông không biết chia sẻ với người anh em ăn xin nằm trước cửa nhà, ông không biết sống liên đới với kẻ khác. Ông đã không yêu Chúa mà cũng chẳng biết yêu người. Tiền của dư thừa đã làm cho ông bỏ quên Chúa và anh em đồng loại. Tiền của dư thừa là một nguy hiểm cho những ai không có lòng yêu mến Chúa. Ngược lại, người có lòng yêu mến Chúa thật thì sẽ biết sử dụng tiền của Chúa ban mà làm muôn điều ích lợi cho tha nhân.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã lưu ý các người con tinh thần của mình về tinh thần thanh bần trong Phúc Âm như sau: Của cải chôn vùi con, nếu con đội nó lên đầu. Của cải làm bệ chân con, nếu con đứng trên nó. Không có của mà tham vẫn chưa phải là thanh bần. Có của mà không dính bén có thể có lòng khó khăn thực sự. Dùng của cải cách quảng đại, chính là của Chúa trao cho con sử dụng để trao ban cho những người nghèo. Con là quản lý của Chúa, Ngài trao nhiều cho con giữ nhiều, trao ít cho con giữ ít. Ngài thu lại con bằng lòng, nhưng con chịu trách nhiệm về của Ngài. Thanh bần ghen ghét, thanh bần chỉ trích, thanh bần bất lực... không phải là thanh bần Phúc Âm.
Ðể có thanh bần theo Phúc Âm, nhất là để sống thanh bần Phúc Âm cần có tràn đầy tình thương Chúa: "Con hãy về bán tất cả những gì con có, lấy tiền của phân phát cho người nghèo rồi hãy đến theo Thầy". Chàng thanh niên không thể đáp lại lời mời gọi sống thanh bần Phúc Âm trên bước đường theo Chúa, nên đã êm đềm rút lui, vì anh ta có nhiều của cải mà không có nhiều tình yêu Chúa.
Thật là một trường hợp đầy ý nghĩa khi chính trong mùa Chay Thánh này, vào ngày 19 tháng 03, Giáo Hội mừng kính thánh Giuse, một vị thánh nghèo đầu tiên của những người rất giàu niềm tin vào tình yêu đối với Chúa.
Nguyện xin Thánh Cả Giuse cầu cùng Chúa Giêsu ban cho mỗi người chúng con sống trọn vẹn ơn gọi của mình cho đến cùng trong âm thầm, trong nghèo khó để chúng con phục vụ Chúa trong chương trình cứu rỗi của Ngài.
08/03/12 THỨ NĂM TUẦN 2 MC
Th. Gioan Thiên Chúa, tu sĩ
Lc 16,19-31

CHỌN LỰA

Abraham nói: “Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ.” (Lc 16,25)

Suy niệm: Tấm ảnh của J.M. Lopez, nhiếp ảnh gia Tây Ban Nha đoạt giải nhì trong cuộc thi Ảnh của Năm do Unicef tổ chức vào cuối tháng 12 năm ngoái với chủ đề về trẻ em, mô tả một em bé Guatemala 6 tuổi rưỡi suy dinh dưỡng, gầy trơ xương, nặng chưa tới 9kg. Tác phẩm đã để lại trong lòng người xem một ấn tượng xót xa về khoảng cách giàu nghèo trên thế giới hiện nay. Số người chết vì thiếu ăn luôn là một thảm cảnh thời đại, thách thức triền miên lương tâm con người. Trong khi đó, một thiểu số người giàu có với những gia tài kếch xù luôn gia tăng. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đảo ngược vị trí của người nghèo trong thế giới của sự sống: Ladarô được biết đến bằng tên gọi và được hưởng hạnh phúc; còn người giàu thì trở thành kẻ vô danh và bị loại ra ngoài, vì ông ta đã sống ích kỷ cho riêng mình, không quan tâm đến người anh em bất hạnh, đói khổ đang ở ngay trước cửa nhà.

Mời Bạn: Ý định của Thiên Chúa là cứu rỗi tất cả mọi người, nhưng chọn lựa sống như thế nào để được cứu rỗi là tự do của mỗi người. Người nghèo xung quanh bạn thì không thiếu. Nhưng chắc chắn bạn còn thiếu những việc làm tốt để giúp họ.

Sống Lời Chúa: Luôn dành riêng một khoản trong thu nhập của bạn để sẵn sàng chia sẻ cho người nghèo cần đến.

Cầu nguyện: Xin Chúa cho trái tim con đủ lớn để yêu người bất hạnh quanh con; và cho đôi tay con đủ rộng để mang tình yêu Chúa đến cho những con người ấy. Amen.


Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Gioan Thiên Chúa, tu sĩ; Gr  17, 5-10; Tin Mừng theo Thánh Lc 16, 19-31.
LỜI SUY NIỆM: Dụ ngôn về ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó. Đây là một thảm trạng luôn xảy ra trong mọi thời đại, mọi nơi chốn và mọi lúc. Sự giàu nghèo càng ngày làm cho con người cách xa nhau hơn, một bên dư thừa của cải, tiên nghi và miếng ăn; một bên thì luôn thèm khát những vụn vặt dư thừa trên những bàn ăn. Trong dụ ngôn này Chúa Giêsu không nói đến bất cứ một tội nào của ông nhà giàu, cũng không nói đến sự lành thánh của anh La-da-rô. Nhưng khi hai người cùng chết một lúc thì ông nhà giàu đã vào nơi hỏa ngục còn anh La-da-rô lại ở trong vòng tay của Tổ phụ Áp-ra-ham trên thiên đàng, và tổ phụ nói giữa hai bên có một khoảng cách mà không thể đến với nhau được. Đây có phải là một sự không quan tâm đến nhau, vì khi không quan tâm, sẽ dẫn đến không thấy và không biết, không động lòng trắc ẩn và sẽ khống có sự tỏ tình thương. Qua dụ ngôn này, đối với người Ki-tô hữu chúng ta phải thể hiện tình yêu Chúa bằng cách yêu người, và luôn biết quan tâm đến nhau và phục vụ lẫn nhau.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 08-03:
THÁNH GIOAN THIÊN CHÚA
Tu sĩ (1495 - 1550)
Gioan sinh ngày 8 tháng 3 năm 1495 tại Bồ Đào nha. Cha mẹ Ngài là những người nghèo khổ nhưng đạo đức và đầy lòng bác ái. Lúc 9 tuổi Ngài bỏ nhà trốn đi, theo một nhà mạo hiểm đã khéo kích thích trí tưởng tượng của tuổi thơ. Mẹ Ngài đã qua đời sau ba tuần đau khổ vì không biết số phận của con trẻ ra sao. Còn cậu bé bi bỏ rơi, thiếu thốn mọi sự nên đành ở đợ nuôi thân.
Ngài giúp việc cho một nhà tiểu nông, hàng ngày lo đi chăn chiên, cho đến khoảng 20 tuổi. Chán với cuộc sống đều đều, Ngài đăng lính đi chiến đấu ở Phontarabia. Thật bất hạnh khi kiếp sống suy đồi của các bạn đồng ngũ đã lôi kéo Ngài tới chỗ mất cả lòng kính sợ Chúa. Nhưng Chúa đã không bỏ rơi kẻ Ngài đã chọn. Ngày kia, khi đem thức ăn cho súc vật. Gioan bị té ngựa và bị trọng thương không còn cử động và nói năng gì được nữa. Nhận biết được mối nguy đang đe dọa thân xác tâm hồn, thánh nhân khấn cầu Đức Trinh Nữ và hứa sẽ sửa mình. Nhưng khi vừa hết bịnh, Ngài lại trở về đường cũ.
Chúa quan phòng vẫn tiếp tục thể hiện tình thương bằng một hình phạt khác. Vị chỉ huy trao cho Gioan canh giữ chiến lợi phẩm. Nhưng vì bất cẩn sao đó mà chiến lợi phẩm biến mất. Gioan bị án xử giảo, bất kể mọi phân bua kêu khóc. Đến giờ hành hình, may có một cấp chỉ hy cao hơn can thiệp Ngài mới được tha với điều kiện là bị giáng cấp. Bất mãn, Gioan trở về chủ cũ và được tiếp đón niềm nở. Gia chủ còn đề nghị gả con cho Ngài nữa, nhưng Ngài đã từ chối và chỉ sống như một kẻ chăn chiên vô tội.
Mười năm sau Gioan lại đăng lính làm pháo thủ trong cuộc viễn chinh đánh phá Thổ Nhĩ Kỳ. Chiến tranh kết thúc, binh đội Tây Ban nha được giải ngũ. Gioan muốn trở về quê nhà. Nhưng người cậu cho biết mẹ Ngài đã qua đời ba tuần sau ngày Ngài bỏ nhà ra đi, cha Ngài cũng mới qua đời tại một tu viện thánh Phanxicô, những lời trách móc xâu xé tấm lòng của đứa còn hoang đàng... Gioan quyết sửa những ngông cuồng của tuổi trẻ và muốn hiến thân phục vụ người nghèo khổ yếu đau.
Gioan quyết định đi Phi Châu để giúp đỡ các Kitô hữu bị bắt làm nô lệ, với hy vọng được chết vì đạo. Tới Gibraltar, Ngài gặp một nhà quí tộc bị thất sủng và phải đi đày. Cùng ông đáp tàu tới Ceuta, Ngài đã phải làm việc để kiếm tiền nuôi ông chủ chẳng may ngã bệnh và lâm cảnh cùng quẫn. Đồng thời Ngài đã vào các nhà tù, an ủi các tù nhân và săn sóc họ. Vị lãnh Chúa qua đời. Gioan nhận lệnh của một tu sĩ Phanxicô truyền phải trở lại Tây Ban Nha là nơi Thiên Chúa đã cho Ngài biết các ý định của Ngài.
Gioan trở lại Gibraltar. Ngài xin trời cao soi sáng và để nuôi thân Ngài đi bán rong giày dép và tranh ảnh, nhưng vẫn luôn lo cải hóa các tâm hồn.
Một ngày kia Ngài gặp trên đường một đứa trẻ cùng khổ đáng thương với cặp giò trần trụi bị nứt nẻ vì sỏi đá. Ngài vác nó trên vai, dừng lại nghỉ, đám trẻ chỉ cho vị ân nhân một trái lựu (Grenade) có mọc cây thánh giá và nói: - Hỡi Gioan Thiên Chúa, trái lựu (Grenade) sẽ là thánh giá của ông.
Rồi đứa trẻ biến mất. Gioan hiểu chính Chúa Giêsu là đứa trẻ Ngài đã giúp đỡ. Bây giờ Gioan đi Grenada để sống đời bác ái và thống hối. Thánh giá đầu tiên của Ngài là đã bị coi như một kẻ điên, phải chịu mọi thứ sỉ nhục và bị đối xử tàn tệ, Ngài hành hương viếng Đức Bà Guadalupê, vừa bán củi khô để sinh sống. Cuối cuộc hành hương Ngài thấy Đức Trinh Nữ cúi xuống và đặt hài nhi vào tay Ngài với y phục để bao bọc cho Ngài.
Như vậy ơn gọi của Ngài là giúp đỡ những người nghèo khổ của Chúa Giêsu Kitô. Khi qua Oropezo, Gioan đã chữa lành một phụ nữ nghèo. Trở lại Grenada với số tiền kiếm được và với những của trợ cấp, Ngài thuê một căn nhà để thu họp những người khốn khổ, cho các người yếu đau bệnh tật trú ngụ. Ban chiều, Ngài vác giỏ đi ăn xin. Với hai cái xoong trên vai Ngài la lớn :- Ai muốn hành thiện, xin tiếp tay với tôi đây ?
Ngài trở về nhà mang đầy những thực phẩm. Niềm vui cũng thật lớn lao khi Ngài dẫn về nhà vài trú nhân mới, một đứa trẻ bi bỏ rơi. Ưu tư của Ngài không ngừng lại nơi các thân thể bệnh tật. Ở đâu nghĩ là có linh hồn hư mất, Ngài liền đến cải hóa. Ngài chỉ nghĩ tới việc cứu vớt họ.
Lần nọ Ngài mang về một người hấp hối mình đầy thương tích. Khi lau rửa và cúi xuống hôn chân bệnh nhân, Ngài thấy những lỗ đinh chói sáng. Và Chúa, vì chính Ngài, nói: - Gioan đầy tớ trung tín của cha, mọi việc thiện con làm cho những người nghèo khổ, là con làm cho chính Cha. Cha đếm từng bước chân con đi và cha sẽ ân thưởng cho con.
Bệnh viện tràn ngập ánh sáng khiến cho người ta ngỡ là một đám cháy.
Ngày kia có một đám cháy thật, ở bệnh viện Hoàng gia tại Grenada, Gioan lao vào ngọn lửa mang các bệnh nhân ra ngoài, rồi trở lại kéo các bệnh nhân khác. Thật là một phép lạ, khi ra khỏi lò lửa một Ngài vẫn sống.
Trong một trận lụt, Ngài cũng thực hiện những chuyện lạ lùng như vậy.
Giám mục truyền gọi Gioan Thiên Chúa đến, mặc cho Ngài y phục và từ đó Ngài và các môn sinh vẫn mặc. Khi đó Gioan Thiên Chúa đã thiết lập một hội dòng để giúp đỡ những người yếu đau bệnh tật. Dòng sẽ lan rộng trên khắp thế giới, Ngài xây thêm một nhà thương mới. Để trả nợ, Ngài phải đi quyên tiền ở Valladelid. Nhưng có quá nhiều người nghèo vây quanh đến nỗi không đã phân phát hết số tiền quyên được. Người bạn chỉ trích, Ngài đáp lại: - Này anh, người ta tặng ban cho ở đây hay ở Grenada, cũng luôn là vì Chúa, bởi vì Thiên Chúa ở khắp nơi và trong mọi người nghèo.
Gioan tận tụy với mọi người đau khổ không phân biệt. Ngài ngã bệnh khi tổng giám mục Grenada kêu tới. Ngài đi ngay và là để nghe trách cứ vì đã nhận cả những người cứng lòng. Thánh nhân trả lời: - "Nếu con chỉ nhận những người công chính, bệnh xá của chúng con sẽ trống vắng ngay, và làm sao có thể lo lắng cho các tội nhân. Hơn nữa con nhận biết mình chưa làm tròn hết bổn phận, cũng như con hổ thẹn mà thú thực rằng trong nhà thương, Gioan Thiên Chúa là tội nhân duy nhất đã ăn của bố thí một cách vô ích".
Nghe những lời này, vị giám mục cảm động đến rơi lệ và ca tụng Gioan. Ít lâu sau, Ngài ban các bí tích cuối cùng cho thánh nhân. Sắp chết Gioan còn thực hiện một điều lạ lùng, Ngài được biết một người thợ dệt sắp thắt cổ vì quá cực khổ, Ngài liền vội vã ra đi, tới thẳng người xấu số sắp kết liễu cuộc đời và cứu ông ra khỏi cơn tuyệt vọng .
Vào giờ phút cuối cùng, thánh nhân thú nhận ba thứ lo lắng làm se thắt lòng Ngài, là bất xứng với ơn phúc đã lãnh nhận, ưu tư cho những người nghèo mắc cỡ mà Ngài đã bỏ qua không trợ giúp được và những món nợ Ngài đã mắc phải vì các người xấu số.
Các y tá đã nhận Gioan Thiên Chúa làm thánh bảo trợ.
(Daminhvn.net)
+++++++++++++++++
08 Tháng Ba
Phục Sinh

Một linh mục Brazil thuật lại một kinh nghiệm Phục Sinh của mình như sau: "Mỗi ngày, khi đi ngang qua một con đường ở Rio de Janeiro, tôi đều thấy một người đàn ông còn trẻ ngồi dựa lưng vào tường, chìa tay xin ăn. Ông ta không đi được vì đôi chân bị tật. Vì qua lại khá thường, nên sự hiện diện và số phận của người ăn xin què quặt không làm tôi bận tâm suy nghĩ: thế nào là không đi được".
Nhưng một ngày kia, số phận của ông ta bỗng đánh động tâm hồn tôi mãnh liệt. Nhất là khi dừng lại đằng xa quan sát tôi thấy có bao nhiêu người đi ngang qua mà hình như không trông thấy ông. Tôi quyết định đến nói chuyện và hỏi ông: "Ông có thể đứng dậy được không? Ông có muốn đi không?". Ông ta đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn tôi dò xét và khi đọc được sự thành thật trên khuôn mặt của tôi, ông ta nói: "Tôi luôn luôn hy vọng là một ngày nào đó cuộc đời tôi sẽ đổi mới. Dĩ nhiên tôi sẽ đi được nhưng chi phí mua sắm những dụng cụ quá đắt làm sao tôi với tới. Vì thế không còn cách nào hơn là đành quên giấc mơ có thể đi được".
Nghe xong tâm sự của ông, tôi xiết chặt tay ông giã từ và hứa: "Một ngày gần đây, giấc mơ của ông sẽ thành sự thật".
Trong bài giảng thánh lễ Chúa Nhật sau đó, tôi thuật về số phận của ông ăn mày và đề nghị công đoàn hãy làm một cái gì để giúp ông ta. Một cuộc lạc quyên được tổ chức và tôi vui mừng khi thấy số tiền quyên góp được vượt quá chi phí của cặp nạn và đôi chân nhân tạo. Người hành khất càng hân hoan hơn khi tôi báo tin mừng: ông được chuyên chở ngay đến một bệnh viện đặc biệt và trong những tuần lễ kế tiếp, ông cố gắng tập đi đứng một mình.
Lễ Phục Sinh đến. Tôi đi mời ông dự lễ và dành cho ông một chỗ đặc biệt gần bàn thờ. Trong bài giảng hôm ấy, tôi lại đề cập về ông đại ý như sau: "Chúa Giêsu đã Phục Sinh để sống một cuộc sống mới. Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta thông phần vào khả năng trao tặng nhau những cuộc sống mới. Nhờ lòng hảo tâm của anh chị em, ông bạn của chúng ta đã được ban cho một cuộc sống mới". Nói đến đây, tôi mời ông đứng dậy để giới thiệu ông với cộng đoàn mà kể từ nay ông đã trở nên một phần tử. Ông đứng dậy và chống nạng đi trước mặt mọi người. Tôi cảm thấy bầu khí nhà thờ lúc ấy tràn đầy sức sống".
Tin mừng thuật lại như sau: sau mẻ lưới đầy cá, Chúa Giêsu mời các môn đệ cùng điểm tâm với Ngài và Ngài đã cầm lấy bánh và cá trao cho các ông ăn. Phần các môn đệ, tuy không giám hỏi, nhưng họ biết rõ đó là Ngài. Ðây là phương thế Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện giữa những kẻ tin vào Ngài trải qua mọi thời đại: tự nhiên như trong một bữa ăn thân mật, nhưng muốn cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài, chúng ta phải noi gương Ngài chia sẻ cho nhau tất cả những gì mình có.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần II MC
Bài đọc: Jer 17:5-10; Lk 16:19-31.

1/ Bài đọc I:
5 ĐỨC CHÚA phán như sau: Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời,
lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời ĐỨC CHÚA!
6 Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ,
hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy,
trong vùng đất mặn không một bóng người.
7 Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA, và có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân.
8 Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong,
mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi,
gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái.
9 Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được?
10 Ta là ĐỨC CHÚA, Ta dò xét lòng người, thử thách mọi tâm can. Ta sẽ thưởng phạt ai nấy tuỳ theo cách nó sống và việc nó làm.

2/ Phúc Âm:
19 "Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.
20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu,
21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.
23 "Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ.
24 Bấy giờ ông ta kêu lên: "Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!
25 Ông Áp-ra-ham đáp: "Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.
26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.
27 "Ông nhà giàu nói: "Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con,
28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!
29 Ông Áp-ra-ham đáp: "Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.
30 Ông nhà giàu nói: "Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.
31 Ông Áp-ra-ham đáp: "Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin."

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải tin Thiên Chúa hơn tin người đời.

Nếu một người tin ai hay tin điều gì thì họ sẽ cậy dựa vào điều đó. Ví dụ, nếu một người tin có tiền mua tiên cũng được, họ sẽ ra sức làm sao cho có nhiều tiền; hay nếu một người tin có uy quyền sẽ có tất cả, họ sẽ lo làm sao cho được một địa vị cao trong xã hội. Nhưng nếu một người tin hạnh phúc không lệ thuộc vào những lợi lộc vật chất, họ sẽ đi tìm những giá trị tinh thần qua những lời khôn ngoan của bậc thánh hiền.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc phải tin và cậy dựa vào Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tiên tri Jeremiah đưa ra hai mẫu người với hai niềm tin khác nhau. Tiên tri nói: Phúc thay cho những ai cậy dựa vào Thiên Chúa. Họ như cây trồng bên suối nước, sẽ luôn sinh hoa kết quả và không bao giờ bị khô héo. Nhưng khốn thay cho kẻ tin vào sức phàm nhân, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, và lúc nào cũng như đang sống trong đồng khô cỏ cháy. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đưa ra hai mẫu gương để dạy cho dân một bài học: một người giàu có và Lazarus, người nghèo khó. Người giàu có dùng tiền bạc của mình để sống phung phí trên sự nghèo khó của Lazarus. Khi cả hai chết đi, cuộc sống hai người bị đảo ngược: Lazarus được ngồi trong lòng tổ-phụ Abraham trên trời; trong khi người giàu có phải chịu cực hình trong lửa đời đời.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải đặt niềm tin nơi nào cho đúng.
1.1/ Hai niềm tin: Tục ngữ Việt Nam có câu: “chọn mặt gởi vàng, chọn người để tin.” Để lập gia đình cũng thế, nếu một người biết lựa chọn kỹ lưỡng người để kết hôn theo những giá trị tinh thần, cuộc sống gia đình tương lai sẽ bền vững; nhưng nếu chỉ “vơ bèo vạt tép,” làm sao có thể ở với nhau suốt đời được? Tương tự như thế trong khi chọn người để ký thác cả phần hồn lẫn phần xác, con người phải lựa chọn giữa Thiên Chúa, phàm nhân, hay của cải vật chất. Khi con người chọn tin vào ai, họ sẽ làm quyết định theo niềm tin của họ. Tiên tri Jeremiah đưa ra hai lựa chọn căn bản và những hậu quả của chúng.
(1) Tin ở người đời: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa! Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn không một bóng người.”
Tiên tri Jeremiah sống trong thời gian lịch sử mà đa số dân tộc Israel, vua cũng như dân, quay lưng lại với Thiên Chúa. Hezekiah, Vua Judah đã chọn tin tưởng nơi Vua Ai-cập hơn là tin tưởng nơi Thiên Chúa. Hậu quả là vương quốc bị rơi vào tay Vua Babylon và tòan dân bị lưu đày. Điều khờ dại nhất của con người là chọn những tạo vật của Thiên Chúa làm ra thay vì chọn chính Đấng đã tạo dựng nên mọi sự. Điều ma quỉ dùng để cám dỗ con người là làm cho con người chỉ chú trọng đến hậu quả hiện tại tạm thời, mà quên đi quá khứ và không cần nhìn đến tương lai.
(2) Tin ở Thiên Chúa: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái.”
Khi một người khôn ngoan sống theo niềm tin của mình, chọn Thiên Chúa là điều quá hiển nhiên, vì Ngài là nguồn gốc mọi sự. Làm sao một người có uy quyền để bảo vệ một người như Thiên Chúa? Thánh Polycarp, khi được quyến dũ để bỏ Thiên Chúa, đã khẳng khái trả lời: “Trong 86 năm tôi đã phục vụ Ngài, Ngài đã không bao giờ gây ra bất kỳ thiệt hại gì cho tôi: Làm sao tôi có thể xúc phạm đến Vua và Đấng Cứu Chuộc của tôi?”
1.2/ Thiên Chúa thấu suốt lòng con người: Tin thế nào sẽ sống như vậy; cuộc sống con người biểu tỏ những gì con người tin. Họ sẽ phải ra trước tòa phán xét để trả lời với Thiên Chúa về cuộc sống của họ. Khi đó, họ không thể nói họ đã tin Thiên Chúa trong lòng hay tuyên xưng Ngài bằng miệng lưỡi được, vì đời sống của họ sẽ là bằng chứng tố cáo họ. Lời tiên tri Jeremiah cũng cảnh cáo những con người hai lòng: “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được? Ta là Đức Chúa, Ta dò xét lòng người, thử thách mọi tâm can. Ta sẽ thưởng phạt ai nấy tuỳ theo cách nó sống và việc nó làm.”

2/ Phúc Âm: Lazarus tin nơi Thiên Chúa.
2.1/ Ông nhà giàu tin nơi sự giàu có của mình: Chỉ trong ít lời ngắn ngủi, Thánh sử Lucas đã lột tả được sự bất công giữa lòai người: một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người, vừa nghèo khó lại vừa bệnh tật, tên là Lazarus, nằm trước cổng ông nhà giàu. Lazarus thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Cuộc đời sau đảo lộn thứ tự của cuộc đời này. Người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Lazarus trong lòng tổ phụ. Ông kêu cứu: "Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, và sai anh Lazarus nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”
2.2/ Lazarus tin nơi tình yêu Thiên Chúa: Thiên Chúa dựng nên mọi sự trong trời đất cho mọi người hưởng dùng. Con người không phải là chủ nhân, mà chỉ là những người quản lý của cải của Thiên Chúa. Vì thế, con người không được quyền phung phí của cải trong khi những người nghèo không có của ăn. Nếu họ không san sẻ của cải cho người nghèo, họ sẽ phải nghe những lời như Abraham nói với người giàu có: "Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Lazarus suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Lazarus được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.”

2.3/ Bài học cho người còn sống: Sống thế nào sẽ phải lãnh nhận hậu quả như vậy. Nếu chưa biết cách sống, con người phải tìm tòi học hỏi để biết sống, nhất là qua Kinh Thánh. Việc hóan cải đòi nhiều nỗ lực và thời gian, chứ không phải khi muốn là được. Người giàu có xin Abraham sai Lazarus đến nhà để cảnh cáo cho năm người anh em của ông cũng đang sống bất công như vậy, nhưng Abraham đáp: "Nếu Moses và các ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin."

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta chỉ có thể lựa chọn một trong hai điều: tin nơi Thiên Chúa hay nơi phàm nhân. Chúng ta không thể làm tôi hai chủ: “cả Thiên Chúa lẫn tiền tài.”
- Tin thế nào sẽ sống thế ấy; cuộc sống là biểu tỏ những gì con người tin. Chúng ta không thể chỉ tin trong lòng hay nơi “chót lưỡi đầu môi.”

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham (Lc 16,22)

Suy niệm: 
Trong các dụ ngôn ít khi chúng ta gặp được một tên riêng như trong dụ ngôn này.
Tên Lazarô do bởi chữ “Eléaxar,” Thiên Chúa trợ giúp. Tên ông hằng được nhắc nhớ bao lâu mà nhân loại hãy còn kẻ nghèo khó. Ông Lazarô và phú ông là hai nhân vật chính của bài dụ ngôn. Hai người này đại diện cho hai địa vị, hai nếp sống, hai thái độ trái ngược hẳn nhau một cách chua xót phũ phàng. Người thứ nhất là một phú ông cỡ ba bè gỗ lim, ông sống giàu sang, nhung lụa gấm vóc, nhà mát bát vàng. Ông chỉ có một việc ngồi chơi xơi nước để thụ hưởng một gia tài kếch xù trong yến tiệc linh đình và truy hoan. Nhân vật thứ hai là Lagiarô, đã nghèo lại bệnh tật, đói khát sống chui rúc ngay bên cổng nhà phú ông mà ông ta không thèm ngó ngàng. Ngày ngày Lagiarô có lẽ ăn xin những người vào ra nhà ông phú hộ. Kinh Thánh ghi lại, Lagiarô ước ao được ăn những của rơi rụng rớt từ bàn chủ xuống đất. Những đồ ăn dư thừa đó có lẽ và đáng lẽ chỉ dành cho con chó (c.21) nhưng ông cũng không được gì. Mà rồi loài chó nhà ông ta đến liếm những ung nhọt ung thư ghẻ lở càng làm xoáy thêm nỗi khốn khổ, vì ông chẳng còn đủ sức để đuổi chúng nó đi nữa.
Đó là hai cảnh sống, hai thứ địa vị trái ngược nhau, và rồi cả hai đều gặp nhau trong cõi chết. Cái chết xóa bỏ mọi địa vị khác nhau một trời một vực. Người nghèo kia chết trước, thân xác ông ra sao, liệu có đủ manh chiếu tấm vải bọc thân không, không thấy nói gì. Có lẽ chết đi là một cái mừng cho phú ông, đỡ đi cảnh chướng tai gai mắt cho cổng nhà ông. Có lẽ người ta vội vã đem đi chôn chứ đừng hòng mồ cao mả dài. Tuy nhiên, linh hồn ông được Thiên thần đón rước đưa vào lòng Abraham như đứa con vào lòng cha nó (c.22). Và rồi thời gian qua ông nhà giàu cũng chết. Hẳn là đám táng của ông linh đình trọng thể lắm, vì nghĩa tử là nghĩa tận. Tiền của và sự giàu sang theo ông tới nấm mộ. Ông hẳn được chôn cất theo phong tục của nhà giàu miền Do Thái, có cáng, có nhà táng, có người khóc mướn, có nấm mộ được khoét sâu vào đá chiếm một quả đồi riêng như cỡ Kim tự tháp vậy. Nhưng cái gì đã xảy ra cho ông bên kia nấm mộ sang trọng đó? Hỏa ngục chăng?
Như vậy dụ ngôn này không minh chứng hễ sung sướng hạnh phúc ở đời này thì nhất định đời sau phải khổ, cũng không minh chứng mỗi người đã có một số mệnh hễ khổ là được về trời, hễ sướng đời này là thôi đời sau. Không phải như thế, dụ ngôn này nhằm minh chứng rằng giàu sang đời này có thể làm mất hạnh phúc đời sau, chứ không nhất định chắc chắn mất, Kinh Thánh gọi là “Con lạc đà đứng trước mũi kim” (Mc 10,25). Dụ ngôn muốn nói rằng của cải đời này tự nó không bảo đảm hạnh phúc mai hậu được. Dụ ngôn cũng không muốn nói thẳng rằng: sau cái chết thì con người không thể thay đổi gì cho mình nữa, không có chuyện ăn năn thống hối sau khi chết nữa. Kinh Thánh diễn tả một giọt nước lã. Trần gian này thiếu gì nước, nước Wisky cũng sẵn nữa – thế mà lúc ấy không được. Xin chút nước còn không được chứ đừng hòng xin hiện về “Kinh lý chơi” (c.24 c.27). Tại sao dụ ngôn không nói gì đến tội lỗi của ông, không nói ông phạm tội bất công, bóc lột hay trộm cắp gì. Nhưng việc ông xuống hoả ngục là điều minh chứng ông có tội nặng chứ. Cái lý do mất nước trời của ông là:
- Ông sống ích kỷ, hà tiện, không thực hành bác ái.
- Không giữ luật công bằng của các tiên tri.
- Không biết dùng đời này... chỉ dùng tiền vào ăn nhậu, yến tiệc xa hoa, gấm vóc.
Tiền của là chìa khóa vàng mở được mọi cửa, trừ cửa nước Trời.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu, chính tình yêu sẽ liên kết chúng con nên một trong Chúa. Chúng con cũng hiểu rằng lòng thương xót kẻ khốn khổ sẽ đặt chúng con bên cạnh Ladarô và trong lòng Chúa. Trái lại sự ích kỷ sẽ đẩy chúng con xuống vực thẳm chung với người phú hộ. Nhưng trong thực tế cho thấy chúng con đã xa rời Chúa và anh em vì ích kỷ nhỏ nhen. Chúng con thiếu bác ái, thiếu cảm thông với anh em vì sợ bị liên lụy. Chúng con thiếu tình liên đới chia sẻ của những người anh em con cùng một Cha trên trời. Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con đã không động lòng trắc ẩn trước những khổ đau của tha nhân. Trái tim chúng con băng giá, tình yêu chúng con khô khan. Chúng con đã từ khước tiếng gọi thổn thức của con tim. Xin Chúa giúp chúng con biết mở rộng đôi tay để thi ân, để làm phúc cho kẻ cơ hàn, nhờ đó chúng con có thêm nhiều bạn hữu trong Nước Trời.

Suy niệm:

Tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới
còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.
Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất.
Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu
cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh
cho cả thế giới trong một thời gian dài.

Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô,
chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.
Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị,
giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực.
Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc.
Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày,
vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống.
Ông nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô,
nhưng thấy mà như không thấy có Ladarô trên đời.
Tiện nghi vật chất đã thành bức tường kín.
Ông sống an toàn mãn nguyện trong khoảng không gian riêng.
Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn cách.
Không cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em.
Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài mãi đến đời sau.
Hỏa ngục là sự tự cô lập mình không thể đảo ngược được.
Chẳng ai có thể cho tôi một giọt nước.
Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau
là do chính con người đã tạo ra từ đời này.

Ông nhà giàu bị phạt, không phải vì ông đã bóc lột ai,
nhưng vì ông không bị sốc chút nào
trước sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô.
Từ sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải.
Nhiều nước giàu vẫn trợ giúp các nước nghèo,
nhưng không muốn loại bỏ sự bất bình đẳng.
Các nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công,
và bị nô lệ cho những món nợ không sao trả hết.
Ông nhà giàu bị phạt không phải vì ông đã nhận nhiều,
nhưng vì ông đã không san sẻ những gì mình nhận.
Giàu không phải là một tội, của cải tự nó không xấu.
Có bao người giàu tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.
Nhưng giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm:
Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự mãn, hưởng thụ,
bị ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.

Chúng ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu có về các mặt khác:
giàu kiến thức chuyên môn, giàu thế lực ảnh hưởng,
giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm vui, ơn Chúa.
Hãy tập nhìn xuống để thấy bao người dưới mình.
Chia sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.
Ước gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán cải,
để thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô
nằm ngay nơi cửa, trong khu xóm…
Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta
cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.

Cầu nguyện:

 Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Nqày 08
thánh Gioan Thiên Chúa, tu sĩ
 

Con người càng ngày càng ít cố gắng nhớ lại điều gì. Chúng ta nhận thấy Đức Giêsu dần dần chìm vào quên lãng, trong xã hội cách chung, nhưng ngay cả nơi Kitô hữu, chúng ta có thể nói, ngay cả nơi những người đạo đức. Nếu người ta biết được Danh của Đức Giêsu, nhưng nội dung của Danh này càng ngày càng hóa ra nghèo nàn. Nó trở thành một thứ trừu tượng, không có độ dày nhân bản, một kỷ niệm mơ hổ về một tên nào đó, nhưng sống chiến thắng của Đức Giêsu Kitô, Chúa và là Đâ'ng Cứu độ chúng ta, đón nhận vào trong thân xác chúng ta sức mạnh của phục sinh, đã giúp chúng ta giải phóng tội lỗi và cái chết. Kinh nghiêm về ơn cứu độ này đã giúp thánh Phaolô gánh mọi thứ khó khăn, không những cho bản thân, nhưng cho cả những người mà ngài có trách nhiệm mục vụ, đạt được ơn cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô.
Con người hay quên không còn nhận ra công trình của Đấng cứu độ. Thánh lễ thưa dần. Lời cầu nguyện tạ ơn chỉ còn nơi những người nhớ đến những ân huệ đã được lãnh nhận và việc biết ơn là lương thực cho các kỷ niệm này. Nó là hướng tới của tâm hổn, một lời đáp tình yêu, lôi kéo tín hữu đến chân Đức Giêsu để tạ ơn vì ơn cứu độ đã nhận được.
P. Luc Fritz
Thánh Gioan của Thiên Chúa

(1495 - 1550)


Từ lúc tám tuổi cho đến khi chết, Thánh Gioan thường hành động hấp tấp. Sự thử thách là làm sao để biết đó là sự thúc giục của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là những cám dỗ trần tục. Nhưng không giống như những người bốc đồng khác, một khi đã quyết định, dù hấp tấp đi nữa, thánh nhân trung thành với quyết định ấy dù có gian khổ cách mấy.
Khi lên tám tuổi, Gioan nghe một linh mục nói về cuộc phiêu lưu đi tìm thế giới mới. Ðêm hôm ấy, Gioan bỏ nhà đi theo vị linh mục này và không bao giờ gặp mặt cha mẹ nữa. Cả hai đi ăn xin từ làng này sang làng khác cho đến khi Gioan ngã bệnh nặng. May mắn, nhờ một người tá điền trong vùng chăm sóc và nhận làm con nuôi nên Gioan mới sống sót. Anh làm nghề chăn cừu cho đến khi 27 tuổi thì gia nhập quân đội Tây Ban Nha trong cuộc chiến chống với nước Pháp. Khi là quân nhân, Gioan bê bối không thể tưởng, anh đánh bài, uống rượu và cùng với đồng đội phá làng phá xóm. Một ngày kia, khi đang cưỡi con ngựa ăn cắp được, anh bị ngã ngựa gần ranh giới với nước Pháp. Hoảng sợ vì thoát chết, anh nhìn lại cuộc đời và vội vàng thề sẽ thay đổi.
Khi trở về đơn vị, anh giữ lời hứa và đi xưng tội, thay đổi lối sống. Các bạn đồng đội không bận tâm với việc sám hối của anh, nhưng họ chán ghét anh vì anh luôn thúc giục họ từ bỏ các thú vui trụy lạc. Bởi đó họ tìm cách đánh lừa để anh rời bỏ nhiệm sở, vi phạm kỷ luật và bị đuổi ra khỏi quân đội sau khi bị đánh đập và lột hết của cải. Anh phải đi xin ăn trên đường trở về nhà cha nuôi, trở lại nghề chăn cừu.
Khi chăn cừu, Gioan có nhiều thời giờ để suy niệm về ơn gọi của mình. Vào lúc 38 tuổi Gioan quyết định sang Phi Châu để chuộc những Kitô Hữu bị bắt. Nhưng trong khi chờ đợi ở bến tầu Gibraltar, vì cảm thương một gia đình quý tộc bị sa cơ thất thế sau biến động chính trị và phải lưu đầy, Gioan quên đi ý định ban đầu và tình nguyện làm gia nhân cho họ. Khi đến đất lưu đầy, gia đình này bệnh hoạn đến độ không những Gioan phải săn sóc họ mà còn phải đi làm để kiếm tiền nuôi sống họ. Công việc xây cất các thành lũy thật vất vả, thật bất nhân mà các nhân công thường bị đánh đập và đối xử tàn tệ bởi những người tự xưng là Công Giáo. Cảnh tượng ấy đã làm lung lay đức tin của Gioan. Một linh mục khuyên Gioan đừng đổ tội cho Giáo Hội vì những hành động của giáo dân, và nên về lại Tây Ban Nha.
Ở Tây Ban Nha, ban ngày Gioan làm phu khuân vác bến tầu, ban đêm ngài đến nhà thờ để cầu nguyện và đọc sách thiêng liêng. Việc đọc sách đem lại cho ngài niềm vui đến độ ngài quyết định phải chia sẻ niềm vui ấy với người khác. Gioan bỏ nghề khuân vác và đi bán sách dạo, lang thang từ phố này sang phố khác để bán sách thiêng liêng và ảnh các thánh. Khi 41 tuổi, Gioan sang Granada mở một tiệm bán sách nhỏ.
Sau khi nghe giảng về sự ăn năn sám hối của vị giảng thuyết nổi tiếng thời bấy giờ là Chân Phước Gioan Avila, Gioan trở về nhà, xé tất cả các sách đời, phân phát tiền của và các sách đạo cho mọi người. Gioan lang thang với quần áo rách nát, than khóc về tội lỗi của mình như một người điên, và bị trẻ con cũng như mọi người chế nhạo.
Bạn bè đưa Gioan vào dưỡng trí viện để chữa trị, là nơi ngài bị trói và bị đánh đập. Cho đến khi Chân Phước Gioan Avila đến thăm và cho biết là sự sám hối của ngài đã đủ 40 ngày, như Ðức Kitô xưa ăn chay trong sa mạc, thì Gioan trở lại bình thường và được đưa sang một khu vực khác, lành mạnh hơn. Ở đây, Gioan nhanh nhẹn giúp đỡ các bệnh nhân khác, và bệnh viện cũng không phiền hà khi có một người trợ tá làm việc không công. Cho đến khi ngài tuyên bố là sẽ mở một nhà thương khác thì họ cho ngài xuất viện.
Có thể Gioan tin rằng Thiên Chúa muốn ngài xây cất một bệnh viện cho người nghèo bị xã hội hắt hủi, nhưng ai nấy cũng đều cho đó là một người điên, vì làm sao có thể xây cất một bệnh viện với nguồn tài chánh duy nhất là việc bán củi. Ban đêm, ngài lấy những đồng tiền kiếm được mua thực phẩm và quần áo cho những người nghèo sống dưới gầm cầu hoặc trong các căn nhà hoang phế. Bởi thế, bệnh viện đầu tiên của ngài là các đường phố ở Granada. Cho đến khi có một người hảo tâm cho Gioan thuê lại một căn nhà với giá rẻ, "bệnh viện" của ngài mới bắt đầu thành hình mà tất cả phương tiện cũng như sự tài trợ là nhờ đi xin. Với kinh nghiệm xin ăn sẵn có, ngài đi khắp đường phố, miệng rao lớn, "Hãy làm việc lành cho chính mình! Vì tình yêu Thiên Chúa, hỡi anh chị em, hãy làm việc lành!" Ban ngày, ngài cõng các bệnh nhân về nhà như khuân đá, khuân củi, để tắm rửa, lau chùi các vết thương và cho họ ăn mặc tử tế. Ban đêm thì ngài cầu nguyện.
Cuộc sống của ngài đã bị chỉ trích bởi những người không thích hành động bác ái vội vàng hấp tấp. Có lần, khi gặp một gia đình đi xin ăn đang đói, ngài chạy vội vào một căn nhà gần đó, lấy cắp nồi cơm và đem cho họ. Lần khác, khi thấy các em bụi đời quần áo rách nát, ngài vào tiệm quần áo và mua quần áo mới cho chúng. Dĩ nhiên, là mua chịu!
Tuy nhiên sự vội vàng ấy đã giúp nhiều người sống sót trong một vụ hoả hoạn ở nhà thương mà ngài đã liều mình xông vào lửa, bế các bệnh nhân ra ngoài. Vào lúc ấy, nhà cầm quyền quyết định dùng súng đại bác để phá hủy một phần nhà thương nhằm ngăn chặn ngọn lửa khỏi cháy lan sang thì ngài đã ngăn cản họ, và vội vàng leo lên mái nhà dùng chiếc búa rìu tách rời phần bị cháy. Ngài thành công, nhưng đồng thời cũng rơi theo mái nhà hực lửa đang sụp đổ. Trong khi mọi người hồi hộp cho số phận vị anh hùng cứu tinh thì lạ lùng thay, Gioan bước ra khỏi đám lửa một cách bình an vô sự.
Khi thánh nhân lâm bệnh nặng thì ngài nghe tin cơn lũ lụt đang trôi dạt những cây gỗ quý về gần thành phố. Không bỏ lỡ cơ hội, ra khỏi giường bệnh, ngài đi vớt gỗ trên dòng sông đang chảy xiết. Và khi một trong những bạn đồng hành của ngài bị rớt xuống sông, ngài đã không nghĩ đến bệnh tình cũng như sự an toàn cho chính mình mà đã nhảy theo cứu vớt. Ngài thất bại không cứu được người ấy, và chính ngài thì bị sưng phổi. Ngài từ trần ngày 8 tháng Ba, ngày sinh nhật thứ năm mươi lăm của ngài, chỉ vì sự yêu thương vội vàng mà đó là động lực của toàn thể cuộc đời ngài.
Thánh Gioan của Thiên Chúa được đặt làm quan thầy của người bán sách, thợ in, bệnh nhân, bệnh viện, y tá, lính cứu hỏa và được coi là người sáng lập tổ chức Sư Huynh Bệnh Viện.
Lời Bàn
Sự khiêm hạ tuyệt đối của Thánh Gioan của Thiên Chúa là điều cảm phục nhất, được thể hiện qua sự vị tha hoàn toàn vì người khác. Thiên Chúa đã ban cho ngài các ơn khôn ngoan, kiên nhẫn, dũng cảm, nhiệt tình và khả năng ảnh hưởng đến người khác. Ngài nhìn thấy sự sai lầm của thời trai tráng, sống xa cách Thiên Chúa, và sau đó đã nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa để bắt đầu một đời sống mới, thực sự yêu thương tha nhân.

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét