Trang

Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2015

05-07-2015 : (phần II) CHÚA NHẬT XIV MÙA THƯỜNG NIÊN năm B

05/07/2015
Chúa Nhật 14 Quanh Năm Năm B
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật XIV Thường Niên - năm B
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B
Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6
NIỀM TIN VÀ ƠN CỨU ĐỘ
Người đã không thể
làm được phép lạ nào tại đó;
Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân
và chữa lành cho họ.
Người lấy làm lạ vì họ không tin

(Mc 6,5-6)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1: Ed 2,2-5
Ngoài Isaiah và Jeremiah, Ezekiel cũng được kể là một vị “ngôn sứ lớn” trong Cựu Ước. Ngài là vị “ngôn sứ lớn” vì sách ngài để lại cho chúng ta có đến 48 chương và bao trùm nhiều chủ đề thần học. Đoạn Kinh Thánh Ed 2,2-5 trong Phụng Vụ Chúa Nhật hôm nay thuộc về khối đơn vị văn chương 1,1-3,27, là đơn vị nói đến “thị kiến ban đầu của Ezekiel và sứ mạng được Thiên Chúa trao”. Ed 1,4-28 đề cập đến thị kiến của Ezekiel về xa giá của Đức Chúa. Còn Ed 2,1-3,15 thuật lại thị kiến về cuốn sách, trong đó Đức Chúa trao cho ngôn sứ Ezekiel sứ mạng đến với dân Israel đang nổi loạn chống lại Đức Chúa để nói cho họ nghe Lời Người.
Tưởng cũng nên nhắc lại, sau thời vua Salomon, nước Israel bị chia thành hai vương quốc: vương quốc Israel ở Phía Bắc và vương quốc Judah ở Phía Nam. Vương quốc Phía Bắc (Israel) bị đế quốc Assyria thôn tính vào năm 722 TCN. Khi đế quốc Assyria suy tàn vào năm 612 TCN và đế quốc Babylon nổi lên thế chỗ, vương quốc Judah nhỏ bé ở Phía Nam trở thành nước chư hầu của đế quốc Babylon. Trong thế chính trị giằng co giữa hai đế quốc Babylon và đế quốc Ai-cập thời ấy, vương quốc Judah đã muốn dựa vào đế quốc Ai-cập để thoát cảnh chư hầu của mình. Tưởng rằng đế quốc Ai-cập đủ sức đương đầu với đế quốc Babylon, nên vương quốc Judah đã nổi lên chống lại đế quốc Babylon. Kết quả không như vương quốc Judah mong đợi: quân Babylon đã tấn công Judah vào năm 605 TCN, kế đó vào những năm 598-597 TCN, và cuối cùng đã xóa sổ vương quốc này vào năm 586 TCN. Quân Babylon bắt hàng ngàn người Do-thái đi lưu đày qua mỗi lần chinh phạt. Trong số những người đi lưu đày lần thứ hai có ngôn sứ Ezekiel.
Trên vùng đất bị lưu đày ở đế quốc Babylon, Ezekiel đã nhận được ơn gọi làm ngôn sứ. Ed 2,2-5 nêu bật ba nhân tố quan trọng trong ơn gọi ngôn sứ của Ezekiel:
1/ Đức Chúa là Đấng trao sứ mạng, sai vị ngôn sứ ra đi
2/ Ezekiel là người tiếp nhận sứ mạng từ Đức Chúa
3/ Dân Israel, cụ thể hơn là những người Do-thái đang chịu cảnh lưu đày, là đối tượng lãnh nhận sứ điệp của Đức Chúa qua vị ngôn sứ
Dân Israel được mô tả qua các hình ảnh tiêu cực:
1/ Dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Đức Chúa (x. c3)
2/ Những đứa con mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá (x. c4)
3/ Nòi phản loạn (x. c5)
Điều này cho thấy việc thi hành sứ mạng của ngôn sứ Ezekiel trong dân Israel sẽ không dễ dàng chút nào, nếu không muốn nói là sẽ gặp nhiều chống đối. Nhưng chính trong môi trường đầy thử thách đó mà ngôn sứ Ezekiel được Thiên Chúa tin tưởng trao phó sứ mạng nói Lời của Người cho họ. Điều quan trọng là Thiên Chúa muốn có một ngôn sứ hiện diện giữa họ để truyền đạt thánh ý của Thiên Chúa cho họ, dù họ có chịu nghe hay không. Sự có mặt của một vị ngôn sứ là bảo chứng tình thương và lòng thành tín của Thiên Chúa đối với dân Israel. Thiên Chúa không bỏ rơi họ, nhưng luôn lo liệu để có người hướng dẫn họ sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào để dân Israel được hạnh phúc và sống trong mối thân tình với Thiên Chúa.  
2. Bài đọc 2: 2Cr 12,7-10
Thư thứ hai của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô căn bản được chia làm 2 phần chính. Chương 1 đến chương 9 phản ánh một số vấn đề trong cộng đoàn Côrintô, nhưng nội dung lại mang cung điệu hi vọng và hòa giải. Trái lại, nội dung của 3 chương cuối thư (chương 10-13) lại chứa đựng giọng văn gay gắt, xen lẫn lo âu và có phần châm biếm.
12,7-10 là đoạn cuối trong phân đoạn 12,1-10. Trong phân đoạn này, tông đồ Phaolô thuật lại các thị kiến và các mặc khải mà ngài đã nhận được từ Chúa. Phaolô thuật lại những kinh nghiệm thần bí này không phải để tự cao tự đại, nhưng để phản bác lại những “tông đồ giả hiệu” [thánh Phao lô châm biếm gọi họ là “những tông đồ siêu đẳng”, x. 11,5], vốn thường hay tự phụ, lấy mình làm tiêu chuẩn để đánh giá người khác, thích khoe khoang về mình.
Trong đoạn kết này, vị tông đồ dân ngoại nhắc đến những điểm chính yếu sau đây: 
1/ Thân xác ngài như đã bị một cái dằm đâm vào để ngài khỏi tự cao tự đại
2/ Ngài đã 3 lần xin Chúa giải thoát ngài khỏi nỗi khổ này
3/ Nhưng Chúa quả quyết: ơn Chúa đủ cho Phaolô, để nơi sự yếu đuối của Phaolô, sức mạnh của Chúa được biểu lộ cách trọn vẹn
4/ Ngài tự hào về những yếu đuối của mình. Chính lúc ngài yếu, là lúc ngài mạnh, vì sức mạnh của Chúa Kitô ở mãi trong ngài.
Chúng ta không được biết đích xác thánh Phaolô hàm ý điều gì khi ngài nói đến “cái dằm” nơi thân xác ngài. Có thể đó là nỗi đau thể lý hay nỗi đau tinh thần. Cũng có thể đó là một sự cám dỗ hay một khuynh hướng xấu mà ngài thường gặp phải. Dù là gì đi nữa, thì “cái dằm” này gây cho ngài không ít khó chịu và đau khổ, nên ngài đã ba lần xin Chúa cất đi nỗi khổ này.
Chúa không lấy ngay đi “cái dằm” đó như Phaolô mong muốn, nhưng Chúa hứa ban đủ ơn để Phaolô có thể sống được với “cái dằm” đó nơi thân xác mình. Khi có “cái dằm” luôn ở bên mình, Phaolô [sẽ] phải luôn ý thức về tình trạng giới hạn của mình; ngài không thể cậy dựa vào sức mạnh của chính mình, nhưng phải luôn biết khiêm tốn cậy dựa vào sức mạnh của Chúa [dunamis tou Christou], Đấng sẽ làm cho Phaolô luôn mạnh sức, ngay cả khi ông cảm thấy đuối sức nhất.
3. Bài Tin Mừng: Mc 6,1-6
Từ Capharnaum, Chúa Giêsu tiến về Nazareth theo hướng Tây Nam cách Capharnaum khoảng 20 dặm. Mặc dù bản văn không đề cập đến tên gọi Nazareth, nhưng từ Hi-lạp Patris (quê quán) hàm ý địa danh này, là nơi gia đình Ngài đã sinh sống và là nơi Chúa Giêsu đã lớn lên. Vào ngày Sabbath, Chúa Giêsu đã vào hội đường Do-thái và giảng dạy tại đây.
Nhiều người đồng hương với Chúa Giêsu rất đỗi ngạc nhiên trước sự khôn ngoan được thể hiện trong lời giảng dạy của Ngài và trước quyền năng được thể hiện qua những việc lạ thường (dynameis) Ngài thực hiện. Nhưng họ không hiểu được bởi đâu Chúa Giêsu lại có thể làm được những điều như vậy.
Trước đó, tại Capharnaum như Mc 1,1-28 cho biết, Đức Giêsu cũng đã vào hội đường mà giảng dạy. Tại đó, dân chúng đã thực sự sửng sốt về lời giảng dạy của Người, “vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (c22). Dân chúng lại càng ngạc nhiên hơn nữa, khi Chúa Giêsu đã dùng quyền mà chữa lành một người bị thần ô uế ám. Họ đã bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả thần ô uế và chúng phải tuân lệnh” (c27).
Những người đồng hương tại Nazareth cũng sửng sốt, nhưng thay vì để tâm tìm hiểu cho kỹ, họ lại vội nhìn về gia thế và xuất thân “bình thường” của Người: một người thợ mộc, con bà Maria và là anh em của những người đang sống bên cạnh họ (x. Mc 6,3). Họ vấp ngã vì Người (x. Mc 6,4). Họ vấp ngã vì không thể giải thích được vì sao một người có xuất thân “bình thường” như họ, lại có thể làm được những điều lạ thường và có thể giảng dạy khôn ngoan như vậy. Như thế, mấu chốt của vấn đề là ở chỗ những người đồng hương chỉ nhìn thấy một “con người” bình thường nơi Đức Giêsu, chứ họ không thể hay chưa thể nhận ra một “Đấng với quyền năng Thiên Chúa” nơi Đức Giêsu. Ngày hôm nay, trái lại, người Công giáo chúng ta tin nhận rằng Đức Giêsu chính là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể; và vì thế, chúng ta hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại có thể làm được những điều kỳ diệu và giảng dạy khôn ngoan như vậy.
Đứng trước thái độ kém tin của những người đồng hương Nazareth, Chúa Giêsu đã “không thể làm được phép lạ nào tại đó” [ouk edunato ekei poiēsai oudemian dunamin] (Mc 6,5). Người “không thể [ouk edunato] làm được” không có nghĩa là Người không đủ khả năng hay không có đủ thẩm quyền để làm phép lạ, nhưng đúng hơn, điều này hàm ý Người quyết định không làm phép lạ tại đó cho họ. Thực ra, Chúa Giêsu cũng đã làm phép lạ tại đó, khi “Người đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành cho họ” (Mc 6,5b). Nhưng Người đã quyết định không làm một phép lạ nào “lớn lao” hơn vì thái độ cứng tin của những người đồng hương.
Như Tin Mừng Marcô trình bày, Chúa Giêsu thường chỉ làm phép lạ khi người ta có niềm tin, và phép lạ của Người được thực hiện để củng cố niềm tin nơi con người và thúc đẩy họ thêm tin tưởng vào Thiên Chúa (x. Mc 1,40-45; 2,1-12; 5,21-43; 9,14-29; 10,46-52). Chúa Giêsu không làm phép lạ như một thứ ảo thuật để làm ai đó vui thích hay để thỏa trí tò mò của họ. Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, tiểu vương Herode muốn Người làm một hai phép lạ “cho vui”, nhưng Người đã không làm (x. Lc 23,8-12). Chúa Giêsu cũng không làm phép lạ trước đòi hỏi hay áp lực của ai đó (x. Mc 8,11-13; Lc 23,35-38.39).
II. GỢI Ý SUY TƯ PHẢN TỈNH
1. Thiên Chúa luôn tỏ lòng xót thương Dân Người. Dù họ luôn tỏ thái độ nổi loạn và chống đối Người, Người vẫn sai ngôn sứ Ezekiel đến với họ để họ được nghe Lời Người mà cải hóa tự tâm và trở về cùng Người. Có khi nào tôi thấy nơi mình có thái độ nổi loạn như dân Do-thái xưa kia, nhưng đồng thời cũng nghiệm thấy lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa đối với mình?
2. Thánh Phaolô cảm thấy nơi thân xác mình như có một “cái dằm” đâm vào để ngài biết khiêm tốn cậy dựa vào sức mạnh (dumanis) của Chúa Kitô, chứ không tự cao tự đại cậy dựa vào sức mình. Tôi nghiệm thấy đâu là “cái dằm” mà Chúa Kitô cũng đang cho phép xuất hiện nơi tôi để tôi luôn biết trông chờ vào quyền năng cứu độ và giải thoát của Người?
3. Chúa Giêsu “lấy làm lạ” vì thái độ không tin của những người đồng hương. Làm thế nào để Chúa Giêsu “ngạc nhiên” vì đức tin mạnh mẽ của tôi, thay vì “lấy làm lạ” vì thái độ vô tín của tôi? Làm thế nào để quyền năng hay sức mạnh (dunamis) của Chúa Kitô Phục Sinh được thể hiện trọn vẹn nơi tôi? Làm thế nào Chúa Kitô “có thể” làm phép lạ nơi cuộc đời tôi để mưu ích cho nhiều người, cho Giáo Hội và xã hội hôm nay?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót đã sai Con Một Người đến thế gian, để những ai tin vào danh Đức Giêsu Kitô thì được cứu độ. Chúng ta cùng cảm tạ tình thương Chúa, và tha thiết dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh có sứ mạng loan báo tin mừng cứu độ của Thiên Chúa cho con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn và mọi thành phần Hội Thánh luôn trung thành tuyên xưng một đức tin duy nhất, và diễn tả niềm tin ấy bằng một đời sống chứng tá.
2. Thế giới hôm nay còn nhiều người chối bỏ và xúc phạm Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu xin Chúa soi lòng mở trí cho họ vượt qua những thành kiến nghi ngại, và ban cho họ quả tim mới cùng một tinh thần mới để họ nhận biết và đặt trọn niềm tin tưởng vào Người.
3. Thiếu vắng niềm tin là một cản trở đối với ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi kitô hữu biết siêng năng học hỏi đào sâu giáo lý đức tin, thường xuyên đón nhận các Bí tích, hầu luôn đứng vững trước những thử thách trong cuộc sống.
4. Chúa đã phán cùng Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, luôn ý thức sự bất toàn và giới hạn của bản thân, hầu tích cực cộng tác với ơn Chúa trong việc sống đạo và thực thi công bình bác ái.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, Chúa luôn yêu thương và muốn mọi người được cứu độ. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban tặng Thánh Thần giúp chúng con biết nhiệt thành lắng nghe và thực thi Lời của Đức Giêsu Kitô, Con Chúa. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.


SCĐ CHÚA NHỰT XIV THƯỜNG NIÊN.B
CHỦ ĐỀ :
SỨ MẠNG LÀM NGÔN SỨ
"Ngôn sứ bị rẻ rúng ở chính quê hương mình"
(Mc 6,4)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (Êd 2,2-5) : Ngôn sứ Êdêkien lãnh nhận sứ mạng nói Lời Chúa cho một dân cứng lòng.
- Tin Mừng (Mc 6,1-6) : Ngôn sứ Giêsu không được đón nhận ở quê hương Nadarét.
- Bài đọc II (2 Cr 12,7-10) : Ngôn sứ Phaolô tâm sự : bản thân mình rất yếu đuối, nhưng ơn Chúa làm cho ông nên mạnh mẽ.
I. DẪN VÀO THÁNH  LỄ
Anh chị em thân mến
Có lẽ anh chị em ít khi ý thức rằng qua bí tích rửa tội và thêm sức, chúng ta được chia xẻ với Đức Giêsu sứ mạng làm ngôn sứ.
Hôm nay chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để hiểu sứ mạng ấy là thế nào, và hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta chu toàn sứ mạng ấy.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta chỉ lo sống đạo cho mình mà không ý thức sứ mạng ngôn sứ của chúng ta.
- Chúng ta không dám nói về Chúa cho người khác.
- Chúng ta không can đảm bênh vực sự thật và công bình.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Êd 2,2-5)
Ngôn sứ Êdêkien kể về ơn gọi của mình :
- Ông đã được chính Thiên Chúa kêu gọi
- Khi gọi ông làm ngôn sứ, Thiên Chúa ban "thần linh" cho ông.
- Sứ mạng của ông là chuyển sứ điệp của Chúa đến với con cái Israel.
- Nhưng đó là một sứ mạng khó khăn, bởi vì họ là một dân cứng lòng.

2. Đáp ca (Tv 122)
Có thể coi Tv 122 này là những tâm tình của một người lãnh sứ mạng ngôn sứ :
- Ngôn sứ luôn nhìn lên Chúa là Đấng đã kêu gọi mình
- Trong những lúc khó khăn, ngôn sứ cảm thấy ê chề chán nản
- Nhưng ngôn sứ luôn trông cậy vào Chúa, xin Ngài cứu giúp.

3. Tin Mừng (Mc 6,1-6)
Đức Giêsu trở về quê hương mình là Nadarét. Đến ngày Sabát, Ngài vào hội đường và giảng Thánh Kinh.
Ban đầu những người đồng hương rất ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan của Ngài và vì những phép lạ Ngài làm ở những nơi khác.
Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc tầm thường của Ngài (chỉ là một người thợ mộc, bà con với những dân làng bình thường), họ không tin Ngài nữa.
Chính vì thái độ không tin ấy, nên ở Nadarét Đức Giêsu không làm nhiều phép lạ.

4. Bài đọc II (2 Cr 12,7-10)
Thánh Phaolô chân thành chia xẻ tâm sự của mình :
- Bản thân ông rất yếu đuối. Ông cảm thấy như có một cái dằm luôn đâm vào da thịt mình. Các chuyên viên Thánh Kinh đang tìm hiểu "cái dằm" này là gì. Dù chúng ta chưa xác định cụ thể, nhưng có thể hiểu đó là ám chỉ đến những sự yếu đuối của Phaolô.
- Chính vì ý thức yếu đuối như thế nên nhiều lần ông ngã lòng, xin Chúa cất khỏi cái dằm ấy.
- Nhưng Chúa đã khích lệ ông : "Ơn Ta đủ cho con"
- Cuối cùng ông tin tưởng và tiếp tục sứ mạng, "vì khi tôi yếu đuối chính là lúc tôi mạnh mẽ".
IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Tiếng nói của những ngôn sứ
Tiếng nói của những ngôn sứ rất lạ thường, vì ngôn sứ không nói tiếng nói của loài người mà là tiếng nói của Thiên Chúa. Loài người thường "lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau", còn Thiên Chúa thì nói thẳng sự thật để dạy dỗ hoặc sửa lỗi. Mà "sự thật mất lòng" cho nên tiếng nói của Thiên Chúa nhiều khi chói tai.
Ngôn sứ nói tiếng nói của Thiên Chúa, nên nhiều khi chẳng những không được người ta nghe mà còn bị người ta ghét. Ngôn sứ Êdêkien thay mặt Chúa kêu gọi dân do thái hãy sám hối tội lỗi chứ đừng ỷ lại vào sự kiện họ có Đền thờ tại Giêrusalem và cũng đừng nương dựa vào thế lực ngoại bang. Những lời nói này đã khiến dân do thái kết ông tội phạm thánh và phản quốc. Và họ đã nhiều lần bách hại ông, ông chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Gioan Tẩy giả thị bị Hêrôđê chém đầu vì đã dám lên tiếng vạch tội loạn luân của vua. Rất nhiều ngôn sứ khác cũng không thoát khỏi lao đao lận đận do đã thay mặt Chúa nói lên những "sự thật mất lòng".
Ngày nay có biết bao sự thật ê chề trong xã hội cũng như trong Giáo Hội. Thiên Chúa cần những ngôn sứ can đảm nói lên những điều đó. Nhưng buồn thay, đa số kitô hữu, thậm chí những cán bộ Tin Mừng và những tu sĩ, giáo sĩ đã chọn thái độ giả điếc làm ngơ và ngậm miệng. Chỉ vì muốn được yên thân. Như thế là không thi hành chức năng ngôn sứ của mình.
Ta có thể nói thẳng bằng những lời bộc trực, hoặc khéo léo hơn bằng lời lẽ từ tốn tế nhị, nhưng không bao giờ nên ngậm miệng không nói.

2. Tiêu chuẩn Chúa chọn người
Khi chọn ai, Chúa theo những tiêu chuẩn rất lạ : không cần học thức cao, không cần tài ba lỗi lạc, không cần khả năng khéo làm việc... Thánh Phaolô đã liệt kê 5 tiêu chuẩn Chúa theo :
. những cái yếu đuối,
. những cái ngu dại,
. những cái hèn mọn,
. những cái bị khinh thường
. và những cái hư không. (Sunday School Times).

3. "Ơn Ta đủ cho con" (2Cr 12,9)
  Thiên Chúa luôn ban cho ta đầy đủ ơn Ngài  :
. Khi gánh đời ta nặng hơn, Ngài ban thêm ơn
. Khi công việc ta cực nhọc hơn, Ngài ban thêm sức
. Khi Ngài gởi khổ sầu, Ngài cũng gia tăng lòng thương xót
. Khi Ngài gởi đến thử thách, Ngài cũng gởi đến bình an
. Lúc ta cảm thấy sức mình hầu như cạn kiệt thì đấy là lúc ơn Chúa thực sự tràn đầy. (Góp nhặt).

4. Phép lạ
Bài Tin Mừng hôm nay đề cập về Phép lạ : Ở quê hương Nadarét, Đức Giêsu chỉ làm được một ít phép lạ bởi vì dân Nadarét không tin. Nhân dịp này, chúng ta hãy tìm hiểu xem : phép lạ là gì ? và ngày nay phép lạ còn xảy ra nữa không ?
Điều chúng ta cần lưu ý trước tiên là người ta dùng chữ phép lạ theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, phép lạ là một điều gì có vẻ khác thường, xảy ra lạ hơn bình thường và không giống như người ta dự kiến. Thí dụ như người Do thái ngày nay đã vận dụng nhiều cố gắng lao động, kết hợp với khoa học kỹ thuật mà trồng được những vườn cam ngon ngọt trên miền đất trước đây là sa mạc. Người ta đã coi đó là một phép lạ (theo nghĩa rộng). Còn theo nghĩa hẹp, nghĩa chính xác, phép lạ là điều không những kỳ diệu khác thường, mà còn xảy ra ngoài những quy luật tự nhiên nữa. Thí dụ : trong khoa vật lý học, chúng ta biết có quy luật là một vật có trọng lượng thì bị rơi xuống do sức hút của trái đất. Nhưng nếu có một người nào đó té từ một nhà lầu cao nhưng không rơi xuống đất mà cứ lơ lửng giữa chừng, thì khi đó sự kiện không xảy ra theo quy luật tự nhiên nữa, nên được coi là phép lạ.
Sau khi đã hiểu phép lạ là gì theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bây giờ chúng ta tìm hiểu xem có thể xảy ra phép lạ hay không. Phép lạ hiểu theo nghĩa rộng thì ai cũng nhìn nhận rằng có, kể cả những người không có đạo, kể cả những kẻ vô thần. Người ta nói nhiều đến phép lạ cải tạo ruộng đất, làm theo nghĩa hẹp thì những người vô tín ngưỡng lại không nhìn nhận. Bởi vì muốn có phép lạ theo nghĩa hẹp này thì cần có sự can thiệp của quyền năng thần thánh. Kẻ vô tín ngưỡng không công nhận thần thánh nên cũng không công nhận phép lạ.
Còn đối với chúng ta, những người Công giáo thì sao ? Dĩ nhiên vì tin vào quyền năng Thiên Chúa nên chúng ta nhìn nhận có phép lạ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý thêm điều này là : Thiên Chúa không làm phép lạ một cách bừa bãi đâu. Vì như đã nói trên : phép lạ (theo nghĩa hẹp) là điều xảy ra ngoài quy luật tự nhiên. Quy luật tự nhiên ấy ai đã thiết lập ra ? Thưa là chính Thiên Chúa. Vậy nếu Thiên Chúa đã thiết lập những quy luật tự nhiên thì đương nhiên Thiên Chúa cũng muốn cho vạn vật vận hành theo đúng quy luật tự nhiên mà Ngài đã thiết lập. Chỉ thỉnh thoảng khi nào có một lý do thật quan trọng thì Chúa mới cho một sự kiện xảy ra ngoài những quy luật tự nhiên đó (và khi đó là phép lạ).
Vậy lý do quan trọng khiến Chúa làm phép lạ là gì ? Thường là Đức Tin. Phép lạ xảy ra để đáp ứng một lòng tin mạnh mẻ vững vàng - hoặc để mời gọi những người chứng kiến càng tin mạnh mẻ vững vàng hơn.
Trong các sách Tin Mừng chúng ta đã đọc thấy nhiều lần trước khi làm phép lạ chẳng hạn trước khi chữa cho một người mà từ thuở mới sinh Đức Giêsu hỏi "Con có tin không ?" Người đó tuyên xưng đức tin thì Chúa mới làm phép lạ. Ngược lại, đối với vua Hêrôđê không tin mà chỉ muốn có phép lạ để xem cho thoả thích hiếu kỳ thì Đức Giêsu không làm một phép lạ nào hết. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng thế : những người đồng hương với Đức Giêsu ở Nagiarét một mặt khinh thường Đức Giêsu chỉ là con của một bác thợ một nghèo nàn tầm thường, nhưng mặt khác khi nghe biết Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ ở những nơi khác thì cũng muốn Đức Giêsu làm phép lạ ở quê hương Nagiarét cho họ hưởng nhờ thì Đức Giêsu cũng không chịu làm phép lạ chỉ để thoả mãn tính vụ lợi của họ.
Có những người rất nhẹ dạ dễ tin : chuyện gì hơi lạ một chút cũng coi là phép lạ.
Có những người rất hay cầu xin phép lạ : phép lạ được trúng số, phép lạ được khỏi bệnh.
Không phải chúng ta không nên tin cũng như không nên cầu xin nữa. Nhưng sau những phân tích nãy giờ, chúng ta hãy lưu ý : điều quan trọng nhất trong các phép lạ không phải là khía cạnh lạ thường, khía cạnh lợi lộc của chúng, mà chính là Đức Tin : phép lạ xảy ra là vì Đức Tin : hoặc để đáp ứng đức tin mạnh mẻ của con người, hoặc để mời gọi con người qua đó mà càng tin vững hơn vào Thiên Chúa.
- Ở Lộ Đức, ở Fatima, ở La Salette v.v.... khi mà những biến cố lạ thường xảy ra làm nhiều người xôn xao thì Giáo Hội vẫn im lặng. Chỉ sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng một thời gian dài rồi thì Giáo Hội  mới tuyên bố đấy là phép lạ. Giáo Hội cẩn thận như vậy là để khỏi rơi vào mê tín dị đoan. Thiết tưởng mỗi người chúng ta cũng phải cẩn thận như thế trước những điều xảy ra có vẻ khác thường, bởi vì Đức Tin của chúng ta không phải là nhẹ dạ, mê tín, mà là một đức tin có nền tảng vững chắc, trong sáng.
- Rồi trong cuộc sống đạo của chúng ta, điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý hơn hết là cố gắng rèn luyện cho đức tin của mình càng ngày càng vững mạnh trong sáng hơn. Nói cụ thể : tôi giữ đạo, tôi làm theo những điều Chúa dạy là vì tôi thực sự tin vào Chúa... chứ không phải vì tôi mong Chúa sẽ làm phép lạ cho tôi giàu có, cho tôi trúng số, cho tôi khỏi bệnh một cách lạ lùng... Những điều đó nếu thấy cần thì chúng ta cứ cầu xin, và Chúa nếu thấy rằng tốt thì sẽ ban cho chúng ta. Nhưng chúng ta không nên chỉ giữ đạo vì những điều đó. Chúng ta giữ đạo vì chúng ta tin vào Chúa. Tin vào Chúa chẳng những khi cuộc sống thoải mái dễ chịu, nhưng dù cuộc đời có gặp lúc gian nan, túng thiếu., bệnh tật, buồn khổ... chúng ta vẫn một niềm tin son sắt vào Chúa. Đó mới là một đức tin vững mạnh.

5. Có tin mới thấy
Tại một vùng của nước Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Đó là vào sáng sớm Chúa Nhật Phục sinh khi hồi chuông đầu tiên của nhà thờ vang lên, tất cả mọi người đều trổi dậy chạy ra giếng làng để rửa mắt với giòng nước mát lạnh.
Nhiều bạn trẻ không hiểu vì sao lại chạy ra giếng rửa mắt, trong khi ngày nay gia đình nào cũng có các vòi nước trong nhà.
Lúc ấy các vị bô lão mới giải thích : Đó là hình thức cầu nguyện bằng hành động, qua đó dân làng cầu xin Thiên Chúa ban cho họ đôi mắt đức tin mới, để họ thấy Đức Giêsu Phục sinh đang hiện diện sống động giữa họ.
*
Với con mắt định kiến, thiển cận và hẹp hòi, những người đồng hương với Đức Giêsu đã không nhận ra khuôn mặt thật của Người. Họ không tin Người là một tiên tri, lại càng không thể tin Người là Đấng Cứu Thế, và chắc chắn họ chẳng ngờ mình là người đồng hương với Con Thiên Chúa.
Chính lòng ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến "các tiên tri không được kính trọng ở quê hương mình" (Lc.4,24). Mc. Kenzie nói : "Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tỵ nhìn bằng kính hiển vi".
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy quá khứ rất đỗi bình thường của Người.
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy hiện tại của Người không một chút hào quang.
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy nơi Người một bác thợ mộc rất mực âm thầm, khiêm tốn.
Chính vì không tin nên họ đã không thấy. Thấy đây là thấy toàn vẹn khuôn mặt của Thiên Chúa. Thấy đây là thấy Người bằng cái nhìn luôn đổi mới. Thấy đây là thấy với con mắt đức tin. Tác giả thư Do thái viết : "Đức tin là bảo đảm cho những gì ta hy vọng, là bằng chứng cho những gì ta không thấy" (Dt.11,1). James Woodbridge viết : "Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Người, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Người".
Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Người có thể làm được mọi sự. Nhưng Người phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Người đã trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin. Và quả thật, "Người đã không thể làm được phép lạ nào" tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, con người có toàn quyền từ chối quà tặng của Người.
Nếu Phép lạ là quà tặng của Thiên Chúa, cần được đón nhận với Niềm tin ; thì chính Niềm tin là ân huệ của Thiên Chúa chỉ có thể nhận được với lời cầu nguyện. Cần phải cầu nguyện để có Niềm tin. Nhà bác học kiêm triết gia Pascal đã nói : "Để có niềm tin con người phải quì gối cầu xin".
*
Lạy Chúa, còn bao nhiêu việc lạ lùng Chúa muốn làm cho đời chúng con, xin Chúa ban thêm Niềm tin cho chúng con, để nhờ đó Chúa được tự do thực hiện những kỳ công của Người. Xin giúp chúng con cũng biết gieo rắc Niềm tin Chúa trong lòng mọi người. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

6. Mạnh và yếu
Câu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu được lời của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay : "Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10)
Hai người nghèo đi từ thành phố này đến thành phố khác để xin ăn. Một người rất vạm vỡ khoẻ mạnh và không bao giờ đau yếu, còn người kia thì ốm tong teo và hầu như lúc nào cũng bị bệnh. Anh chàng khoẻ mạnh thường cười chê anh chàng ốm yếu khiến chàng này rất buồn, anh cầu xin Chúa trừng phạt anh kia.
Khi hai người đến thủ đô thì vừa gặp lúc trong triều đình có chuyện buồn, là hai vị quan thân cận nhất của nhà vua vừa mới chết. Một người là cận vệ của nhà vua, người khoẻ mạnh nhất nước ; người kia là thái ý của nhà vua, người chữa bệnh giỏi nhất nước. Nhà vua sai người đi khắp nước để tìm hai người thay thế, và cuối cùng người ta cũng tìm được.
Nhưng trước khi bổ nhiệm hai người ấy vào chức vụ, nhà vua bảo họ hãy đưa ra bằng chứng về tài năng của mình. Người ứng cử vào chức cận vệ thưa : "Muôn tâu thánh thượng, hãy mang đến cho hạ thần người nào khoẻ mạnh và to lớn nhất. Thần sẽ giết chết hắn ngay lập tức chỉ bằng một cú đấm". Người ứng cử vào chức thái y thưa : "Xin hãy mang đến cho hạ thần người nào ốm yếu bệnh tật nhất. Thần sẽ chữa người đó hết mọi thứ bệnh chỉ trong vòng một tuần lễ."
Người ta lại đi tìm đối tượng cho hai ứng cử viên ấy thi thố tài năng. Và thật là bất ngờ, chính hai người ăn mày trên được chọn. Chỉ bằng một cú đấm, người ứng cử vào chức cận vệ đã giết chết người ăn mày to khoẻ. Và chỉ trong một tuần lễ, người ứng cử vào chức thái y đã chữa người ăn mày ốm yếu hết mọi thứ bệnh. Thế là sức mạnh của người ăn mày to khoẻ lại khiến anh phải chết, còn sự ốm yếu của người ăn mày bệnh tật lại giúp anh khoẻ mạnh !
Thánh Phaolô đã nói rất đúng : "Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh". Người ta thường không té ngã vì yếu, nhưng vì tưởng mình mạnh. Thánh Phaolô biết mình yếu, nhưng đồng thời Ngài cũng biết bù đắp sự yếu đuối của mình bằng sức mạnh vô địch của Chúa, "vì sức mạnh của Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối (của con người)". (Viết theo Flor McCarthy)

7. Dụ ngôn sống động về chung hiệp đại kết
 Năm 1940 một thanh niên Tin Lành người Thụy Sĩ dừng xe đạp trước một ngôi làng hẻo lánh trong cảnh hoang tàn. Một bà cụ khẩn khoản nói với người thanh niên ấy : "Xin ở lại đây với chúng tôi vì anh thấy rõ chúng tôi sống trong cảnh cô lập." Người thanh niên ấy nay được cả thế giới biết đến với danh xưng thân thương là Thầy Roger. Đối với thầy Roger, lời mời của bà cụ nói lên ý Chúa dành cho thầy. Khi ấy nước Pháp đang trong tình trạng chiến tranh, đất nước bị chia đôi, ranh giới giữa khu chiếm đóng và khu tự do xuyên qua làng Taizé. Thầy Roger đã kiếm cho mình một nơi ở và bắt đầu một đời sống cầu nguyện và suy niệm. Nhưng hoàn cảnh đặt thầy trước những con người cụ thể bị Đức Quốc Xã truy lùng để tiêu diệt. Thầy đã đón tiếp và che giấu những người Do Thái đáng thương ấy. Một mình thầy đứng ra săn sóc an ủi những người nam và nữ chạy trốn quân đội Hít-le. Nhưng vì quân Đức Quốc Xã truy lùng đối tượng gắt gao nên thầy buộc phải trở về quê hương Thụy Sĩ. Năm 1944, thầy Roger trở lại Taizé, lần nầy với 3 đồng chí quyết tâm gầy dựng nên cộng đoàn tu sĩ đại kết rộng mở. Mục tiêu mà cộng đoàn này nhắm thể hiện là trở nên như "bài dụ ngôn sống động về một đời sống chung hiệp". Cộng đoàn chủ tâm dâng lời cầu nguyện để góp phần làm cho các Giáo Hội Kitô được hòa giải. Hai chủ đích ở tâm điểm của sứ mạng theo thầy Roger là : Phải dám liều thân dấn mình vào việc giúp đỡ những người nghèo nhất và hoà giải với đức tin công giáo. Ngay từ ban đầu thầy Roger đã nối kết với Roma bằng những mối dây của niềm tin tưởng. Thầy đã kết thân với 3 vị Giáo Hoàng là Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI và Đức Gioan Phaolô II. Thầy nói : "Đức Gioan XXIII đã là cha linh hướng đích thực cho chúng tôi. Chính ngài đã ủng hộ để cộng đoàn Taizé mà ngài gọi là mùa xuân, được chào đời."
 Ngày nay cộng đoàn Taizé có cả trăm thành viên Công Giáo cũng như Tin Lành thuộc nhiều truyền thống khác nhau, đến từ hơn 25 quốc gia trên thế giới. Họ không nhận quà tặng nhưng tự mình lao động để góp phần nuôi sống cộng đoàn và chia sẻ với người khác. Họ cũng không nhận cho mình tài sản kế thừa nhưng chỉ nhận làm quà tặng cho người nghèo mà thôi. Kể từ những năm 50, cộng đoàn Taizé đã phái thành viên của mình đến sống nơi những môi trường nghèo trên thế giới. Riêng về nữ tu, có hội dòng thánh Anrê từng được thiết lập trong Giáo Hội Công Giáo đã 7 thế kỷ nay. Kể từ 1966, hội dòng này đã phái người đến ở một làng kế cận Taizé để tham gia việc đón tiếp khách từ thập phương.
Ảnh hưởng của Taizé về đại kết nhất là với người trẻ ở Âu Châu, thật là rõ nét. Để nâng đỡ người trẻ, cộng đoàn này đã khơi động một cuộc hành trình về tin tưởng lẫn nhau trên toàn cầu. Taizé không tổ chức người trẻ thành phong trào qui về Taizé, nhưng khuyến khích họ mang lại bình an, hoà giải, niềm tin tưởng lẫn nhau ngay nơi những thành phố, những đại học, những sở làm việc, những giáo xứ. Và như vậy, người trẻ được khuyến khích sống chung hiệp với mọi thế hệ. Về cuối mỗi năm dương lịch, Taizé có tổ chức một cuộc tập họp người trẻ tương đối lớn trong 5 ngày. Cuộc họp giới trẻ đại kết vào cuối năm 1994, thu hút hơn một trăm ngàn người trẻ từ nhiều nước tới họp tại Paris của nước Pháp.
 Mỗi dịp tập họp như vậy, thầy Roger gửi đến tay người trẻ một bức thư được dịch ra trên 50 thứ tiếng. Nội dung thư đó bao gồm Lời Chúa như chất liệu để suy niệm suốt năm cho tới cuộc họp cuối năm tới. Thư đó vị sáng lập cộng đoàn Taizé thường viết từ một nơi nổi tiếng về mức sống nghèo của người dân như Calcutta, Chili, Haiti, Êtiôpi, Phi Luật Tân, Phi Châu….
 Bởi đâu thầy Roger thực hiện được những việc có ý nghĩa thiêng liêng như vậy ? Có lần thầy cắt nghĩa cho thấy thầy đã nhận sứ mạng góp phần hoà giải giữa các Kitô hữu từ nơi bà ngoại thầy. Ngoại của thầy đã từng trải qua hai cuộc chiến (1870 và 1914-1918) và đã từng dặn dò cháu Roger Schultz khi còn tấm bé rằng : "Cháu đừng trải qua những điều bà đã phải trải qua ! Đừng chấp nhận nhìn cách bàng quan những điều bà đã mắt thấy tai nghe ! Hãy góp phần chuẩn bị để Âu Châu được bình an nhờ biết sống hoà giải giữa các Kitô hữu." Tuy là tín hữu Tin Lành, ngoại đã chọn đến nhà thờ Công Giáo để kín múc lấy sức mạnh hoà giải từ bí tích Thánh Thể. Thực ra ngoại không chỉ nói cũng không chỉ cầu nguyện, nhưng đã nêu gương sống động nhờ biết dấn thân tiếp đón những người già, phụ nữ và trẻ em, phải chạy giặc dưới làn bom đạn. Ngoại đã kiên trì làm việc thương người đó hầu như tới phút cuối cùng của đời ngoại.
 Biến cố quyết định cho việc thầy Roger hiến dâng đời mình cho công cuộc hoà giải xảy ra khi thầy lên 17. Khi ấy thầy mắc bệnh lao phổi và nghiệm thấy cái chết không xa. Thầy đối diện với ý nghĩa cuộc đời và tự hỏi do đâu xảy ra đau khổ, hằn thù khiến các dân tộc sát hại nhau. Hỏi rằng có con đường nào giúp người này hiểu người kia để cùng nhau xây dựng hoà bình chăng ? Điều trở nên minh nhiên nơi nội tâm thầy Roger là cần phải chữa trị trái tim con người. Thầy nghe tiếng nói thúc giục thầy rằng : "Nếu quả thật có con đường hoà giải đó thì tôi hãy bắt đầu dấn thân bước theo con đường đó đi." Kể từ ngày thầy Roger nghe thấy lời thúc giục đó, thầy quyết tâm tận hiến cả cuộc đời để đạt cho được mục đích lý tưởng nầy để có được sự hoà giải và đại kết trong cộng đồng nhân loại. Nay thầy đã 84 tuổi và quyết định ấy càng thêm khởi sắc. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã về thăm quê hương, nhưng những người đồng hương ở Nazaret đã không tin Người mà còn muốn hại Người. Chúng ta là Kitô hữu mang tên của Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện :

1. Xin cho mọi người Kitô hữu trong Hội thánh còn yếu đức tin hoặc còn cứng lòng tin / được soi sáng và thông hiểu / để lớn lên trong đức tin và có thể truyền giáo cho mọi người.
2. Xin cho mọi người trên thế giới còn đang chống đối hoặc dửng dưng với Thiên Chúa / đừng bắt buộc hoặc lôi kéo những người khác phải theo họ / nhưng biết tôn trọng tự do tín ngưỡng của mọi người.
3. Xin cho những người đang có những thành kiến hoặc thất vọng về Thiên Chúa / được gặp nhiều chứng nhân về sự thật và về tình yêu Thiên Chúa / để họ tìm ra ánh sáng và hy vọng.
4. Xin cho các Kitô hữu trong họ đạo chúng ta đừng tự hào mình đã biết tất cả về Chúa / không muốn tìm hiểu học hỏi gì thêm / để chỉ khư khư giữ lấy những thành kiến sai lầm về Chúa.

Chủ tế  : Lạy Chúa Kitô, chúng con là Kitô hữu mang tên của Chúa, xin cho chúng con càng ngày càng hiểu biết Chúa đầy đủ hơn, để chúng con có thể giới thiệu Chúa cho mọi người thân cận, Chúa là Đấng hằng sống hiển trị muôn đời.

VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Đức Giêsu Con Thiên Chúa đã chia xẻ cho chúng ta sứ mạng ngôn sứ của Ngài, một sứ mạng vừa cao cả vừa khó khăn. Chúng ta hãy hợp ý với Ngài dâng lên Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và cũng là Cha chúng ta lời Kinh Lạy Cha, xin Cha giúp chúng ta can đảm thi hành sứ mạng của mình.
- Sau kinh Lạy Cha : "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con can đảm đấu tranh chống lại sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…"
VII. GIẢI TÁN
Thánh lễ đã xong, anh chị em hãy ra về thi hành chức năng ngôn sứ của mình. Chúc anh em được bình an.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật XIV Thường Niên (B)
Chúa Nhật, 5 Tháng 7, 2015
Tại Nagiarét, nơi không có niềm tin,
Chúa Giêsu không làm phép lạ nào được!
Sứ vụ của mỗi người:  tái tạo lại cộng đoàn                                                                     
Mc 6:1-6


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa cũng hướng dẫn chúng con, để giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

 2.  Bài Đọc 

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Trong Chúa Nhật thứ mười bốn Thường Niên tuần này, Giáo Hội đặt trước chúng ta sự chối bỏ Đức Giêsu về phần dân chúng làng Nagiarét.  Phải bỏ qua làng Nagiarét là việc đau lòng cho Chúa Giêsu.  Đó là quê nhà của Người, giờ đây nó không còn như thế nữa.  Có điều gì đó đã thay đổi.  Những người ban đầu chấp nhận Chúa, bây giờ đã từ khước Người.  Như chúng ta sẽ thấy sau này, trải nghiệm qua việc từ khước này đã đưa Chúa Giêsu tiến tới và thay đổi cách hoạt động của Người.
Có điều gì đã thay đổi trong mối quan hệ giữa bạn và gia đình hoặc với bạn hữu kể từ khi bạn bắt đầu tham gia vào cộng đoàn không?  Việc tham gia trong cộng đoàn có đã giúp bạn chấp nhận và tin tưởng hơn vào người khác, đặc biệt là vào những người nghèo khó và chất phác không?
b)  Phần phân đoạn văn bản để giúp chúng ta trong bài đọc:
Mc 6:1:  Chúa Giêsu trở về Nagiarét, quê nhà của Người
Mc 6:2-3:  Phản ứng của dân làng Nagiarét về Chúa Giêsu  
Mc 6:4:  Cách thức Chúa Giêsu chấp nhận lời chỉ trích
Mc 6:5-6:  Vì dân Nagiarét cứng lòng tin cản trở việc Chúa làm phép lạ
  
c)  Phúc Âm:
1 Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. 2 Đến ngày Sabbát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? 3 Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?"  Và họ vấp phạm vì Người. 4 Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình". 5 Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, 6 và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy. 
3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý:

Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.

a)  Điểm nào trong đoạn Tin Mừng bạn thích nhất và đã làm bạn cảm động nhất? Tại sao?
b)  Người làng Nagiarét tỏ thái độ gì với Chúa Giêsu?  Tại sao họ lại không tin tưởng nơi Người?            
c)  Do người dân cứng lòng tin, Chúa Giêsu không thể làm được nhiều phép lạ tại Nagiarét.  Tại sao đức tin lại quan trọng như vậy?  Có thật là Chúa Giêsu không thể làm phép lạ khi mà người ta không có lòng tin không?
d)  Những yếu tố mô tả sứ vụ của các môn đệ là gì?
e)  Đâu là trọng tâm sứ vụ của các tông đồ mà ngày nay có tầm quan trọng lớn nhất đối với chúng ta?  Tại sao?

5.  Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề

a)  Bối cảnh ngày xưa và ngày nay:

i)  Trong suốt quyển Tin Mừng của mình, Máccô cho thấy rằng sự hiện diện và hoạt động của Chúa Giêsu tạo nên nguồn tăng triển hân hoan đối với một số người và là lý do của sự khước từ đối với một số người khác.  Cuộc xung đột tăng dần, mầu nhiệm của Thiên Chúa xuất hiện bao phủ con người của Đức Giêsu.  Với chương 6 của câu chuyện, chúng ta thấy mình đứng trước một khúc quanh.  Dân làng Nagiarét đã tự ngăn cách mình khỏi Chúa Giêsu (Mc 6:1-6).  Và Chúa Giêsu, trước việc xa lánh của dân chúng trong làng xóm của mình, đã mở lòng đến người dân của cộng đoàn khác.  Người hướng về dân chúng miền Galilêa và sai các môn đệ đi thi hành sứ vụ, giảng dạy cho họ mối quan hệ với tha nhân phải như thế nào, để nó sẽ là mối quan hệ cộng đoàn thực sự, mà không cách ly như đã xảy ra giữa những người dân ở Nagiarét (Mc 6:7-13).

ii)  Khi Máccô viết sách Tin Mừng của ông, các cộng đoàn Kitô hữu đã sống trong tình trạng khó khăn, mà không có hy vọng.  Nói theo cách loài người thì họ không có tương lai.  Lời mô tả cuộc xung đột mà Chúa Giêsu sống trong làng Nagiarét và trong việc sai đi của các môn đệ, việc mở rộng sứ vụ, khiến nó trở nên sáng tạo. Đối với những ai tin vào Chúa Giêsu thì không có tình huống gì mà không có hy vọng.


b)  Lời bình luận về văn bản:

Mc 6:1-3:  Phản ứng của dân làng Nagiarét về Chúa Giêsu
Trở về quê nhà chúng ta không hẳn luôn là điều tốt đẹp.  Sau một thời gian dài xa cách, Chúa Giêsu cũng đã trở về, và như thường lệ, vào ngày Thứ Bảy, Người đến dự cuộc họp mặt của cộng đoàn.  Chúa Giêsu không phải là người điều hợp, nhưng chỉ là người phát biểu.  Đây là dấu chỉ cho thấy người ta có thể tham dự và bày tỏ ý kiến của mình.  Nhưng dân chúng đã không thích những lời phát biểu của Chúa Giêsu, họ thấy chướng tai.  Chúa Giêsu, Đấng mà họ đã biết từ lúc Người còn tấm bé, thế mà sao bây giờ lại khác hẳn như thế?  Dân chúng thành Cápharnaum đã chấp nhận lời giảng dạy của Chúa Giêsu (Mc 1:22), thế mà dân chúng làng Nagiarét vẫn còn cảm thấy khó chịu và không chấp nhận.  Đâu là lý do cho việc khước từ này?  “Ông này chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” Họ đã không chấp nhận mầu nhiệm Thiên Chúa hiện diện trong một con người tầm thường như thế, một người giống như bọn họ!  Để có thể nói về Thiên Chúa, người ấy phải khác hơn họ!
Câu nói “các anh em của Chúa Giêsu” gây ra nhiều cuộc luận chiến giữa những người Công Giáo và Tin Lành.  Căn cứ vào điều này và trong các văn bản khác, những người Tin Lành nói rằng Chúa Giêsu có thêm anh chị em nữa và Đức Maria đã sinh thêm con!  Chúng ta, người Công Giáo, nói rằng Đức Maria đã không có thêm một người con nào khác.  Chúng ta có thể nghĩ gì về điều này?  Thứ nhất, hai ý kiến, của người Công Giáo và người Tin Lành, tranh cãi từ Kinh Thánh và từ truyền thống cổ xưa của riêng từng Giáo Hội.  Vì lý do này, không tiện để thảo luận những câu hỏi ấy bằng cách dùng các lý luận, kết quả của ý kiến riêng mỗi người. Đó là vấn đề của niềm tin sâu xa về một điều gì đó liên quan tới đức tin và tình cảm của người ta.
Lập luận chỉ được dựa trên ý kiến riêng sẽ không thể mang lại một niềm xác tín của đức tin mà cội rễ được tìm thấy trong trái tim!  Nó chỉ làm bực mình và xáo trộn! Nhưng ngay cả khi tôi không đồng ý với tư tưởng của người khác, tôi phải luôn tôn trọng nó.  Điều thứ hai, thay vì thảo luận xoay quanh về văn bản, tất cả chúng ta, tín hữu Công Giáo và Tin Lành, phải đoàn kết nhiều hơn nữa để chiến đấu bảo vệ sự sống, được tạo dựng bởi Thiên Chúa, một đời sống mà bị biến đổi bởi sự nghèo đói, bất công, thiếu đức tin.  Chúng ta nên nhớ Lời của Chúa Giêsu:  “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).  “Để tất cả được nên một, như vậy thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17:21).  “Đừng ngăn cản người ta.  Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9:39,40).     
  
Mc 6:4-6b:  Phản ứng của Chúa Giêsu trước thái độ của dân làng Nagiarét
Chúa Giêsu biết rất rõ rằng “bụt nhà không thiêng”.  Và người nói:  “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, trong gia đình họ hàng mình!”  Thực ra, nơi mà đức tin không được thừa nhận, người ta chẳng thể làm được gì.  Thành kiến đã ngăn cản họ.  Ngay cả nếu Chúa Giêsu muốn, Người cũng chẳng thể làm được gì và vẫn còn ngạc nhiên trước sự cứng lòng tin của họ.

c)  Phụ chú về Tin Mừng của Máccô:

Phần Phụng Vụ năm nay trình bày cho chúng ta Tin Mừng của Máccô trong một cách đặc biệt.  Bởi vì điều này, thật đáng để cung cấp thêm một số kiến thức sẽ giúp chúng ta khám phá cặn kẽ hơn về sứ điệp mà tác giả Máccô muốn truyền đạt cho chúng ta.

·         Sự thiết kế thánh nhan Thiên Chúa trên bức tường của sách Tin Mừng theo Máccô

Chúa Giêsu chết vào khoảng năm 33.  Khi Máccô viết sách Tin Mừng của mình vào khoảng năm 70, các cộng đoàn Kitô hữu đã sống và bị phân tán trong đế chế La Mã.  Một số người cho rằng Máccô viết sách cho cộng đoàn ở Ý.  Những người khác nói rằng ông viết sách ấy cho những người ở Syria.  Rất khó để biết được một cách chắc chắn.  Tuy nhiên, có một điều chắc chắn.  Những vấn đề không phải là thiếu:  Đế quốc La Mã bách hại các Kitô hữu, những cán bộ tuyên truyền đã len lỏi vào trong các cộng đoàn, người Do Thái ở Palestine đã nổi dậy chống lại cuộc xâm lăng của người La Mã, đã có những căng thẳng nội bộ bởi vì khuynh hướng đa dạng, học thuyết và cách nhà lãnh đạo…
Máccô viết quyển Phúc Âm của mình để giúp các cộng đoàn tìm được một đáp ứng cho các vấn nạn và những mối quan tâm của họ.  Ông thu thập các cảnh huống và dụ ngôn của Chúa Giêsu và sắp xếp chúng lại với nhau như những viên gạch trên bức tường.  Các viên gạch cổ xưa và đã được biết đến.  Chúng xuất phát từ cộng đoàn, nơi chúng được truyền khẩu trong các buổi hội họp và cử hành thánh lễ.  Ý tưởng thiết kế tạo bởi các viên gạch thì mới.  Đó là sáng kiến của Máccô, từ kinh nghiệm của ông về Chúa Giêsu.  Ông muốn rằng cộng đoàn, khi đọc về những gì Chúa Giêsu đã làm và đã nói, sẽ tìm thấy câu trả lời cho các vấn nạn này:  “Chúa Giêsu là ai đối với chúng ta và chúng ta là ai đối với Chúa Giêsu?  Làm thế nào mà chúng ta có thể là môn đệ của Người?  Chúng ta có thể loan báo Tin Mừng Thiên Chúa như thế nào, về những gì mà Người đã mặc khải ra sao?  Bằng cách nào mà chúng ta có thể đi trên con đường Người đã đi qua?

·         Ba chìa khóa để hiểu được sự phân đoạn của Tin Mừng Máccô

Chìa khóa thứ nhất:  Tin Mừng của Máccô được viết ra để được đọc và lắng nghe chung trong cộng đoàn.  Khi một quyển sách được đọc một mình, người ta luôn có thể lật trở lại, ghép nối điều này với điều kia, nhưng trong khi cùng với cộng đoàn và một người đang đọc Tin Mừng trước sự hiện diện của mọi người, người ta không thể la lên:  “Khoan đã!  Hãy đọc lại lần nữa!  Tôi chưa hiểu rõ lắm!”  Như chúng ta sẽ thấy, một quyển sách được viết ra để được lắng nghe trong các dịp cử hành chung với cộng đoàn có một phương cách để phân chia các chủ đề thì khác hơn là quyển sách được viết để cho người ta đọc một mình. 

Chìa khóa thứ hai:  Tin Mừng của Máccô là một câu chuyện kể.  Một câu chuyện kể thì giống như một dòng sông.  Đi ngang qua một dòng sông trong một chiếc ghe, người ta không nhận thức được các phân rẽ trong nước.  Dòng sông không có những phân rẽ!  Nó được tạo bởi một dòng nước chảy mà thôi, từ thượng nguồn cho tới hạ nguồn.  Trong dòng sông, những phân rẽ, được tạo ra bắt đầu từ bờ sông.  Ví dụ người ta nói rằng:  “Cảnh thật tuyệt đẹp là từ căn nhà đến chỗ uốn quanh nơi có cây dừa và sau đó thì rẽ làm ba khúc quanh khác nhau”.  Thế mà trong dòng sông không có sự phân rẽ nào có thể trông thấy được.  Lời thuật chuyện của Máccô chảy như một dòng sông.  Những rẽ nhánh của nó, những ai lắng nghe, tìm thấy chúng ở bên lề, để có thể nói rằng, ở trong những nơi mà Chúa Giêsu đã đi qua, về địa lý; trong những con người mà Chúa gặp gỡ, dọc đường mà Người đi.  Những dấu chỉ bên lề giúp cho người nghe không bị lạc giữa những lời và hoạt động của Chúa Giêsu và những gì nói về Người.  Khuôn khổ địa lý giúp người đọc đồng hành với Chúa Giêsu, từng bước một, từ miền Galilêa đến thành Giêrusalem, từ biển hồ lên đến Núi Sọ.

Chìa khóa thứ ba:  Tin Mừng của Máccô được soạn để đọc trong một lần thôi. Đây là những gì mà người Do Thái đã làm với những sách tóm lược Cựu Ước.  Lấy ví dụ, trong đêm Phục Sinh, họ đọc tất cả các sách Nhã Ca.  Một số học giả khẳng định rằng sách Tin Mừng của Máccô được viết để được đọc toàn bộ, trong đêm canh thức vọng Phục Sinh.  Hoặc, để cho người nghe khỏi bị mệt mỏi, bài đọc phải được chia ra có một vài chỗ tạm dừng,  Ngoài ra, khi câu chuyện dài, như trường hợp của Tin Mừng Máccô, bài đọc phải được ngắt quãng khá thường xuyên.  Trong những thời gian nhất định, cần phải có lúc tạm dừng, nếu không người nghe sẽ bị loãng.  Những lúc tạm dừng này đã được dự báo bởi chính tác giả của câu chuyện.  Và những lúc tạm dừng đã được đánh dấu bởi những đoạn tóm tắt, giữa hai bài đọc dài.  Một cách thực tế, điều tương tự được áp dụng trong chương trình truyền hình.  Mỗi ngày, vào lúc bắt đầu của chương trình tin tức thì một số hình ảnh của các đoạn đã được trình chiếu trước được lặp lại.  Những đoạn tóm tắt này giống như những đoạn chuyển tiếp (bản lề) thu thập những gì đã đọc và mở ra những gì sẽ tiếp theo sau đó.  Chúng giúp cho một đoạn được dừng lại và bắt đầu một đoạn mới, không bị gián đoạn hoặc làm xáo trộn trình tự của câu chuyện. Chúng giúp cho người nghe tự đặt mình trong dòng sông của câu chuyện đang chảy.  Trong sách Tin mừng của Máccô có những đoạn tóm lược đa dạng của loại này hoặc những đoạn tạm dừng, cho phép chúng ta khám phá và lần theo chủ đề Tin Mừng của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta và Máccô viết cho chúng ta biết.  Tổng quát có một câu hỏi về bảy phân đoạn hay bảy bài đọc dài, được xen kẽ với những bản tóm tắt ngắn hoặc bài chuyển tiếp, đó có thể làm nơi tạm dừng.

·         Phân đoạn sách Tin Mừng theo Máccô

Dưới đây chúng ta đưa ra một sự phân chia khả dĩ cho sách Tin Mừng Máccô. Những người khác phân chia nó theo một cách khác.  Tầm quan trọng của việc phân chia là nó mở ra một trong nhiều cánh cửa sổ bên trong văn bản, và nó giúp chúng ta khám phá ra đường hướng mà Chúa Giêsu đã mở ra cho chúng ta hướng về Chúa Cha và các anh chị em.

Mc 1:1-13                                      Khởi đầu sách Tin Mừng
                                                                        Chuẩn bị sự công bố
                                                                                    Bài đọc thứ nhất
Mc 1:14-15                                    tạm nghỉ, bài tóm tắt, đoạn chuyển tiếp
Mc 1:16 – 3:16                              Tin Mừng tăng triển
                                                                        Cuộc xung đột xuất hiện
                                                                                    Bài đọc thứ hai
Mc 3:7-12                                      tạm nghỉ, bài tóm tắt, đoạn chuyển tiếp
Mc 3:13 – 6:6                                Cuộc xung đột tăng triển
                                                                        Mầu nhiệm xuất hiện
                                                                                    Bài đọc thứ ba
Mc 6:7-13                                      tạm nghỉ, bài tóm tắt, đoạn chuyển tiếp
Mc 6:14 – 8:21                              Mầu nhiệm tăng triển
                                                                        Không hiểu được
                                                                                    Bài đọc thứ tư
Mc 8:22-26                                    tạm nghỉ, bài tóm tắt, đoạn chuyển tiếp
Mc 8:27 – 10:45                            Họ tiếp tục không hiểu
                                                                        Ánh sáng tối tăm của Thập Giá xuất hiện
                                                                                    Bài đọc thứ năm
Mc 10:46-52                                  tạm nghỉ, bài tóm tắt, đoạn chuyển tiếp
Mc 11:1 – 13:32                            Ánh sáng tối tăm của Thập Giá tăng triển
                                                                        Sự òa vỡ và cái chết xuất hiện
                                                                                    Bài đọc thứ sáu
Mc 13:33-37                                  tạm nghỉ, bài tóm tắt, đoạn chuyển tiếp
Mc 14:1 – 15:39                            Sự òa vỡ và cái chết tăng triển
                                                                        Chiến thắng sự chết xuất hiện
                                                                                    Bài đọc thứ bảy
Mc 15:40-41                                  tạm nghỉ, bài tóm tắt, đoạn chuyển tiếp
Mc 15:42 – 16:20                          Chiến thắng sự chết tăng triển
                                                                                    Bài đọc thứ tám
Mc 16:9-20

Trong việc phân đoạn này, các tiêu đề thật là quan trọng. Chúng cho thấy đường lối của Chúa Thánh Thần, về sự linh ứng, mà Tin Mừng đi theo từ đầu cho đến cuối. Khi một nhà nghệ sĩ có một nguồn cảm hứng, người ấy cố gắng thể hiện nó trong một tác phẩm nghệ thuật.  Một bài thơ hay một bức tranh được tác tạo gói trọn trong nguồn cảm hứng này.  Sự linh ứng giống như một dòng điện chạy một cách vô hình qua dây điện và thắp sáng bóng đèn trong nhà chúng ta.  Cũng cùng một cách tương tự nguồn cảm hứng chạy một cách vô hình qua những chữ của bài thơ hoặc hình thể của bức tranh để tỏ lộ hoặc thắp sáng trong chúng ta một ánh sáng tương tự hoặc gần giống như vậy đã được chiếu giải trong tâm hồn người nghệ sĩ. Đây là lý do tại sao các công trình nghệ thuật thu hút và chao đảo người ta đến như vậy.  Điều tương tự cũng xảy ra khi chúng ta đọc và suy niệm về Tin Mừng của Máccô.  Cùng một Chúa Thánh Thần hay Nguồn Linh Hứng đã thúc đẩy Máccô viết lên văn bản, tiếp tục hiện diện trong những chữ của Tin Mừng của ông.  Qua việc đọc chăm chú và cầu nguyện, Chúa Thánh Thần tác động và bắt đầu hành động trong chúng ta.  Và như vậy, dần dần, chúng ta khám phá ra thánh nhan của Thiên Chúa là Đấng đã mặc khải chính Người trong Đức Giêsu và Máccô chuyển đạt đến chúng ta trong sách của ông.

6.  Cầu nguyện với Thánh Vịnh 145                                                                       
Hãy luôn cảm tạ về tất cả mọi việc!
Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con,
con nguyện tán dương Chúa
và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời.
Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa
và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời.

CHÚA thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng.
Người cao cả khôn dò khôn thấu.
Đời nọ tới đời kia, thiên hạ đề cao sự nghiệp Chúa
và truyền tụng những chiến công của Ngài,
tuyên bố Ngài oai phong vinh hiển,
kể lại rằng: Ngài thực hiện những kỳ công,
bảo cho nhau: sức mạnh Ngài đáng sợ,
loan truyền rằng: Ngài cao cả lắm thay!
Nhắc nhở luôn: Ngài nhân ái vô cùng,
hoan hô Ngài công chính.
CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương.
CHÚA nhân ái đối với mọi người,
tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.
Lạy CHÚA, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ,
kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài,
Nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển,
xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng,
để nhân loại được tường những chiến công của Chúa,
và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.
Triều đại Ngài: thiên niên vĩnh cửu,
vương quyền Ngài vạn đại trường tồn.
Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán,
đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.

Ai quỵ ngã, CHÚA đều nâng dậy,
kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên.
Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa,
và chính Ngài đúng bữa cho ăn.
Khi Ngài rộng mở tay ban,
là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê.

CHÚA công minh trong mọi đường lối Chúa,
đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.
CHÚA gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa,
mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.
Kẻ kính sợ Người, Người cho toại nguyện,
nghe tiếng họ kêu than, và ban ơn giải cứu,
CHÚA gìn giữ mọi kẻ mến yêu Người,
nhưng lại diệt trừ hết bọn ác nhân.

Môi miệng tôi, hãy dâng lời ca ngợi CHÚA,
chúng sinh hết thảy, nào chúc tụng Thánh Danh
đến muôn thuở muôn đời!

7.  Lời Nguyện Kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét