Ngày 3 tháng 7
Lễ Thánh Tôma Tông Ðồ
Lễ Kính
*
Thánh Tôma, còn gọi là Ðiđimô, người xứ Galilêa là một trong số mười hai môn đệ
của Chúa Giêsu. Phúc Âm, đặc biệt là Phúc Âm thánh Gioan, đã cho ta thấy ngài
là người rất nhiệt thành và tận tụy. Một lần Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để cho
Lazarô sống lại, nhưng nơi đó người Do Thái đang âm mưu giết Chúa, nên Tôma đã
can đảm nói: "Nào chúng ta cùng đi để được chết với Thầy". Sau khi
Chúa sống lại, lòng cứng tin của Tôma đã là bài học đích đáng cho muôn thế hệ.
Ðối với sự Phục Sinh của Chúa, ngài chỉ biết thốt lên: "Lạy Chúa tôi và là
Chúa Trời tôi".
Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, có lẽ ngài đã đi rao giảng
Tin Mừng ở Patia, Ba Tư. Một văn kiện khác cho rằng ngài đã đặt chân lên Ấn Ðộ
và chịu tử đạo ở đó, vì người ta đã tìm thấy nhiều tài liệu chứng minh ngay từ
xưa dân tộc Ấn Ðộ đã có một lòng tôn kính đặc biệt đối với thánh Tôma tông đồ.
Hợp ý với Giáo Hội, chúng ta hãy xin Chúa, nhờ lời bầu cử của
thánh nhân, thêm đức tin cho chúng ta, nhất là trong thế giới duy vật ngày nay.
Bài
Ðọc I: Ep 2, 19-22
"Anh
em được xây dựng trên nền tảng các tông đồ".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh
em thân mến, anh em không còn là khách trọ và khách qua đường nữa, nhưng là người
đồng hương với các Thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng
trên nền tảng các Tông đồ và các Tiên tri, có chính Ðức Giêsu Kitô làm Ðá góc
tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong
Chúa, trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành
nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 116, 1. 2
Ðáp: Hãy đi rao giảng
Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Xướng:
1) Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa! Hỡi ngàn dân, hãy ca tụng Người. - Ðáp.
2)
Vì lòng từ bi Người vững bền trên chúng ta, và lòng trung kiên Người tồn tại đến
muôn đời. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 20, 29
Alleluia,
alleluia! - Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã
không thấy mà tin. - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 20, 24-29
"Lạy
Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Bấy
giờ trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđy-mô, không ở cùng với các
ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng
tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu
tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ
đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông.
Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán:
"Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay
vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy;
chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy
Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã thấy Thầy
nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Thánh
Tôma, Tông Đồ
Khi
nói đến ai đồng dạng với “Tôma”, điều đó không có gì là nâng bi. Đó là thái độ
bình thường của bất cứ tín hữu nào, bất cứ Kitô hữu nào.
Tôma
không tin các bạn tông đồ, đúng thế; nhưng ông không do dự khi Thiên Chúa tỏ
mình ra cho tin. Không phải là lời chứng của các tông đồ làm chúng ta tin Đức
Ki-tô Phục Sinh, Con Thiên Chúa, và phúc cho chúng ta, chính Đức Ki-tô làm chúng
ta tin.
Các
sách Tin Mừng...
Chúng
ta biết chắc rằng các sách Tin Mừng không được Đức Giê-su viết ra. Chúng ta biết
chắc rằng những bài giảng của Đức Giê-su chỉ là những bản tóm tắt, sơ sài biết
bao. Tuy nhiên, khi Gioan, Luca, Matthêu hay Mác-cô viết rằng: “và Đức Giê-su
nói....”, chúng ta tin những lời các thánh sử Tin Mừng truyền lại cho chúng ta,
những lời đó chúng ta nghe chính miệng Đức Ki-tô.
Tôma...
Chính
Ngài làm chứng cho chúng ta về Đức Ki-tô Phục Sinh, nhưng cũng nói cho mỗi người
chúng ta rằng, chúng ta cũng có thể tin các thánh sử Tin Mừng, các Ngài là những
chứng nhân chính thức, còn chính Đức Ki-tô cho chúng ta đức tin nhờ các Ngài và
nhờ Giáo Hội.
Khi
Giáo Hội dạy, Giáo Hội nói lời Chúa cho chúng ta. Giáo Hội chỉ là người mang tiếng
nói của Ngôi Lời. Chính Ngôi Lời nói, luôn luôn là thế. Các Giám Mục là người kế
vị các tông đồ, không phải là các nhà thần học. Nên chúng ta phải chú ý nghe
các Ngài, thì không nhất thiết phải luôn luôn nghe theo các Ngài. Đức tin không
lay chuyển nhưng khoa học thì liên tục tiến triển.
Tôma
còn nhắc nhở chúng ta chỉ có một tiếng nói chính thức và chúng ta cũng phải biết
kính trọng trí khôn chúng ta và đức tin chúng ta, đừng để bất cứ ai, bất cứ cái
gì nhồi sọ chúng ta, coi chừng nhiều tiên tri giả chung quanh chúng ta.
J.M
Lời Chúa Mỗi Ngày
Kinh Thánh Thomas Tông
Đồ.
Bài đọc: Eph 2:19-22; Jn
20:24-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phúc
cho những ai tuy không thấy mà tin!
Thánh
Thomas Tông Đồ thường được gọi là "Cha của những kẻ cứng lòng tin;"
nhưng cũng nhờ ngài mà chúng ta có thêm những lời dạy dỗ của Đức Kitô, và mở mắt
cho chúng ta thấy có nhiều cách thức khác để con người phải tin vào Thiên Chúa.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung trong những cách thức khác nhau một người có thể dùng
để tin vào Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tác giả Thư Ephesô xác tín đức tin của
chúng ta được xây dựng trên Đá Tảng là Đức Kitô, và nền móng là niềm tin của
các tông-đồ và các tiên-tri. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách Thomas đã chỉ dựa
vào kinh nghiệm giác quan, mà không chịu tin vào lời Ngài đã loan báo trước Cuộc
Khổ Nạn và lời chứng của các tông-đồ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Đức tin của chúng ta dựa trên niềm tin nền tảng của các Tông-đồ.
1.1/
Vị thế của người Kitô hữu trong gia đình Thiên Chúa: Tác giả Thư Ephesô
xác định: "Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng
là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên
Chúa." Một sự phân tích của 4 từ ngữ dùng trong câu này, cho chúng ta hiểu
ý của tác giả:
(1)
Người xa lạ (xenos): người ngoại kiều, không có một chút liên hệ nào với
người bản xứ, cũng không được bảo vệ bởi luật pháp bản xứ. Đó là tình trạng của
Dân Ngoại, khi họ chưa biết Đức Kitô.
(2)
Người tạm trú (paroikos): người ngoại kiều được phép trong một quốc gia,
nhưng chỉ tạm thời trong một thời gian. Họ chỉ được hưởng một số những quyền lợi
của người bản xứ, và phải ra khỏi xứ khi thời gian hết hạn.
(3)
Người đồng hương (sumpolithi): người cùng sinh ra trong một làng, một nước;
có cùng chung niềm tin, thói quen, truyền thống, và văn hóa. Những người này có
thói quen lập Hội Ái Hữu để giúp đỡ nhau khi phải di chuyển đi nơi xa hay nơi đất
khách quê người. Ví dụ: Hội Ái Hữu Thức Hóa, qui tụ những đồng hương của làng
Thức Hóa, Bùi Chu, Bắc Việt Nam. Tác giả Thư Ephesô gọi các tín hữu là những
"đồng hương với các người thuộc dân thánh," vì họ có cùng niềm tin
nơi Đức Kitô, và cùng được kêu gọi để trở nên thánh thiện.
(4)
Người nhà (onkeios): người có liên hệ ruột thịt hay hoàn cảnh đặc biệt,
liên kết thành một nhóm rất thân mật, sống chung trong một mái nhà. Những người
này được gọi là những thành viên của một nhà. Họ được chung hưởng mọi quyền lợi
và có bổn phận bảo vệ nhà mình. Tác giả gọi các tín hữu là những "người
nhà của Thiên Chúa;" vì họ cùng được hưởng ơn cứu độ Thiên Chúa đã dọn sẵn.
Họ cùng chung bổn phận làm sao cho mọi người trong nhà đạt được ơn cứu độ.
1.2/
Tòa nhà của Thiên Chúa: được
nhân cách hóa để chỉ vị thế và bổn phận của mỗi thành phần của Dân Chúa. Một
tòa nhà gồm những phần sau đây:
(1)
Đá Tảng góc tường (avkrogwniaios): là chính Đức Giêsu Kitô. Đá Tảng là
viên đá góc, viên đá quan trọng nhất nối hai bức tường của tòa nhà và sàn nhà với
nhau, trong kiến trúc xây nhà của người Do-thái. Nhiều người cho hai bức tường
này tượng trưng một cho Do-thái và một cho Dân Ngoại. Đức Kitô hay niềm tin vào
Đức Kitô là Đá Tảng cho tòa nhà này. Nếu không được xây dựng trên Đá Tảng là Đức
Kitô, tòa nhà của Thiên Chúa sẽ không thành hình được.
(2)
Nền móng (themelios): là các Tông Đồ và ngôn sứ. Cấu trúc quan trọng thứ
hai của tòa nhà là nền móng, trên đó tòa nhà được xây dựng lên. Chúa Giêsu đã từng
cho chúng ta một ví dụ về việc xây nhà trên đá thay vì trên cát. Các ngôn sứ và
các tông-đồ được ví như nền móng của tòa nhà Thiên Chúa, vì đức tin của họ vào
Thiên Chúa. Nhờ những cố gắng rao giảng và máu của họ đổ ra, mà đức tin được
lan tràn ra cho mọi người.
(3)
Các phần khác: là toàn thể các tín hữu. Có thể ví mỗi tín hữu như một viên gạch
được xây trong tòa nhà của Thiên Chúa; tuy nhỏ bé, nhưng cần thiết để hoàn
thành. Trong Đức Kitô, "toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và
vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được
xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần
Khí."
2/
Phúc Âm:
Phúc thay những người không thấy mà tin!
2.1/
Đức tin dựa trên kinh nghiệm: Có những người chỉ tin khi mắt thấy, tai nghe, và tay sờ mó được.
Thomas là một trong những người này. Vì ông không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra
với các tông-đồ lần thứ nhất, nên họ nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy
Chúa!" Ông Thomas đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu
tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi
chẳng có tin."
2.2/
Đức tin dựa trên các điều khác: Ngoài đức tin dựa trên kinh nghiệm giác quan như
Thomas đòi hỏi, chúng ta còn ít nhất 3 cách khác để tin một điều là sự thật:
(1)
Thế giá của người nói: Đây là cách mà chúng ta vẫn áp dụng hằng ngày: con cái
tin cha mẹ, học sinh tin thầy cô, nhân viên tin chủ mình ... Chúng ta tin vì
chúng ta nghĩ những người này không thể đánh lừa chúng ta. Tòa án các cấp cũng
thường áp dụng điều này khi đòi phải có hai hoặc ba nhân chứng để xác định một
điều xảy ra là sự thật. Chúa Giêsu trách Thomas cứng lòng tin, vì đã không tin
lời của 10 nhân chứng là các tông-đồ.
(2)
Hậu quả xảy ra: Nguyên lý nhân quả là nguyên lý mà chúng ta vẫn thường dùng
trong cuộc sống hằng ngày. Ví dụ, khi chúng ta thấy khói bốc lên, chúng ta biết
ngay có lửa đang cháy. Tuy chúng ta không thấy điện chạy, nhưng chúng ta không
dám rờ vào ổ điện, vì chúng ta sợ điện giật. Cũng vậy, tuy chúng ta không thấy
Thiên Chúa; nhưng nhìn mọi sự vật do tay Chúa sáng tạo, chúng ta tin có Thiên
Chúa.
(3)
Ghi chép lịch sử: Khi học lịch sử, chúng ta tin những người ghi chép lại những
biến cố lịch sử đã xảy ra. Nếu có nghi ngờ, chúng ta có thể đối chiếu các nguồn
lịch sử khác nhau, và dùng trí phán đoán để xác định sự trung thực của các biến
cố. Khi đọc Kinh Thánh, chúng ta cũng dựa trên lịch sử để xác định sự trung thực
của các biến cố xảy ra. Chẳng hạn, chúng ta thường gặp những câu trong Tân Ước
như: "để ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã nói," hay "để làm tròn lời
Kinh Thánh đã chép" ...
2.3/
Ông Thomas tuyên xưng đức tin: Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả
ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các
ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Thomas: "Đặt
ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.
Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông Thomas thưa Người: "Lạy Chúa
của con, lạy Thiên Chúa của con!" Đức Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy,
nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" Đức tin dựa trên
kinh nghiệm là cách thấp nhất để một người tin, Chúa Giêsu khiển trách Thomas
vì đã không chịu dùng các cách khác nữa. Thánh Thomas, tuy cứng lòng tin; nhưng
một khi đã xác tín niềm tin vào Đức Kitô, ông không bao giờ lui gót nữa. Ông
không chỉ tuyên xưng Đức Kitô là Thầy, mà còn là Thiên Chúa của ông.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta là những viên đá sống động trong Đền Thờ của Thiên Chúa. Bổn phận của
chúng ta là lo sao cho Đền Thờ này luôn sống động và tăng trưởng mỗi ngày.
-
Đức tin của chúng ta không chỉ dựa trên kinh nghiệm của giác quan; nhưng còn dựa
trên Kinh Thánh, lịch sử, hậu quả, và những lời làm chứng của bao nhiêu chứng
nhân trong lịch sử.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
03/07/15
THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 13 TN
Th. Tô-ma, tông đồ Ga 20,24-29
CẦN DẤU CHỨNG CHO NIỀM TIN
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người,
nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người,
tôi chẳng có tin.” (Ga
20,25)
Suy niệm : Cứ mỗi lần nghe bài Tin Mừng này là Tô-ma
lại bị “ném đá,” bị lên án là kẻ cứng lòng tin. Xem ra Tô-ma là người rất thực
tế. Nghe các bạn kể lại, hẳn Tô-ma không khỏi thắc mắc: ‘Các anh đã thấy Chúa
sống lại rồi, tại sao phải sợ hãi, đóng cửa kỹ lưỡng? Tại sao không mở cửa,
bước ra ngoài để loan báo Tin Mừng Chúa sống lại cho mọi người nghe mà tin? Đâu
là bằng chứng đức tin của các anh?’ Tô-ma không thấy sự thay đổi đáng kể nào
nơi các tông đồ, nên không tin. Con người ngày nay cũng thực tế như Tô-ma, cần
bằng chứng nơi đời sống của người Ki-tô hữu. Nếu đức tin nơi ta không biểu lộ
cách rõ ràng, thì làm sao con người thời đại hôm nay nhận biết Chúa được?
Mời
Bạn : Dấu chứng
cho thấy người Ki-tô hữu có Chúa là lòng sẵn sàng chia sẻ tiền bạc, thời giờ,
công việc chung, cùng với khuôn mặt rạng rỡ, vui tươi, lời nói hiền từ ngay cả
trong nghịch cảnh. Bạn đã thực hiện dấu chứng này chưa? Nếu chưa, bạn sẽ làm gì
để có?
Sống Lời Chúa : Tôi sẽ bày tỏ niềm vui có Chúa, được biết Tin
Mừng Nước Trời của Ngài qua thái độ vui tươi trong mọi tình huống của cuộc
sống, cũng như qua lòng quảng đại với mọi người.
Cầu nguyện : Lạy Chúa Giê-su, xin cho con thể hiện niềm tin vào Chúa nơi
gương mặt tươi vui của con, vì buồn phiền, thất vọng là điều trái ngược với
niềm tin. Xin cho con biết mạnh dạn dấn thân nói về Chúa cho người khác,
vì không dấn thân, đức tin của con là đức tin chết. Xin cho cuộc đời con mang
nhiều dấu chứng niềm tin của con. Amen.
Đừng cứng lòng nữa
Trong tập thể chúng ta đang sống, vẫn có những
Tôma: hoài nghi, bướng bỉnh, đòi hỏi, xa cách với cộng đoàn... Thầy Giêsu dạy
chúng ta bao dung và nhẫn nại, chứ không kết án.
Suy niệm:
Chẳng rõ vì lý do gì mà ông
Tôma đã không ở với nhóm môn đệ
khi Đức Giêsu phục sinh hiện
ra gặp các ông.
Có vẻ có một sự xa cách nào
đó giữa Tôma và mười ông kia.
Chuyện này trở nên rõ hơn
khi ông Tôma từ chối tin vào lời của họ:
“Chúng tôi đã thấy Chúa!” (c. 25).
Ông đòi tự mình kiểm chứng,
thấy tận mắt, sờ tận tay.
Thấy dấu đinh nơi bàn tay
Thầy, xỏ ngón tay mình vào lỗ đinh,
thọc bàn tay vào cạnh sườn
Thầy: đó là những điều kiện ông đòi để tin.
Tôma không đứng dưới chân
thập giá như người môn đệ Chúa yêu,
nhưng ông đã được nghe
chuyện Thầy bị đóng đinh, bị đâm nơi cạnh sườn.
Đối với ông, nếu Thầy thực
sự phục sinh,
thì thân xác Thầy vẫn còn
phải mang những vết thương đó.
Phục sinh không làm mất đi
những vết sẹo của tình yêu cứu độ.
Đấng phục sinh lại có ý
chiều ông, đó mới là chuyện lạ.
Ngài biết óc thực tiễn của
ông, và Ngài không muốn mất ông (Ga 17, 12).
Ngài dám thỏa mãn những đòi
hỏi táo bạo và cụ thể của ông,
để đưa ông về với đức tin,
về với cộng đoàn.
Một tuần sau, cũng vào ngày
thứ nhất trong tuần,
Đức Giêsu phục sinh đến như
thể cho một mình ông thôi,
và mời ông làm những điều
ông đòi hỏi.
Chẳng rõ Tôma có dám thực
hiện hay không,
nhưng chính thái độ bao dung
và yêu thương của Thầy đã chinh phục ông.
Môi ông bật lên lời tuyên
xưng đức tin cao nhất trong Tân Ước:
“Lạy Chúa của tôi; lạy Thiên
Chúa của tôi” (c.28).
Lời tuyên xưng này vượt quá
những gì giác quan ông có thể cảm nhận.
“Vì đã thấy Thầy, nên anh
tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin!”
Chúng ta ngày nay tuy không
được hưởng kinh nghiệm như thánh Tôma,
nhưng chúng ta lại được
hưởng một mối phúc mà ngài không có được.
Đó là mối phúc của người
tin, không phải nhờ thấy tận mắt,
mà nhờ nghe lời chứng của
các môn đệ (Ga 17, 20), trong đó có Tôma.
Xin cám ơn sự cứng lòng của
thánh Tôma, cám ơn lời chứng của ngài.
Chính sự cứng cỏi của ngài
làm chúng ta mềm mại hơn để tin,
vì chúng ta biết chuyện Chúa
phục sinh không do một ảo giác tập thể.
Tôma là một người hoàn toàn
tỉnh táo.
Trong tập thể chúng ta đang
sống, vẫn có những Tôma:
hoài nghi, bướng bỉnh, đòi
hỏi, xa cách với cộng đoàn...
Thầy Giêsu dạy chúng ta bao
dung và nhẫn nại, chứ không kết án.
Quanh chúng ta vẫn có nhiều
người chưa biết Chúa,
họ cũng đòi thấy và đụng
chạm đến Thiên Chúa.
Kitô hữu chúng ta phải có
kinh nghiệm sâu xa như các tông đồ xưa,
để làm chứng được rằng:
“Chúng tôi đã thấy Chúa” (c. 25).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3
THÁNG BẢY
Nguồn
Thiện Hảo Bất Tận Của Thiên Chúa
Vị
Thiên Chúa hằng săn sóc chúng ta ấy là ai vậy? Sách Gióp mô tả Ngài là Đức Chúa
của mọi tạo vật: “Hãy xem: Thiên Chúa cao cả khi bày tỏ quyền năng, tôn sư nào
sánh được với Ngài? … Các giọt nước mưa, Ngài gom góp lại, rồi đem nghiền nát
thành sương mù. Các tầng mây đổ mưa xuống trên phàm nhân hết thảy… Quả thật,
Ngài dùng nước mà nuôi dưỡng chư dân – cho họ có lương thực dồi dào” (G
36,22.27-28.31).
“Ngài
dùng hơi nước tạo thành mây, và từ mây, Ngài làm cho chớp lóe. Mây lang thang
xoay đủ mọi chiều, theo đúng chương trình Ngài hoạch định, để trên toàn cõi đất
chúng thực thi mọi lệnh Ngài truyền” (G 37,11-12).
Sách
Huấn Ca âm vọng lại những lời của Sách Gióp – và nói về Thiên Chúa của tạo vật:
“Ngài ra lệnh truyền, tuyết liền sa xuống. Ngài phóng những tia chớp làm phán
quyết của Ngài” (Hc 43,13). Tác giả Thánh Vịnh cũng tán dương “sức mạnh đáng sợ
của Ngài”, “sự tốt lành vô lượng của Ngài”, “uy phong rạng rỡ của Ngài”, Ngài
là “Đấng thành tín và đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm”. Tác giả Thánh Vịnh
thốt lên: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa
cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thỏa thuê. (Tv
145,6-7.15-16).
Hơn
thế nữa, tác giả Thánh Vịnh nhắc đến tình yêu và sự quan tâm của Thiên Chúa dành
cho tất cả những gì mà Ngài đã dựng nên: “Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn
gia súc, làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng. Từ ruộng đất họ kiếm
ra cơm bánh, chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người, xức dầu thơm cho gương mặt
sáng tuơi, nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ” (Tv 104,14-15).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
03-7
Thánh
Tôma tông đồ
Ep
2, 19-22; Ga 20, 24-29
LỜI
SUY NIỆM: “Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con!”
Hôm
nay lễ kính thánh Tôma Tông Đồ, một vị Tông đồ nhiệt thành của Chúa Giêsu,
nhưng thánh nhân lại có những cá tính riêng của ngài. Những gì ngài chưa rõ, là
ngài đòi hỏi sự tỏ tường. Chính vì biết rõ, yêu thương và gìn giữ Tôma mà Chúa
Giêsu đã đến gặp Tôma khi có đông đủ các Tông đồ khác, để đáp ứng đòi hỏi và củng
cố niềm tin đích thực cho Tôma. Khi Tôma nhìn rõ mọi sự, không những Tôma tin
Chúa Giêsu đã sống lại, mà ngài còn xác nhận Chúa Giêsu không những là Thầy, mà
là Chúa của mình, và cũng là Thiên Chúa của mình.
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con hôm nay đang được Chúa chúc phúc: “Phúc thay những người
không thấy mà tin.” Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn học biết
và suy niệm Lời Chúa, để nhận ra lòng yêu thương, ban ơn và gìn giữ của Chúa
trong mọi ngày sống của mỗi người chúng con.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
03-07: THÁNH TÔMA TÔNG ĐỒ
(Thế
kỷ I)
Tôma
là người Do thái, miền Galilê, sống nghề chài lưới, Chúa Giêsu đã chọn Ngài vào
số mười hai tông đồ, và Ngài đã từ bỏ mọi sự để chỉ còn thuộc về thầy chí thánh
mà thôi. Tôma tỏ ra đơn sơ, nhiệt thành và tận tụy. Khi Lazarô chết các tông đồ
run sợ vì thấy Chúa Giêsu về Giêrusalem, nơi các tông đồ biết rõ là bọn biệt phái
đang tìm cách giết Người.
Các
tông đồ ngăn cản: - Thưa Thầy, vừa đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy mà Thầy
lại qua đó nữa sao ?
Nhưng
Tôma trung tín và có phần bi quan. Ông góp ý: - Cả chúng ta nữa, hãy đi qua để
chết với Ngài (Ga 11, 8-16)
Trong
cuộc đàm thoại trước khi Chúa chịu tử nạn, Chúa Giêsu tìm cách an ủi các tông đồ.
Ngài nói: - Lòng các con xao xuyến... Ta đi dọn chỗ cho các con, và Ta đi đâu,
các con biết đường rồi.
Tôma
thưa lại với nhiệt tình muốn theo Chúa: - Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy
đi đâu, làm sao mà biết đường ?
Và
Chúa Giêsu đã trả lời ông: - Đường, sự thật và sự sống chính là Ta (Ga 14,1-6)
Rồi
biến cố khổ nạn xảy ra. Đoàn ngũ tông đồ tan tác. Tội nghiệp Tôma: ông đã không
cùng "chết với Ngài" (!). Trái lại, khi Chúa Giêsu sống lại và hiện
ra với các bạn khác, có lẽ Tôma còn đang ôm đầu than khóc cho nỗi cay đắng.
Nghe
các bạn nhiệt thành làm chứng rằng: Chúa đã sống lại, sự cứng tin được biểu lộ
bằng sự bực bội: - Nếu nơi tay Người, tôi không thấy các dấu đinh, và tay tôi
tra vào lỗ đinh, cùng tra bàn tay tôi vào cạnh sườn Người tôi không tin.
Tiếp
sau là một tuần buồn thảm. Đơn độc đối với Tôma trong khi các bạn ông hạnh
phúc. Chỉ có một mình Chúa Giêsu có thể thuyết phục nổi Tôma thôi. Tám ngày sau
lần hiện ra trước, Chúa Giêsu lại đến, lần này có Tôma. Chúa Giêsu thân ái nói
với ông: - Hãy đem ngón tay ngươi đặt đây, này tay Ta, hãy đem tay ngươi tra
vào cạnh sườn Ta và đừng ở như người cứng tin, mà là như người thành tín.
Không
cần gì nữa, không còn nghi ngờ được, Tôma lớn tiếng tuyên xưng: - Lạy Chúa tôi
và là Thiên Chúa của tôi.
Chúa
Giêsu trả lời ông: - Bởi thấy ta ngươi đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà
tin (Ga 2,24-29).
Đây
là lời khích lệ dành cho những người biết đón nhận đức tin. Nhưng Chúa Giêsu đã
không bao giờ bảo người ta phải nhắm mắt lại. Thánh Grêgôtiô ghi nhận rằng: sự
nghi ngờ của Tôma giúp ích cho chúng ta hơn là đức tin của những người khác. Đức
tin vượt trên lý trí, nhưng lý trí dẫn tới đức tin.
Sau
ngày lễ hiện xuống, các tông đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Theo Eusêbiô,
thánh Tôma đi giảng đạo ở Parthia. Theo một truyền thuyết khác, thánh nhân đã
được gặp các đạo sĩ, đã kính viếng Chúa Hài Đồng thuở trước, và rửa tội cho họ.
Một truyền thống sớm sủa và mạnh mẽ hơn cho rằng Ngài là vị tông đồ của dân An
Độ.
(daminhvn.net)
03
Tháng Bảy
Vị Tiên Tri Cô Ðộc
Người
Ấn Ðộ có kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
"Vì
tội lỗi của loài người, Thượng đế dọa sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Ðất
sẽ nứt nẻ và nước sẽ rút hết vào trong lòng đất... Một thứ nước độc sẽ tràn ngập
mặt đất. Ai uống vào sẽ trở nên bất bình thường.
Một
vị tiên tri nọ đã không xem thường lời đe dọa của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương
đầu với biến cố bằng cách từng ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự
trữ đủ cho ông sống đến ngày tàn của cuộc đời...
Ðộng
đất đã xảy đến, bao nhiêu sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác
được thay thế vào.
Một
tháng sau, vị tiên tri trở lại đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài
người. Ðúng như lời đe dọa của Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hóa
ra điên dại. Nhưng kỳ lạ thay, loài người không ý thức được tình trạng điên dại
của mình. Trái lại, ai cũng muốn ra đường để chế diễu vị tiên tri vì họ cho rằng
ông mới là người điên dại...
uồn
tình, vị tiên tri trở lại chốn núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ
vẫn còn và ông vẫn là người duy nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường...
Nhưng
ngày qua ngày, ông cảm thấy không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được
sống một cách bình thường với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở
lại đồng bằng. Và một lần nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng
ông không còn giống họ nữa.
Không
còn chịu được sự hắt hủi của những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước
dự trữ của mình và ông uống lấy nước mới của người đồng loại để cũng trở nên
điên dại như họ..."
Con
đường dẫn đến chân lý không phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm
chân lý thường là người cô độc...
Hôm
nay chúng ta kính nhớ thánh tông đồ Toma. Ai cũng biết lời bất hủ của Toma khi
tuyên bố về sự sống lại của Chúa: Nếu tôi không xỏ tay tôi vào lỗ đinh và cạnh
sườn Ngài, tôi không tin... Theo phương pháp khoa học, nhiều người đã lấy câu
nói của Toma làm châm ngôn cho việc đi tìm chân lý. Nghĩa là, nếu tôikhông kiểm
chứng được, nếu tôi không sờ mó được, tôi không chấp nhận điều đó là đúng...
Thái
độ đó chưa hẳn là thái độ thực tiễn trong cuộc sống. Giá trị cao cả nhất trong
cuộc sống: đó là sự tin tưởng, tín nhiệm đối với người khác. Ðau yếu, chúng ta
đi mua thuốc, chúng ta buộc phải tin tưởng ở người bán thuốc. Lạc đường, chúng
ta buộc phải tin tưởng ở lòng thành thật của người chỉ lối...
Thái
độ đó càng đúng hơn trong lĩnh vực Ðức Tin... Chúng ta tin vào sự sống lại của
Chúa Giêsu không phải vì chúng ta đã thấy Người hiện ra, nhưng chỉ vì lời chứng
của các tông đồ, của các tiền nhân... Một thái độ như thế đòi hỏi rất nhiều phấn
đấu của lý trí. Lắm khi, chung ta chỉ là một thiểu số cô độc.
Chúng
ta dễ dàng rơi vào nỗi cô độc của những người đang đi tìm chân lý. Người Kitô
thường phải đi ngược dòng. Ðiều người đời cho là bất bình thường, có lẽ phải là
cái bình thường đối với người Kitô. Ðiều người đời cho là yếu nhược, có khi phải
là sức mạnh của người Kitô. Ðiều người đời cho là điên dại, có khi phải là lẽ khôn
ngoan của người Kitô.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét