Thứ Sáu sau Chúa Nhật II Mùa Chay
Bài Ðọc
I: St 37, 3-4. 12-13a. 17b-28
"Này
thằng chiêm bao đến kia rồi, anh em hãy lại đây, chúng ta bắt giết nó".
Trích sách
Sáng Thế.
Khi các
anh Giuse đi chăn những đoàn chiên của cha mình tại Sikem, thì Israel nói với
Giuse: "Có phải các anh con đang chăn chiên ở Sikem không? Con hãy lại
đây, cha sai con đi tìm các anh con".
Giuse đi
tìm các anh mình và gặp các anh tại Ðôtain. Khi các anh thấy Giuse từ đằng xa
tiến lại gần, họ liền âm mưu tìm cách giết Giuse. Họ nói với nhau rằng:
"Này thằng chiêm bao đến kia rồi, anh em hãy lại đây, chúng ta bắt giết
nó, ném xác nó xuống một cái giếng cạn và nói nó bị thú dữ ăn thịt, rồi xem các
điềm chiêm bao của nó sẽ ra sao?"
Ruben nghe
nói thế, liền định cứu Giuse khỏi tay anh em, nên nói rằng: "Chúng ta đừng
giết nó, đừng làm đổ máu, song ném nó xuống giếng nơi hoang vu này, và như thế,
tay các em không phải vấy máu". Ruben nói như thế, vì có ý muốn cứu Giuse
khỏi tay các anh em, để đem Giuse về cho cha mình. Khi Giuse vừa đến gần, các
anh liền cởi áo dài Giuse đang mặc, và bắt ném xuống giếng cạn.
Ðang khi
các ông ngồi ăn bánh, thì thấy một đoàn người Ismael từ Galaad tiến về Ai-cập,
các con lạc đà của họ chở đầy hương liệu, nhựa thơm và dầu thơm. Giuđa nói với
các anh em rằng: "Chúng ta giết em chúng ta và giấu máu nó đi, thì có ích
lợi gì? Tốt hơn là chúng ta đem bán nó cho người Ismael và tay chúng ta không
phải vấy máu, vì Giuse là em ruột thịt chúng ta". Các anh em nghe theo lời
Giuđa, nên khi các người lái buôn từ Mađian đi ngang qua đó, các ông kéo Giuse
lên khỏi giếng và đem bán cho các người Ismael với giá hai mươi đồng bạc, và họ
dẫn Giuse sang Ai-cập.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 104, 16-17. 18-19. 20-21
Ðáp: Các ngươi hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm (c.
5a).
Xướng: 1)
Chúa đã gọi cảnh cơ hàn về trên đất nước, và rút đi mọi sự nâng đỡ bằng cơm
bánh. Ngài đã sai một người đi trước họ: Giuse đã bị bán để làm nô lệ. - Ðáp.
2) Thiên hạ
đã lấy xiềng để trói chân người, và cổ người bị cột bằng xích sắt, cho tới khi ứng
nghiệm lời tiên đoán của người, lời của Chúa đã biện minh cho người. - Ðáp.
3) Vua đã
sai cởi trói cho người, Chúa của chư dân cũng đã giải phóng người. Vua đã tôn
người làm chủ của mình, và làm chúa trên toàn diện lãnh thổ. - Ðáp.
Câu Xướng
Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab
Hôm nay
các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe lời Chúa phán.
Phúc Âm:
Mt 21, 33-43. 45-46
"Ðứa
con thừa tự kia rồi, nào anh em, chúng ta hãy giết nó".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông
hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu
chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh; đoạn ông cho tá điền thuê, rồi
đi phương xa. Ðến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi.
Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia
và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ
cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì
nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai
ông chủ liền bảo nhau: "Ðứa con thừa tự kia rồi: Nào anh em! Chúng ta hãy
giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó". Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn
nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào? Các ông trả lời:
"Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ
mùa nộp phần hoa lợi". Chúa Giêsu phán: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy
trong Kinh Thánh sao:
"Chính
viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc; đó là việc Chúa làm và là việc
lạ lùng trước mắt chúng ta?" Bởi vậy, Ta bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất
khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái".
Các Thượng
tế và biệt phái nghe dụ ngôn đó, thì hiểu Người ám chỉ về mình. Họ liền tìm
cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì thiên hạ đều tôn Người là Tiên tri.
Ðó là lời
Chúa.
Suy Niệm:
Thiên Chúa
đã yêu thương tuyển chọn và chăm sóc dân Người. Nhưng những con người bất tín,
điển hình là các nhà lãnh đạo Do thái đã đưa dẫn vào con đường bội nghĩa. Người
đã sai các ngôn sứ đến và các ngài đã bị đối xử tàn tệ. Cuối cùng Thiên Chúa đã
sai chính Con Một của Người đến. Ngài đã bị họ xỉ nhục, đánh đòn và đóng đinh
trên Thập Giá. Nhưng chính nhờ Ngài, ơn cứu độ đã được thực hiện cho muôn người.
Qua cái chết của Ðức Giêsu, một dân tộc mới được khai sinh, Giáo hội được chào
đời.
Cầu Nguyện:
Lạy Cha,
hôm nay Ðức Giêsu cho chúng con thấy thái độ gian ác và cứng lòng của người Do
thái. Phần chúng con, cũng rất nhiều khi chúng con khước từ tình yêu của Cha,
và trở nên những người con bội nghĩa, khi chúng con phạm tội làm mất lòng Cha.
Xin cho chúng con trong mùa chay này biết thực lòng sám hối và quay về với Cha
để được ơn tha thứ. Chúng con cầu xin nhờ danh Ðức Giêsu, Chúa chúng con. Amen.
Nước Thiên Chúa Sẽ Cất Khỏi Các Ông
Trong bài
Tin Mừng hôm nay, thánh sử Matthêu cho chúng ta lắng nghe dụ ngôn của Chúa
Giêsu nói về sự phản bội của một số người trong dân Chúa chọn, trước lời mời gọi:
"Hãy làm cho hồng ân Chúa ban được trổ sinh nhiều hoa trái". Thiên
Chúa cho ai nhiều, thì sẽ đòi nhiều. Chúa ban cho con một đời sống, Ngài cũng
ban tự do để con chọn lựa sống một đời sống thánh thiện, cao đẹp, bổ ích hay
phá tán thành một đời sống cằn cỗi, phản bội, độc hại, đê hèn. Phải! Thiên Chúa
đã dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến. Nhưng Ngài không thể cứu chuộc
chúng ta, nếu không có sự cộng tác của chúng ta.
Với tự do,
bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể thưa không đối với chương trình của Chúa.
Nhưng lúc đó người bị thiệt hại không phải là Thiên Chúa, mà kẻ thiệt hại chính
là chúng ta. Lúc đó, chúng ta làm cho cuộc sống mình trở thành cằn cỗi, phản bội,
độc hại và đê hèn.
Anh chị em thân mến!
Chúa Giêsu đã nói dụ ngôn này trước biến cố khổ nạn xảy
ra cho Ngài. Sau khi mầu nhiệm vượt qua được hoàn tất, đó là việc Chúa đã chịu
chết và Phục Sinh để hoàn tất chương trình cứu chuộc nhân loại của Ngài. Chúng
ta nghe lại dụ ngôn này và lĩnh hội thấm thía hơn ý nghĩa của nó. Vì tình yêu đối
với con người, Thiên Chúa có sáng kiến thực hiện chương trình cứu độ, nhưng con
người đã sử dụng tự do của mình để chống lại chương trình của Ngài, không cộng
tác với chương trình của Thiên Chúa.
Thật tệ hại hơn nữa là đã và đang còn có những người dám
lộng ngôn tuyên bố Thiên Chúa đã chết, và nếu Ngài chưa chết thì họ dám hành động
giết Ngài. Nói thế hay làm thế, họ tưởng rằng mình có thể phá đổ được chương
trình của Ngài. Nhưng thực sự thì họ đã làm hư hỏng cuộc đời của họ và gây thiệt
hại cho anh em xung quanh.
Ðã 2,000 năm qua, nước Thiên Chúa vẫn tiếp tục lan rộng,
Giáo hội Chúa vẫn tiếp tục phát triển cách lớn mạnh. Chúa Giêsu Kitô vẫn còn gặp
được những tâm hồn chân thành yêu mến Ngài, và kiên trì dấn thân làm lợi những
hồng ân lãnh nhận từ tình yêu Chúa để phục vụ anh em đồng loại.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập
sách "Ðường Hy Vọng" chia sẻ những suy tư của mình như sau: Nhiều người
Công giáo khoán việc cứu rỗi trần gian cho Chúa. Họ ý thức rằng, Chúa trao việc
cứu rỗi trần gian cho họ cộng tác. Giáo dân là người mến yêu sự cứu rỗi trần thế
của mình, là người tin rằng Chúa trao cho mình trần gian để đưa họ đến sự cứu rỗi
vĩnh cửu. Là người xác tín rằng, Chúa ban sự cứu rỗi, nhưng Chúa đòi việc cộng
tác của con người.
Có những
người Công giáo đợi chờ, khoanh tay mong đợi niềm hy vọng đến. Có những người
Công giáo thụ động, trốn tránh, vô trách nhiệm. Họ chỉ biết nhìn lên để kêu cứu
mà không biết nhìn tới để tiến, và nhìn quanh để chia sẻ gánh vác cho nhau. Niềm
hy vọng đang ở giữa họ mà họ không hay. Người ích kỷ tránh trách nhiệm, tránh mệt
nhọc, tránh hy sinh. Họ muốn tạo hạnh phúc, tạo một thiên đàng dành riêng cho họ
giữa trần gian, nhưng họ sẽ mất thiên đàng vĩnh viễn.
Chúng ta
không cần nói nhiều đến thái độ của kẻ khác trước ơn cứu rỗi Chúa ban cho,
nhưng mỗi người chúng ta cần nhìn đến chính cuộc sống của mình. Tôi đã cộng tác
với ơn Chúa ban như thế nào? Tôi có thể nói được như Thánh Phaolô không:
"Nhờ ơn Chúa, tôi được như thế này", và ơn Chúa đã không trở nên vô
ích đối với tôi.
Lạy
Chúa, xin Chúa ban cho chúng con biết quí trọng ơn Chúa ban cho chúng con. Xin
Chúa ban ơn giúp sức để chúng con kiên trì chu toàn trách nhiệm của mình, bằng
cách can đảm, quảng đại, kiên trì sống với những gì mà chúng con đã cam kết, đã
lãnh nhận từ trong bàn tay yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con biết trung
thành làm tôi Chúa và phụng sự Ngài cách trọn vẹn vĩnh viễn. Amen.
09/03/12
THỨ SÁU TUẦN 2 MC
Th. Phanxica Rôma, nữ tu
Th. Phanxica Rôma, nữ tu
Mt
21,33-43.45-46
THIÊN
CHÚA VÀ NƯỚC CỦA NGÀI
“Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” (Mt 21,38)
Suy niệm: Bọn tá điền này thật quá quắt đến độ được ông chủ giao cho việc coi sóc vườn nho, nhưng lại muốn đoạt vườn nho bằng cách giết hại những người chủ sai đến, thậm chí giết luôn đứa con thừa tự của ông. Sự hung ác của bọn tá điền thật quá đáng đến độ tưởng như không có trong thực tế, thế nhưng đó lại là điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến các thượng tế và Pharisêu – mà họ cũng hiểu như thế. Và vì hiểu như thế nên họ đã rắp tâm giết hại luôn “đứa con thừa tự” là chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa bởi vì họ quá biết rằng “ông chủ vườn nho” sẽ kíp loại trừ họ mà trao vườn nho cho người khác.
Mời Bạn: Vườn nho đó chính là hình ảnh của Nước Thiên Chúa, nơi qui tụ mọi người tin vào Đức Giêsu Kitô để được cứu độ nhờ Danh Ngài. Nước Chúa đã khởi đầu và sẽ hoàn tất trong ngày cánh chung mà Giáo Hội trên trần gian chính là dấu chỉ hữu hình của Nước đó. Mỗi kitô hữu vừa là thành phần trong“vườn nho của Chúa” vừa được đặt làm người chăm sóc vườn nho đó. Hẳn là sai lầm khi chúng ta nói mình đang phục vụ Nước Thiên Chúa mà lại hành động như “những tá điền chiếm đoạt vườn nho” và “giết hại” những sứ giả Chúa sai đến. Đúng hơn, Chúa mời gọi chúng ta làm việc trong vườn nho của Chúa không phải như người làm thuê mà là như người con thảo đi làm vườn nho cho cha mình.
Sống Lời Chúa: Cầu nguyện đặc biệt cho những vị chủ chăn của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức sứ mạng của mình trong Giáo Hội để chúng con tham gia xây dựng Giáo Hội Chúa với tinh thần trách nhiệm và trong tình hiệp nhất yêu thương.
Thứ Sáu 9-3
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Phanxica Rôma, nữ tu; St 37, 3-4.12-13.17b-28; Tin Mừng Mt
21, 33-43.45-46.
LỜI SUY NIỆM: Sau cùng, ông sai chính
con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: “Chúng sẽ nể con ta”. Nhưng bọn tá
điền vừa thấy người con, thì bảo nhau “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách
nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn
nho và giết đi. (Mt 21,37-39).
Khi đọc dụ ngôn này mọi người đều hiểu, cũng như
các thượng tế và người Pharisêu hiểu Chúa Giêsu đang nói đến họ là những tá điền
sát nhân, và Ngài cũng nói cho biết, trong số những người được Thiên Chúa Sai đến,
dù là cao trọng thể nào, thì cũng chỉ là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn chính Ngài
là Con Độc Nhất của Thiên Chúa. Đây cũng là một sự tuyên xưng rõ ràng địa vị của
Ngài. Đồng thời Ngài cũng cho biết, Ngài không nghi ngờ những gì đang chờ đợi
Ngài và Ngài tiến bước đến cùng, để tận hiến chính mình, để làm giá cứu chuộc
cho nhân loại. Đối với chúng ta biết bao ân huệ Thiên Chúa đã sắm sẵn, và Ngài
ban phát cho chúng ta. Mỗi người trong chúng ta sẽ dùng tự do của mình để đón
nhận với sự trung tín, hay phản bội Ngài?
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 09-03:
Thánh PHANCICA RÔMANA
Nữ
tu (1384 - 1440)
Phanxica thuộc vào một gia đình quí tộc ở Bussi
de Leoni. Nhưng Ngài đã sinh ra và sống ở Roma. Từ lúc 6 tuổi Ngài đã thực hành
sám hối, muốn vào tu lúc 11 tuổi. Cha Ngài thấy đây chỉ là tưởng tượng của con
nít và năm sau đã gả Ngài cho lãnh Chúa trẻ trung Lorenzo di Ponziani. Người vợ
trẻ sẽ dẫn đắt chồng mình theo đường trọn lành.
Phanxica một thiếu nữ tươi đẹp. Sống giữa xã hội
hào nhoáng Ngài tỏ ra rất hòa nhã dịu dàng. Ngài giữ kín những khổ hạnh của
mình. Có ai biết rằng: áo nhặm dưới y phục lộng lẫy của Ngài đã làm Ngài mang
thương tích đâu. Ngài dậy sớm để giờ cầu nguyện khỏi bị ngăn trở, Varozza, người
em dâu, cùng chia sẻ lý tưởng bác ái với Ngài. Hai người cùng hồi tâm trong một
cái hang ở cuối vườn. Họ phục vụ các bệnh nhân tại nhà thương và giúp đỡ những
người cùng khốn. Bà mẹ chồng nặng tinh thần thế tục thấy thế nên giận dữ.
Nhưng con bà, người chồng trẻ đã trả lời: - Sao
lại trách họ vì những thói quen đạo đức ấy ? Vả lại thói quen ấy có ngăn trở gì
tới việc bổn phận của họ đâu ?
Thực vậy, Phanxica luôn sẵn sàng bỏ mọi sự để
các bổn phận của một quản gia khỏi bị suy suyển gì. Một mẫu chuyện cho thấy
Thiên Chúa chúc lành cho Ngài như thế nào. Phanxica đang cầu nguyện. Người ta tới
kêu. Ngài mau mắn bỏ sách đó và trở lại sau khi phục vụ xong. Lần thứ nhất, lần
thứ hai... bốn lần liên tiếp như vậy, Ngài đều bình thản bỏ dở việc cầu nguyện.
Lần thứ năm Ngài trở lại và thấy sách kinh có dòng chữ vàng. Người ta không hề
giã từ Chúa khi phục vụ tha nhân và hiến mình phục vụ cũng là cầu nguyện.
Cha giải tội và nhà chép sử thánh Phanxica cho biết tình trạng được ơn thần bí của thánh nữ. Thiên thần của Ngài chiếu tỏa một ánh sáng để chỉ cho Ngài biết Thiên Chúa thỏa lòng đối với Ngài. Cũng thế, dù khi lỗi nhẹ, thiên thần liền đánh vào Ngài và thánh nữ tạ ơn Thiên Chúa đã giữ cho mình khỏi rơi vào mưu chước quỉ ma. Với thiên thần, Ngài nên mạnh mẽ. Một lần có sức mạnh quỉ ma đẩy Ngài xuống sông Tibre, thiên thần cứu Ngài lên bờ.
Cha giải tội và nhà chép sử thánh Phanxica cho biết tình trạng được ơn thần bí của thánh nữ. Thiên thần của Ngài chiếu tỏa một ánh sáng để chỉ cho Ngài biết Thiên Chúa thỏa lòng đối với Ngài. Cũng thế, dù khi lỗi nhẹ, thiên thần liền đánh vào Ngài và thánh nữ tạ ơn Thiên Chúa đã giữ cho mình khỏi rơi vào mưu chước quỉ ma. Với thiên thần, Ngài nên mạnh mẽ. Một lần có sức mạnh quỉ ma đẩy Ngài xuống sông Tibre, thiên thần cứu Ngài lên bờ.
Sau khi mẹ chồng qua đời, người thiếu phụ nắm
quyền quản trị nhà họ Ponziani. Ngài coi gia nhân như anh chị em được gọi để
chia sẻ nước Thiên Chúa với Ngài, nếu họ ngã bệnh Ngài tận tâm săn sóc họ. Vào
thời đói kém, khi đã cho hết những gì thuộc quyền mình, Ngài ăn xin để giúp đỡ
người thiếu thốn, ngày kia, Ngài gọi Varozza lên kho lẫm thu lúa mì còn sót lại
trong rơm. Lorenzo theo họ lên coi, đã thấy đống lúa vàng thay vì rơm rạ, một
phép lạ xảy ra tương tự tại một thùng rượu không. Đầy thán phục, Lorenzo đã để
cho người vợ thánh thiện được tự do xếp đặt cuộc sống mình. Thế là Phanxica bán
mọi thứ sang trọng, và chỉ mặc y phục khiêm tốn, lại còn hãm mình nghiêm ngặt
hơn.
Khi chiến đấu cho đức Thánh Cha Lorenzo bị trọng
thương và được mang về nhà khi đang hấp hối. Thánh nữ đã thành công trong việc
làm cho ông sống lại. Faluzzô, em Ngài, bị bắt tù, người ta cho Ngài biết phải
nộp con trưởng Gioan tẩy giả của Ngài làm con tin, nếu không Paluzzô sẽ bị giết
chết. Phanxica hoảng hốt đem con đi giấu. Nhưng Don Antoniô là cha giải tội chặn
đường lại nói:- Con làm gì thế ? Hãy đưa đứa con cho người đòi nó.
Phanxica vâng lời để cứu em chồng, rồi vào nhà
thờ quì khóc trước tượng Đức Trinh nữ. Còn đang cầu nguyện thì viên sĩ quan địch
mang đứa bé trả lại, vì ngựa ông không chịu đi.
Tiếp đến là những biến cố thảm lhốc. Roma bị xâm
chiếm và bị cướp phá. Lorenzzô phải trốn đi để lại trách nhiệm cho vợ mình,
Phanxica ở lại, với hai con Evangêlista và Anê. Cơn dịch xẩy ra, Evangêlista
ngã bệnh, lúc chết cậu nói với mẹ : - Mẹ đừng khóc, con sẽ được hạnh phúc vì
này thiên thần đến tìm con.
Một đêm kia Ngài cầu nguyện và thấy người con hiện
ra báo tin mình đang ở giữa các thiên thần và cho biết mình sẽ đến tìm đứa em
gái, cho nó chia sẻ hạnh phúc. Một niềm vui siêu nhiên hòa lẫn với các đớn đau
loài người. Ngài ngã bệnh và các thị kíến về hỏa ngục làm Ngài thêm khổ cực. An
bình trở lại Roma. Lorenzô trở về chứng kiến những tang tóc và cướp phá.
Phanxica đau đớn trong lòng, nhưng vẫn tìm lời trấn an đầy tha thứ. Ngài hòa giải
thù địch với người chồng chỉ còn biết sống để chia sẻ bước tiến thiêng liêng của
vợ mình.
Phanxica cũng lôi kéo các phụ nữ Rôma vào việc
giúp đỡ cho những tình cảnh khốn khổ do chiến tranh để lại. Ngài tụ họp vào một
nhà những bà cùng một lý tưởng bác ái và khổ hạnh. Đây là thời đầu của dòng những
người tận hiến cho Đức Maria. Gọi như thế vì khi tự hiến họ dùng từ ngữ:
"Con hiến mình" thay vì tuyên đọc lời khấn. Trong số những cuộc trở lại
Phanxica tạo được, có cuộc trở lại của vợ của Gioan tẩy giả, con Ngài.
Sau bốn năm hoà hiệp, Phanxica mất chồng. Ngài tới
quì trước cửa tu viện mình đã thiết lập. Đi chân không. đeo giây vào cổ, Ngài
xin nhập dòng.
Gioan tẩy giả ngã bệnh, Phanxica bỏ dòng về
thăm, Ngài đã bị lên cơn sốt và đã qua đời chính tại nhà mình. Các nữ tu vây
quanh Ngài để nghe những lời khuyên cao cả: - Hãy trung tín đến chết, Satan sẽ
tấn công các chị như đã tấn công tôi. Nhưng không thử thách nào quá độc dữ nếu
các chị trung thành với Chúa Giêsu.
Nói lời cuối cùng xong, cửa trời mở ra, thiên thần
của Ngài ra dấu kêu gọi Ngài theo. Thánh Phanxica được chọn làm thánh bảo trợ của
các phụ nữ đã lập gia đình và trở nên góa bụa.
(Daminhvn.net)
+++++++++++++++++
09 Tháng Ba
"Hãy Làm Một Cái Gì Ðẹp Cho Chúa"
Mẹ Têrêxa Calcutta thường
hay nói: "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Chúa". Sau tên cực trọng của
Chúa Giêsu, hai chữ thường nằm trên đầu môi chót lưỡi của Mẹ là "tốt đẹp
và kỳ diệu". Hai tiếng ấy là một tóm gọn của bài ca ngợi khen của Ðức
Maria mà Mẹ Têrêxa đã lấy làm tâm tình của mình. Tốt đẹp và kỳ diệu thay Tình
Yêu Quan Phòng của Chúa được thể hiện qua những hy sinh và phục vụ của Mẹ dành
cho những người cùng khổ ở Ấn Dộ và trên khắp thế giới...
Cách đây hơn 15 năm,
Malcolm Muggerridge, một ký giả và bình luận gia nổi tiếng của đài BBC, đã cùng
với một nhóm chuyên viên của đài đến Ấn Ðộ để làm một cuộc phỏng vấn về Mẹ
Têrêxa, về các hoạt động của Mẹ. Sau năm ngày làm việc, đến lúc cắt xén và tháo
ráp để dựng thành cuốn phim, Mẹ Têrêxa đã thốt lên: "Hãy làm một cái gì tốt
đẹp cho Chúa". Câu nói của Mẹ đã được ký giả Muggerridge lấy làm tựa đề của
cuốn phim thời sự về Mẹ và các nữ tu của Mẹ. Cuốn sách ghi lại cuộc phỏng vấn
cũng mang cùng một tựa đề. Sau khi cuốc phim được trình chiếu trên đài BBC, thế
giới bỗng chú ý đến người nữ tu đã từ mấy chục năm qua âm thầm chăm sóc những
người cùng khổ nhất trong các khu ổ chuột ở Calcutta . Tốt đẹp và kỳ diệu thay! Khuôn mặt
đau khổ của nhân loại được phơi bày, nhưng Tình Yêu của Thiên Chúa cũng được thể
hiện qua những âm thầm hy sinh phục vụ của Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ.
Ngày nay, khi đi qua một
số thành phố lớn trên thế giới, thỉnh thoảng người ta đọc được bảng hiệu:
"Hãy gìn giữ cho thành phố được sạch" hoặc "Hãy làm đẹp thành phố".
Những khẩu hiệu ấy nhắc nhở cho kiều dân và khách qua đường về nghĩa vụ tôn trọng
trật tự, cũng như giữ cho thành phố được sạch sẽ và đẹp đẽ.
Mỗi người Kitô cũng là một
thành phố của Thiên Chúa. Họ luôn được mời gọi để giữ thơm và làm sạch cho
thành phố ấy. Thay vì vứt bừa bãi ra bên ngoài những rác rưởi của những hành vi
bất chánh, họ luôn được mời gọi để bày tỏ một bộ mặt tốt đẹp và kỳ diệu để qua
đó thiên hạ sẽ nhìn vào mà ngợi khen Cha trên trời...
"Hãy làm một cái gì
tốt đẹp cho Thiên Chúa": đó phải là câu tâm niệm mà người Kitô thốt lên
khi vừa thức giấc đón chào một ngày mới.
"Hãy làm một cái gì
tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng cách dâng lên Ngài hy sinh trong những công
việc nhỏ bé hằng ngày.
"Hãy làm một cái gì
tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng những cử chỉ quảng đại, hy sinh phục vụ đối với
những người cùng khổ nhất trong xã hội.
"Hãy làm một cái gì
tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng cách sống tử tế và không ngừng tha thứ cho những
người xúc phạm đến mình.
"Hãy làm một cái gì
tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng chứng tích của một cuộc sống đầy lạc quan và
vui tươi ngay cả khi chỉ gặp toàn đau khổ, thử thách...
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần II MC
Bài đọc: Gen 37:3-4, 12-13ª,
17b-28; Mt 21:33-43, 45-46.
1/ Bài đọc I:
3 Ông Ít-ra-en yêu Giu-se
hơn tất cả các con, vì ông đã già mới sinh được cậu, và ông may cho cậu một áo
chùng dài tay.4 Các
anh cậu thấy cha yêu cậu hơn tất cả các anh, thì sinh lòng ghét cậu và không thể
nói năng tử tế với cậu.
12 Các anh cậu đã đi chăn chiên dê của cha họ ở Si-khem.
13 Ông Ít-ra-en bảo Giu-se: "Các anh con đang chăn chiên
dê ở Si-khem phải không? Lại đây, cha sai con đến với các anh." Giu-se
theo các anh và tìm thấy họ ở Đô-than.
18 Họ thấy cậu từ xa, và trước khi cậu tới gần họ thì họ lập
mưu giết chết cậu.
19 Họ bảo nhau: "Thằng tướng chiêm bao đang đến kia!
20 Bây giờ, nào ta giết và ném nó xuống một cái giếng. Ta sẽ
nói là một thú dữ đã ăn thịt nó. Rồi ta sẽ thấy các chiêm bao của nó đi tới
đâu! "
21 Nghe thấy thế, Rưu-vên tìm cách cứu em khỏi tay họ; cậu nói:
"Ta đừng đụng tới mạng sống nó." 22 Rưu-vên bảo họ: "Đừng đổ máu! Cứ
ném nó xuống cái giếng kia trong sa mạc, nhưng đừng giơ tay hại nó." Cậu
có ý cứu em khỏi tay họ và đưa về cho cha.
23 Vậy khi Giu-se đến chỗ các anh, thì họ lột áo chùng của cậu,
chiếc áo chùng dài tay cậu đang mặc. 24 Họ túm lấy cậu và ném xuống cái giếng;
giếng đó cạn, không có nước. 25 Rồi họ ngồi xuống dùng bữa. 26 Giu-đa nói với các anh em: "Ta giết
em và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi gì?
27 Thôi, ta hãy bán nó cho người Ít-ma-ên, nhưng đừng động tay
tới nó, vì nó là em ta, là ruột thịt của ta." Các anh em nghe cậu.
28 Những lái buôn người Ma-đi-an đi qua đó kéo Giu-se lên khỏi
giếng, rồi bán cậu cho người Ít-ma-ên hai mươi đồng bạc. Những người này đưa
Giu-se sang Ai-cập.
2/ Phúc Âm:
33 Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác: "Có gia chủ kia trồng
được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp
nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. 34 Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến
gặp các tá điền để thu hoa lợi.
35 Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết
người kia, ném đá người nọ.
36 Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá
điền cũng xử với họ y như vậy.
37 Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ
rằng: "Chúng sẽ nể con ta."
38 Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: "Đứa
thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!" 39 Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên
ngoài vườn nho, và giết đi.
40 Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá
điền kia? "
41 Họ đáp: "Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và
cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho
ông." 42 Đức Giê-su bảo họ: "Các ông chưa
bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở
nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước
mắt chúng ta.
43 Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa
sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh
hoa lợi.
45 Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người
Pha-ri-sêu hiểu là Người nói về họ.
46 Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng
cho Người là một ngôn sứ.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa
Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 tại Việt-nam được
nhiều người gọi là Ngày Quốc Hận; nhưng cũng là cơ may cho biết bao gia đình Việt-nam
gởi các “Giuse” ra các nước ngòai. Các Giuse này sau một thời gian lập nghiệp
nơi xứ người, đã đưa cả gia đình còn kẹt ở Việt-nam sang đòan tụ; hay ít nhất,
cũng gởi bao nhiêu của cải về Việt-nam để cứu cả nước khỏi đói khát. Nhìn lại
biến cố 30 tháng 4, nhiều người Việt-nam nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa.
Ngài thực hiện nhiều điều tốt lành từ biến cố tang thương này.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhìn thấy sự
quan phòng của Thiên Chúa: nhiều sự tốt lành được thực hiện ngay cả từ những
ghen tương, giận ghét của con người. Trong Bài Đọc I, ông Giuse đầu tiên bị các
anh bán sang Ai-cập với giá 20 đồng bạc, vì ghen tị em mình được cha thương hơn
tất cả mọi anh em. Nhưng trong sự quan phòng của Thiên Chúa, ông đã trở thành Tể-tướng
của Ai-cập để chuẩn bị cứu đói và đưa cả gia đình: cha và các anh em qua đòan tụ.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra câu truyện vườn nho của Thiên Chúa để ám chỉ sự
bạc bẽo của dân và cái chết tương lai của Ngài. Nhưng trong sự quan phòng của
Thiên Chúa, “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó
chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” Ngài
chính là Tảng Đá đem lại Ơn Cứu Độ, không những cho dân tộc Do-thái, mà còn cho
tất cả các dân tộc.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông
Giuse bị các anh bán sang Ai-cập.
1.1/ Sự ghen tị và ác độc của các anh: Ông
Israel có lý do để yêu Giuse hơn tất cả các con, vì ông đã già mới sinh được cậu;
nhưng khi các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn tất cả các anh, thì sinh lòng ghét cậu
và không thể nói năng tử tế với cậu. Cơ hội báo thù đến khi cha gởi cậu mang
cơm nước cho các anh đang chăn chiên ngòai đồng, và cậu gặp các anh ở Dothan . Họ thấy cậu từ
xa, và trước khi cậu tới gần họ thì họ lập mưu giết chết cậu. Họ bảo nhau:
"Thằng tướng chiêm bao đang đến kia! Bây giờ, nào ta giết và ném nó xuống
một cái giếng. Ta sẽ nói là một thú dữ đã ăn thịt nó. Rồi ta sẽ thấy các chiêm
bao của nó đi tới đâu!"
Giuse có biệt tài về việc giải thích các điềm
chiêm bao. Cậu đã từng chiêm bao và giải thích nó cho cha và các anh, vì cậu
nói cha và các anh đều quỳ xuống lạy cậu. Chính điều này làm cho các anh càng
ghét và gọi cậu là “Thằng tướng chiêm bao.” Khi qua Ai-cập, nhờ giải thích các
điềm chiêm bao cho hai ông quan mà cậu được ra khỏi tù; và cho Vua Pharao mà cậu
được thăng chức Tể-tướng. Trong Cựu-ước, chiêm bao là cách con người hiểu biết
các kế họach kỳ diệu, nhưng ẩn giấu mà Thiên Chúa sắp làm trên con người. Qua
những điềm chiêm bao này, Giuse thấu hiểu tình yêu và sự quan phòng của Thiên
Chúa đã hướng dẫn ông, gia đình, và nhân lọai.
1.2/ Kế họach của con người và sự quan phòng của
Thiên Chúa: Các anh muốn giết cậu để thủ tiêu ngay từ đầu, nhưng một người anh
là Reuben tìm cách cứu em khỏi tay họ, bằng cách đề nghị ném cậu xuống giếng; và
họ đã ném cậu xuống một cái giếng cạn không có nước. Sau đó, khi họ đang ngồi
ăn, một người anh khác là Judah
đề nghị với các anh em: "Ta giết em và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi gì?
Thôi, ta hãy bán nó cho người Ismael, nhưng đừng động tay tới nó, vì nó là em
ta, là ruột thịt của ta." Các anh em nghe cậu. Khi thấy những lái buôn người
Madian đi qua đó, họ kéo Giuse lên khỏi giếng, rồi bán cậu cho người Ismael hai
mươi đồng bạc. Những người này đưa Giuse sang Ai-cập. Anh Judah này là hình ảnh của Tông-đồ Judah
sẽ bán Chúa Giêsu 30 đồng bạc. Qua biến cố này, chúng ta nhận ra Thiên Chúa
dùng cả tình thương của anh Reuven và lòng tham tiền của anh Judah để cứu
Giuse khỏi chết.
2/ Phúc Âm: Tảng
đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường.
2.1/ Câu truyện Vườn Nho của Tân-ước: Sở dĩ
chúng ta gọi như vậy là để phân biệt với câu truyện Vườn Nho của Cựu-ước mà
Tiên-tri Isaiah tường thuật (Isa 5:1-7). Chúa Giêsu dùng thể văn lọai suy mà
người nghe hiểu ngay Ngài đang muốn ám chỉ ai và về điều gì:
Vườn nho là nhà Israel và gia chủ là chính Thiên
Chúa. Các tá điền là những người lãnh đạo trong Israel : tư tế, kinh sư, và biệt
phái. Đầy tớ của chủ là các tiên tri qua các thời đại. Điểm khác biệt giữa hai
câu truyện Vườn Nho là sự sai đi của Người Con. Nhưng bọn tá điền vừa thấy người
con, thì bảo nhau: "Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt
lấy gia tài nó!" Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và
giết đi. Chúa Giêsu muốn đối thọai với khán giả để chính họ ra bản án cho các
tá điền:
- “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn
tá điền kia?"
- Họ đáp: "Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn
chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi
cho ông."
2.2/ Sự quan phòng của Thiên Chúa: Đức Giêsu bảo
họ: "Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ
xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa,
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước
Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết
làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.” Câu Kinh Thánh Chúa Giêsu trích dẫn ở đây là
Thánh Vịnh 118:22-23. Chúa Giêsu muốn cắt nghĩa cho họ biết Kế Họach Cứu Độ của
Thiên Chúa đang được thực hiện ngay trong sự ghen ghét và ác độc của các tá điền.
Ngài chính là Tảng Đá mà các nhà lãnh đạo Do-Thái sắp giết chết; nhưng chính
cái chết của Ngài sẽ đem lại lợi ích cho mọi người: Do-thái cũng như Dân-ngọai.
Từ nay, Nước Thiên Chúa không chỉ giới hạn trong dân tộc Do-thái nữa; mà sẽ mở
rộng đến mọi dân tộc. Sẽ có những dân tộc biết sinh hoa lợi cho Thiên Chúa nhiều
hơn dân tộc Do-thái.
Các Thượng-tế và Biệt-phái hiểu ngay là Người
đang nói về họ qua dụ ngôn Người kể. Như là một sự sắp đặt, “Họ tìm cách bắt
Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ.” Họ chưa
thi hành kế họach được, vì giờ của Ngài chưa đến. Khi giờ đến, họ sẽ làm theo Kế
Họach Cứu Độ của Thiên Chúa đã vạch sẵn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đang điều khiển và quan phòng mọi sự
xảy ra trong thế giới này. Con người có thể nghĩ họ là người điều khiển, nhưng
thực ra họ đang làm những gì đã được xếp đặt trong sự quan phòng của Ngài.
- Dĩ nhiên con người vẫn có tự do để cộng tác
hay làm nghịch lại ý của Thiên Chúa; nhưng họ không thể làm cho những gì Thiên
Chúa họach định đừng xảy ra. Ngài có thể dùng tất cả những cái tốt cũng như cái
xấu của con người để đạt những gì Ngài họach định.
- Sự quan phòng của Thiên Chúa nhiều khi không dễ
hiểu; nhưng chúng ta phải tin, vì nếu chúng ta hiểu được mọi sự quan phòng của
Thiên Chúa, chúng ta không còn là người nữa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Suy niệm:
Trong Mùa Chay, Giáo Hội cho chúng ta nghe dụ ngôn những tá điền.
Những tá điền này được chủ nhà cho canh tác vườn nho của mình,
để đến mùa hái nho họ giao lại cho ông hoa lợi.
Đây là một vườn nho được ông chủ quan tâm săn sóc.
Ông đã trồng, đã rào giậu, khoét bồn đạp nho và xây tháp canh.
Tiếc thay, khi ông chủ sai các đầy tớ đến để thu hoa lợi
các tá điền chẳng những không nộp, mà còn hành hạ họ và giết đi (c. 35).
Nhóm đầy tớ thứ hai cũng chịu chung số phận (c. 36).
Nhưng ông chủ vẫn không thất vọng trước sự độc ác của các tá điền.
Sau cùng, ông đã sai chính con trai mình đến với họ.
Đứa con thừa tự cũng chẳng được nể vì, bị lôi ra khỏi vườn nho và giết đi.
Những tá điền này được chủ nhà cho canh tác vườn nho của mình,
để đến mùa hái nho họ giao lại cho ông hoa lợi.
Đây là một vườn nho được ông chủ quan tâm săn sóc.
Ông đã trồng, đã rào giậu, khoét bồn đạp nho và xây tháp canh.
Tiếc thay, khi ông chủ sai các đầy tớ đến để thu hoa lợi
các tá điền chẳng những không nộp, mà còn hành hạ họ và giết đi (c. 35).
Nhóm đầy tớ thứ hai cũng chịu chung số phận (c. 36).
Nhưng ông chủ vẫn không thất vọng trước sự độc ác của các tá điền.
Sau cùng, ông đã sai chính con trai mình đến với họ.
Đứa con thừa tự cũng chẳng được nể vì, bị lôi ra khỏi vườn nho và giết đi.
Khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu muốn nói mình chính là người con ấy,
người Con của ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.
Ngài tiên báo về cái chết sắp đến của mình
bởi tay những tá điền sát nhân là các nhà lãnh đạo Do thái giáo đương thời.
Cái chết của Đức Giêsu nằm trong chuỗi những cái chết của các ngôn sứ
là các đầy tớ đã được Thiên Chúa sai đến với dân Ítraen trong dòng lịch sử.
Tuy nhiên, cái chết ấy đặc biệt cao quý vì là cái chết của chính Người Con.
Hơn thế nữa, cái chết ấy không phải là một dấu chấm hết.
Nó là cánh cửa mở ra một trang mới của lịch sử,
không phải chỉ là lịch sử của dân tộc Ítraen, mà còn của cả nhân loại.
“Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc.
Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (c. 42).
Giáo Hội sơ khai thích dùng trích dẫn trên đây của thánh vịnh 118, 22
để nói về việc Đức Giêsu bị loại trừ và được tôn vinh (x. Cv 4,11; 1Pr 2,7).
Bị loại bỏ là việc độc ác của con người,
còn trở nên viên đá góc là việc làm kỳ diệu của Thiên Chúa.
người Con của ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.
Ngài tiên báo về cái chết sắp đến của mình
bởi tay những tá điền sát nhân là các nhà lãnh đạo Do thái giáo đương thời.
Cái chết của Đức Giêsu nằm trong chuỗi những cái chết của các ngôn sứ
là các đầy tớ đã được Thiên Chúa sai đến với dân Ítraen trong dòng lịch sử.
Tuy nhiên, cái chết ấy đặc biệt cao quý vì là cái chết của chính Người Con.
Hơn thế nữa, cái chết ấy không phải là một dấu chấm hết.
Nó là cánh cửa mở ra một trang mới của lịch sử,
không phải chỉ là lịch sử của dân tộc Ítraen, mà còn của cả nhân loại.
“Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc.
Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (c. 42).
Giáo Hội sơ khai thích dùng trích dẫn trên đây của thánh vịnh 118, 22
để nói về việc Đức Giêsu bị loại trừ và được tôn vinh (x. Cv 4,11; 1Pr 2,7).
Bị loại bỏ là việc độc ác của con người,
còn trở nên viên đá góc là việc làm kỳ diệu của Thiên Chúa.
“Thu hoa lợi”, “nộp hoa lợi”, “sinh hoa lợi” (cc. 34, 41, 43).
Hoa lợi là điều mà ông chủ nhắm tới khi ông đầu tư cho vườn nho.
Ông đã không thu được hoa lợi gì từ những tá điền độc ác,
bởi đó ông đã lấy vườn nho lại, cho người khác làm để lấy hoa lợi.
Vườn nho bây giờ được hiểu là Nước Thiên Chúa.
Nước này không còn nằm trong tay giới lãnh đạo dân Do thái nữa,
nhưng được trao cho một dân biết sinh hoa lợi (c. 43).
Dân mới ấy chính là Giáo Hội phổ quát,
trong đó gồm cả dân ngoại và những người Do thái tin Đức Giêsu.
Hoa lợi là điều mà ông chủ nhắm tới khi ông đầu tư cho vườn nho.
Ông đã không thu được hoa lợi gì từ những tá điền độc ác,
bởi đó ông đã lấy vườn nho lại, cho người khác làm để lấy hoa lợi.
Vườn nho bây giờ được hiểu là Nước Thiên Chúa.
Nước này không còn nằm trong tay giới lãnh đạo dân Do thái nữa,
nhưng được trao cho một dân biết sinh hoa lợi (c. 43).
Dân mới ấy chính là Giáo Hội phổ quát,
trong đó gồm cả dân ngoại và những người Do thái tin Đức Giêsu.
Chúng ta thuộc về Giáo Hội, thuộc về đoàn dân mới.
Chúng ta hãnh diện vì được trao phó vườn nho là Nước Thiên Chúa,
và lo lắng trước trách nhiệm phải sinh hoa lợi cho xứng ở đời này.
Làm thế nào để Giáo Hội nộp hoa lợi đúng mùa cho Chủ?
Làm thế nào để chúng ta không rơi vào tội của các tá điền đi trước?
Chúng ta hãnh diện vì được trao phó vườn nho là Nước Thiên Chúa,
và lo lắng trước trách nhiệm phải sinh hoa lợi cho xứng ở đời này.
Làm thế nào để Giáo Hội nộp hoa lợi đúng mùa cho Chủ?
Làm thế nào để chúng ta không rơi vào tội của các tá điền đi trước?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con thường thấy mình không có thì giờ,
nhưng đồng thời cũng thấy mình
lãng phí bao thời gian quý báu.
Nhiều khi con tự hỏi
mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.
con thường thấy mình không có thì giờ,
nhưng đồng thời cũng thấy mình
lãng phí bao thời gian quý báu.
Nhiều khi con tự hỏi
mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.
Xin cho con biết quý trọng từng giây phút
đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.
Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian,
để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.
Xin cho con luôn làm việc như Chúa :
hăng say, tận tụy và vui tươi,
vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.
đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.
Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian,
để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.
Xin cho con luôn làm việc như Chúa :
hăng say, tận tụy và vui tươi,
vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.
Vì quá khứ thì đã qua,
và tương lai thì chưa đến,
nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.
và tương lai thì chưa đến,
nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.
Xin cho con thấy Chúa
lúc này đang ở đây bên con,
và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài
bằng những hành động cụ thể.
lúc này đang ở đây bên con,
và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài
bằng những hành động cụ thể.
Con xin hiến dâng Chúa giây phút này
như một hy lễ,
với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.
như một hy lễ,
với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.
Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại
để hiện tại đưa con vào vĩnh cửu của Chúa. Amen.
để hiện tại đưa con vào vĩnh cửu của Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Nqày 09
Thánh nữ Phanxica Roma, nữ tu
Van xin tha thứ là lời đầu tiên của Đức Giêsu nói trên thập giá.
Tính ưu tiên này có một ý nghĩa: sự tha thứ đáp lại sự xúc phạm.
Không một giây phút nào Đức Giêsu có ước muôn trả thù. Đôi khi,
những kẻ hành hạ bị thương tích trong tâm hổn và một lúc nào đó họ có một khao
khát được tha thứ. Đức Kitô tha thứ tức khắc. Không một chút giận hờn ảnh hưởng
trên Người.
Từ chối trả thù thật trọn vẹn. Trong Cựu
Ước, còn tồn tại một khả thể trả thù Những
người bị đối xử tàn tệ thường kêu gọi lên Thiên Chúa xin đổ hình phạt xuống những
người đã hành hạ họ. Nhưng ước muốn trả thù hoàn toàn không có mặt nơi tâm hổn
Đấng bị Đóng Đinh. Không những Người tha thứ, nhưng còn kêu gọi Cha tha thứ và
cho thấy tình yêu đích thực của Người. Làm thế nào Cha lại từ chối một lời khẩn
thiết của Người Con ngay lúc Người dâng hiến cuộc sống cho nhân loại đang đau
khổ? Chúa Cha chỉ có thể mở rộng lòng mình và ban ơn tha thứ.
P. Jean Galot, s.j.
Thánh Frances ở Rôma
(1384 - 1440)
Đời sống Thánh Frances bao gồm các khía cạnh của đời
thường và đời tu trì. Là một người nội trợ tận tụy và duyên dáng, ngài ước ao một
đời sống cầu nguyện và phục vụ, do đó ngài tổ chức một nhóm phụ nữ để chăm sóc
người nghèo ở Rôma.
Sinh trong một gia đình giàu có, ngay từ thời niên thiếu Frances đã cảm
thấy mình yêu mến đời sống tu trì. Nhưng cha mẹ ngài chống đối và một thanh
niên quý tộc đã được chọn để làm vị hôn phu.
Khi bắt đầu quen biết với họ hàng nhà chồng, Frances khám phá
rằng cô em dâu của mình cũng ước ao một đời sống phục vụ và cầu nguyện. Do đó,
cả hai người, Frances và Vannozza, với sự ưng thuận của các ông chồng, họ bắt đầu
luyện tập đời sống tâm linh bằng cách siêng năng tham dự Thánh Lễ, thăm viếng kẻ
tù đầy, phục vụ trong các bệnh viện, giúp đỡ người nghèo và thành lập một nhà
nguyện bí mật trong ngôi tháp bỏ hoang để cùng nhau cầu nguyện.
Nhiều năm trôi qua, bà Frances sinh hạ hai trai và một
gái. Với trách nhiệm của một đời sống gia đình, bà đã dành nhiều thời giờ để lo
cho chồng con. Gia đình bà trở nên phát đạt dưới sự quán xuyến của bà, nhưng chỉ
được vài năm, trận dịch hạch đã càn quét cả nước Ý và cướp đi đứa con trai thứ
hai của bà. Ðể giúp vơi bớt đau khổ của các nạn nhân trận dịch, bà dùng tiền của
và tài sản để cung ứng cho các nhu cầu của bệnh nhân. Khi mọi nguồn tài chánh đều
cạn kiệt, bà Frances
và Vannozza đã đi xin từng nhà. Về sau, khi cô con gái qua đời, bà Frances đã biến
một phần căn nhà thành bệnh viện.
Càng ngày bà Frances
càng tin tưởng rằng một đời sống cho tha nhân thì cần thiết cho thế gian. Với sự
hậu thuẫn của đức lang quân, bà Frances
bắt đầu thành lập một tổ chức xã hội dành cho các phụ nữ, được gọi là Hiến Sĩ của
Ðức Maria (không có lời khấn). Họ chỉ dâng mình cho Chúa và cho sự phục vụ người
nghèo.
Khi tổ chức đã được thành lập, bà Frances không sống trong cơ sở của
cộng đoàn mà sống ở nhà với chồng trong bảy năm. Cho đến khi người chồng từ trần,
bà sống quãng đời còn lại với cộng đoàn để phục vụ những người bần cùng trong
xã hội.
Lời Bàn
Nhìn vào đời sống gương mẫu -- trung tín với Thiên Chúa và tận
tụy với tha nhân -- của Thánh Frances
nhắc chúng ta nhớ đến Mẹ Têrêsa Calcutta. Ngài nhìn thấy Ðức Giêsu Kitô trong lời
cầu nguyện cũng như trong người nghèo. Cuộc đời của Thánh Frances mời gọi
chúng ta đừng chỉ tìm kiếm Thiên Chúa trong lời cầu nguyện, mà hãy tận tụy với
Ðức Kitô đang sống động trong sự đau khổ của thế giới. Thánh Frances cho
chúng ta thấy, một cuộc đời vì tha nhân không nhất thiết chỉ gò bó trong những
giới hạn của lời khấn.
Lời Trích
Mẹ Têrêsa có lần nói về người nữ tu trong cộng đoàn của
ngài: "Hãy để Ðức Kitô toả sáng và sống động trong và qua người nữ tu khi
họ đến các khu tồi tàn. Hãy giúp người nghèo mỗi khi nhìn thấy các nữ tu thì họ
được thu hút đến Ðức Kitô và mời Ngài vào trong nhà họ và cuộc đời họ."
Thánh Frances
ở Rôma nói: "Một phụ nữ đã lập gia đình mà còn đạo đức thì thật đáng khen
ngợi, nhưng họ đừng bao giờ quên rằng mình là người nội trợ. Và đôi khi, họ phải
để Thiên Chúa ở bàn thờ mà về với ông chồng trong công việc hàng ngày."
Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.
Thánh trẻ Đaminh Savio
đệ tử Cha Don Bosco (dòng Salesio)-, bổn
mạng thiếu niên
Người Ý (1842-1857) qua đời lúc 15 tuổi
kính ngày 9 tháng 3.
1. Tâm hồn đạo đức từ nhỏ:
Savio là thánh trẻ rất quen thuộc với
nhiều người, nhờ sự phổ biến sách vở của dòng Salesio- Don Bosco.
Đaminh Savio được sinh ra chào đời ngày
2-4-1842. Đuợc Rửa tội cùng ngày.
Gia đình cậu là gia đình nghèo làng
Riva, tỉnh Chiera,thuộc miền bắc nước Ý. Anh chị em gồm 12 người. Nhà nghèo nên
gia đình phải di chuyển nơi ở nhiều lần.
Năm Đaminh 2 tuổi, gia đình em dọn về
Murialdo, một làng nhỏ cạnh Riva.
Ngay từ nhỏ Savio đã được dậy cho thói
quen đọc kinh tối sáng. Em lại ngoan ngoãn dễ vâng lời cha mẹ. Savio đã trở
thành niềm vui cho cha mẹ, đặc biệt những lúc ông Carlô đi làm về, Savio thường
ra đón ba bằng những nụ cười tươi và hôn ba làm cho ba vui vẻ quên mệt nhọc nơi
đồng ruộng.
Khi lên 5 tuổi, Savio đã thích giúp lễ. Cậu
nhỏ quá, không với tới sách lễ trên bàn thờ, nhưng sung sướng thấy cha đưa sách
ra cạnh bàn thờ cho bé. Nhiều ngày cậu đi lễ sớm, vì cha sở chưa mở cửa nhà thờ,
cậu phải đứng chờ ngoài trời tuyết, rất lạnh lẽo.
Năm lên 7 tuổi, Savio đã thuộc lòng
giáo lý căn bản và ao ước được rước Chúa Giêsu . Cha
sở đã bàn với các linh mục bạn và cho phép cậu được Rước lễ lần đầu sớm. Sung
sướng, cậu khoanh tay "xin lỗi mẹ" và hứa sẽ ngoan ngoãn vâng lời.
Sáng hôm sau, lễ Chúa Phục sinh, cậu sung sướng chừng nào được Rước lễ lần
đầu trong đời trong trắng. Sau khi Rước lễ, về nhà Savio đã ghi lại 4 điều dốc
lòng như sau:
1/ Tôi sẽ siêng năng xưng tội và rước lễ
.
2/ Tôi sẽ thánh hoá các ngày lễ trọng.
3/ Chúa Giêsu và Mẹ Maria là những người
bạn thân nhất của tôi.
4/ Tôi thà chết chứ không phạm tội.
Trong gia đình Savio, mọi
người có thói quen đọc kinh trước khi ngồi vào bàn ăn.
Ngày kia, nhà có khách. Đến bữa, ông
khách ngồi ngay vào bàn, ăn cách ngon lành.
Thấy ông khách không làm ít là một dấu
Thánh Giá, Savio rời bàn ăn, đến ngồi ăn tại góc nhà. Khi khách ra về, ông Carôlô hỏi: sao lúc nãy con không ngồi
ăn chung? Savio trả lời : Thưa ba con không muốn ở gần ông khách đó, vì ông ta
ngồi vào bàn ăn chẳng khác gì con vật, không biết cầu xin Chúa …như ba vẫn dạy
con.
Lên 10 tuổi, nhà ở xa phố không có trường
gần, nhưng Savio nài nỉ cha mẹ cho đi bộ đến trường , mỗi ngày 2 lần đi, 2 lần
về tổng cộng 16 cây số. Nhưng cậu hăng hái, vui vẻ bước đi với niềm tin như đi
làm công cho Chúa để lãnh phần thưởng Chúa ban sau này trên Thiên đàng . Một
ngày kia, có ông già thấy bé thường đi bộ một mình đi học, ông hỏi cậu:
- Con đi học một mình, đường vắng mà
con không sợ à?
- Cậu trả lời “Cháu đâu có đi một mình,
có Thiên Thần Bản mệnh lúc nào cũng đi với cháu mà!”.
Savio quý bạn học, nhưng
không chịu theo hùa để làm chuyện bậy bạ tội lỗi khi đi tắm suối. Cậu nhất định
từ chối lời rủ rê, nói là để về xin phép mẹ, nên bạn bè cũng không dám ép.
Một lần bạn bè đến lớp sớm, nghịch phá
lò sưởi, chúng bỏ tuyết vào cho tắt lò. Khi thầy giáo đến, hỏi đứa nào cũng chối,
nhưng Savio im lặng. Thầy tưởng Savio là thủ phạm, nên la rầy và bắt quì giữa lớp.
Hôm sau thầy mới biết chuyện thì đã xong rồi. Savio nói là "không muốn bạn
bị đuổi", còn mình, hi vọng được tha vì phạm lần đầu.
2. Savio sống trong nhà cha Don Boscô
Lên 12 tuối, (năm 1853) Savio gặp được
cha Don Bosco, cậu nói: "Con muốn làm linh mục". Đaminh Savio đã bày
tỏ cậu là tấm vải trong tay người thợ may lành nghề là cha Don Bosco để Ngài cắt
thành tấm áo đẹp dâng Chúa.
Khi được tiếp xúc với Don Bosco, Savio
đã tìm thấy con đường lên thánh là “Phụng sự Chúa trong vui vẻ”.
Lên 14, Savio nhập trường của cha
Bosco. Với sự hướng dẫn của cha, cậu đã nên thánh. Savio luôn thân thiện,
vui vẻ, hăng hái, chu toàn bổn phận, giúp đỡ bạn học, đưa về đàng lành...
Savio có lòng tôn kính Thánh Thể và Đức
Mẹ cách đặc biệt. Cậu cám ơn Chúa sau rước lễ rất sốt sắng
. Một lần, cậu được ngất trí từ sau khi Rước lễ sáng tới 2 giờ chiều, bỏ
ăn, bỏ học luôn cho tới khi cha Don Bosco đoán ra và tìm được cậu đang ngất
trí, đứng nhìn Nhà Chầu.
Trong trường, cậu được phép tổ chức hội
Đức Mẹ Vô nhiễm. Mục đích Hội là "Cứu
rỗi linh hồn mình và nên thánh bằng cách cứu rỗi chúng bạn". Nhờ Hội này, thiếu niên nhà cha Don Bosco đã xưng tội Rước
lễ nhiều hơn, dễ dạy hơn, trở nên tốt lành tấn tới rất nhiều hơn. Mẹ cha Don
Bosco rất khen Savio là trẻ ngoan nhất của Bà.
Savio để dành những ảnh đạo , kẹo bánh
người ta cho cậu để tặng lại các bạn và giúp họ làm việc lành. Một lần cậu bảo
em bé làm dấu thánh giá tử tế rồi cậu cho một mẫu ảnh.
Cậu thích dạy giáo lí cho các em nhỏ để
các em biết Chúa và mến Chúa .
Cậu khuyên các bạn xưng tội, Rước lễ và
viếng Mình Thánh , viếng Tòa Đức Mẹ . Có lần trời mùa Đông, người bạn từ chối,
cậu phải tháo găng tay, cởi áo choàng ra cho bạn mượn để đi viếng Đức Mẹ .
Thời gian học Trung học, Savio
đã thể hiện một hành vi thật là can đảm và anh hùng. Đó là giữa bạn bè có hai
người đã cãi vã và quyết đánh nhau sống chết. Savio cố gắng giải hòa nhưng
không xong. Cậu đành xin hai bạn cho theo đến nơi ném đá. Tới nơi đã hẹn, Savio
làm chuyện mà không có ai tưởng nổi: Cậu chia khoảng cách để hai người đứng đối
diện nhau; mỗi người đã cầm sẵn trong tay 5 cục đá, rồi Savio lên tiếng.
- Trước khi các bạn thi hành cuộc thách
đấu, tôi muốn các bạn hoàn thành điều kiện tôi đề nghị. Nói rồi, cậu rút cây
Thánh Giá nhỏ đeo ở cổ, giơ cao lên, rồi nói:
- Tôi muốn hai bạn nhìn thẳng vào Chúa
chịu đóng đinh, để rồi, trong khi ném một viên đá vào tôi, bạn hãy dõng dạc nói
các lời sau đây: “Chúa Giêsu Kitô vô tội đã chết khi tha thứ cho những kẻ
đóng đinh ngài, còn tôi kẻ có tội lại muốn xúc phạm đến Ngài và thực hiện một
việc báo thù nghiêm trọng”.
Nói xong, cậu đến quì gối trước anh bạn
đang hằm hằm sát khí mà nói:
- Bạn hãy ném đá tôi đi.
- Bạn hãy ném đá tôi đi.
Anh bạn nhanh nhảu nói:
- Không, không bao giờ. Tôi không có
chuyện gì chống lại bạn và tôi sẵn sàng bảo vệ bạn nếu thằng kia làm hại bạn.
Nghe thấy vậy, Savio chạy sang anh bạn
khác và cũng dùng những lời như trước.
Anh bạn này cũng ngỡ ngàng và nói giọng run run “Savio là bạn của mình, mình sẽ không làm hại bạn! Nếu thằng chó chết kia làm hại bạn tôi sẽ giết nó!”
Khi ấy Đaminh Savio đứng lên, và nói:
Anh bạn này cũng ngỡ ngàng và nói giọng run run “Savio là bạn của mình, mình sẽ không làm hại bạn! Nếu thằng chó chết kia làm hại bạn tôi sẽ giết nó!”
Khi ấy Đaminh Savio đứng lên, và nói:
- Cả hai bạn đều sẵn sàng liều thân chết
để bảo vệ tôi, một người tội lỗi, tại sao các bạn lại không thể tha thứ cho
nhau, vì chính Chúa đã chết để cứu linh hồn các bạn?
Trước lòng can đảm ấy, hai tên đã ôm lấy
Savio và ôm lấy nhau, tha thứ cho nhau, và đã trở thành bạn của nhau.
Để nên thánh, Savio cũng thích làm những việc hãm mình như lấy roi đánh tội,
ăn bánh lạt với nước lã, nhịn đói, nhưng cậu bị cấm và phải vâng lời ăn uống
như anh em trong nhà. Cậu lại nghĩ ra những cách khác như nhặt ăn bánh vụn rơi
xuống đất, gối đầu bằng viên gạch, mùa Đông không xin thêm chăn, để noi gương
Chúa trong hang đá, xin mặc áo nhặm như thánh Gioan Baotixita, nhưng cũng bị
các cha khôn ngoan cấm hẳn…, vì sức khỏe quá mỏng manh của cậu. Cha Don Bosco mở
đường cho cậu: sống vâng lời, chịu mọi khó khăn theo thời tiết nóng lạnh, mọi
trái ý…vì lòng mến Chúa mà vẫn luôn tươi cười.
Quyết tâm sống thánh đã làm Savio âm thầm
hy sinh chịu nóng lạnh của thời thiết khắc nghiệt làm sức khỏe cậu suy yếu và
ngã bệnh.
Vì kém sức khoẻ, Savio đã rời trường
sau 2 năm rưỡi sống rất ngoan ngoãn ở đây.
3. Savio về gia đình chữa bệnh và qua đời:
Ngày 1-3-1857 Savio phải giã từ nhà cha Don Bosco để về gia đình trị bệnh.
Cha Don Bosco hi vọng với phong cảnh dễ chịu và sự săn sóc của bà me, Savio sẽ chóng khỏi hơn. Nhưng dù uống mọi thứ thuốc, bệnh cậu vẫn không giảm. Trên giường bệnh Savio đã vui nhận mọi sự trong niềm tín thác vào Chúa và Đức Mẹ như những người bạn đường của cậu. Savio luôn nghĩ tới Chúa trên Thánh giá để can đảm chịu khổ do bệnh nan, do thuốc men.
Cha Don Bosco hi vọng với phong cảnh dễ chịu và sự săn sóc của bà me, Savio sẽ chóng khỏi hơn. Nhưng dù uống mọi thứ thuốc, bệnh cậu vẫn không giảm. Trên giường bệnh Savio đã vui nhận mọi sự trong niềm tín thác vào Chúa và Đức Mẹ như những người bạn đường của cậu. Savio luôn nghĩ tới Chúa trên Thánh giá để can đảm chịu khổ do bệnh nan, do thuốc men.
Ngày 9-3-1857, Savio xin ba mời
linh mục để lãnh nhận Phép Thánh Thể và Xức dầu sau cùng để về cùng Chúa Đức Mẹ.
Khi gần chết, cậu xin cha cậu
đọc kinh cầu đi đàng cho người hấp hối. Đột nhiên, mặt cậu vui tươi, cậu nói:
"Con đang được thấy cảnh đẹp tuyệt vời". Lúc đó là 10 giờ khuya.
Savio tắt thở để về với Chúa và Mẹ
Maria cậu yêu mến suốt cuộc đời vắn vỏi.
Savio đã được làm nhiều phép lạ nên ngày 5 tháng 3 1950, Đức Thánh Cha Piô 12
tuyên phong Á thánh cho Đaminh Savio. Và ngày 12 - 6 - 1954, sau 4 năm,
cũng Đức Thánh Cha Piô 12 tuyên phong hiển thánh cho Đaminh Savio.
Trong lễ phong hiển thánh cho Savio, Đức
Thánh Cha đã trình bầy Savio như là một thiếu niên mảnh khảnh, với một thân xác
yếu đuối nhưng có một tâm hồn cương nghị đầy khát vọng tận hiến bản thân cho
Tình yêu siêu việt của Chúa Kitô. Là học trò của Cha Thánh Gioan Bosco, Savio
đã hiểu được sống thánh là "chu toàn bổn phận trong niềm vui để phụng
sự Thiên Chúa và tha nhân”.
---
19 năm
sau khi qua đời, Savio đã hiện về với cha Don Bosco, nói về nhà Dòng, nhất là
nhắn nhủ Tôn kính yêu mến Đức Mẹ như cha Bosco kể lại giấc mơ có thật cho
các bề trên trong dòng và các tu sĩ nghe:
"Một
hôm, khi tôi đang ở trong phòng làm việc, bỗng thấy mình được đưa lên một ngọn
đồi. Chung quanh là cảnh rộng mênh mông, có hồ lớn, có vườn rộng. Trong vườn có
nhiều cây trái và hoa đẹp rực rỡ.
Trong
khi đang ngắm cảnh đẹp ấy, tai tôi lại nghe những âm nhạc to dần, rồi bỗng thấy
một đoàn người trẻ vui tươi tiến lại.
Dẫn đầu
đoàn trẻ coi giống như Đaminh Saviô, học sinh của trường chúng ta đã qua đời.
Khi tới trước mặt tôi chừng 10 bước, đoàn người trẻ dừng lại, tiếng hát cũng
ngưng. Cậu trẻ tiến sát trước mặt tôi, cậu mặc chiếc áo dài trắng phủ tới chân.
Áo được trang điểm bằng những sợi kim cương và ngang lưng thắt giây đai đỏ nạm
ngọc trắng. Cổ quàng vòng hoa rực rỡ.
Tôi
kinh ngạc không nói ra lời. Thấy vậy cậu trẻ lên tiếng nói:
- Sao
cha đứng im và tỏ ra kinh hãi thế?
- Vì
cha không biết nói gì. Nhưng con có phải là Đaminh Saviô không?
- Con
đây, cha không nhận ra sao?
- Sao
con lại ở đây?
- Con đến
đây với cha. Cha có điều gì hỏi không?
- Quang
cảnh tuyệt đẹp cha vừa thấy là cảnh gì mà đẹp quá.
- Nó là
cảnh thiên nhiên, nhưng được tay của Chúa trang điểm đẹp gấp ngàn lần.
- Cảnh
này giống Thiên đàng quá.
-
Không, Thiên đàng khác xa vô ngần, người trần như cha không thể hiểu được.
- Con
được hưởng gì trên đó?
- Không
thể giải nghĩa cho cha được, không thể giải nghĩa cho người còn sống, bao lâu
chưa được kết hợp với Chúa.
…
-
Saviô, nói cho cha nghe, điều gì an ủi con nhất khi con sắp qua đời?
- Cha
đoán coi?
- Cha
chịu thôi.
- Thưa
cha, điều an ủi con nhất khi sắp qua đời, đó là được Mẹ Maria quyền
phép và nhân từ đến giúp đỡ. Xin cha nhớ nói với
những người trẻ rằng: ĐỪNG BAO GIỜ QUÊN KÊU CẦU CÙNG MẸ MARIA bao lâu họ còn sống
ở trần gian, nếu muốn được bình an trong giờ chết kinh hoàng". (Thu Lâm, Đaminh
Savio, Cậu bé Phi thường, TTĐM xb 1992, tr
137-138)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét