11/07/2015
Thứ Bảy sau Chúa Nhật
14 Quanh Năm
Thánh Bênêđictô, viện
phụ. Lễ nhớ
* Chào đời quãng năm 480 tại Noóc-xi-a (Um-ri-a). Sau một thời gian theo học ở Rôma, Bênêđictô rút lui vào một hang ở Xu-bi-a-cô và bắt đầu sống đời ẩn sĩ, chiêu mộ các đồ đệ rồi chuyển đến Montê Cátxinô. Tại đây, người lập một đan viện thời danh, chính người soạn tu luật cho đan viện. Sau này tu luật mang tên người được phổ biến khắp châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương Tây”. Người qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547. Từ cuối thế kỷ 8, người đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7. Ngày 24 tháng 10 năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 ra tông thư “sứ giả hòa bình” (Pacis nuntius), đặt người làm bổn mạng toàn châu Âu.
Bài
Ðọc I: (Năm I) St 49, 29-33; 50, 15-24
"Thiên
Chúa sẽ thăm viếng anh em, và dẫn anh em ra khỏi đất này".
Trích
sách Sáng Thế.
Trong
những ngày ấy, Giacóp trối lại cho các con rằng: "Cha sắp về sum họp cùng
dân cha. Các con hãy chôn xác cha gần mồ cha ông, trong hang đôi ngoài cánh đồng
của Êphron, người Hêthê, ngang thung lũng Mambrê trong đất Canaan, mà Abraham
đã mua của Êphron, người Hêthê, để làm nghĩa trang. Nơi đó đã mai táng Abraham
và bạn ông là Sara, nơi đó cũng đã mai táng Isaac và bạn ông là bà Rébecca, nơi
đó cũng đã mai táng bà Lia". Trối cho các con xong, Giacóp rút chân lên
giường và trút hơi thở, trở về sum họp với dân người.
Khi
Giacóp đã qua đời, anh em của Giuse lo sợ và nói với nhau rằng: "Có khi
Giuse còn nhớ sự sỉ nhục đã phải chịu mà trả đũa lại điều ác mà chúng ta đã làm
chăng?" Họ liền sai người đến nói với Giuse rằng: "Trước khi chết,
cha ngài đã trối lại cho chúng tôi là hãy lấy lời cha mà nói với người rằng:
"Cha xin con hãy quên tội ác và lỗi lầm của các anh con đã làm cho
con". Chúng tôi cũng xin ngài tha thứ tội ác của các tôi tớ Thiên Chúa của
cha ngài". Nghe vậy, Giuse bật khóc lên. Các anh em của Giuse đến sấp mình
xuống đất mà nói rằng: "Chúng tôi là tôi tớ của ngài". Giuse đáp rằng:
"Anh em đừng sợ! Nào chúng ta có thể chống lại thánh ý Chúa sao? Các anh
đã lo nghĩ sự dữ cho tôi, nhưng Thiên Chúa đã đổi nó ra sự lành để tôi được
vinh hiển như anh em thấy hôm nay và để cứu sống nhiều dân tộc. Anh em đừng sợ,
chính tôi sẽ nuôi dưỡng anh em và con cái anh em". Ông đã an ủi và lấy lời
êm dịu hiền lành mà nói với anh em.
Giuse
và gia quyến cha của ông đã cư ngụ trong nước Ai-cập, và ông sống được một trăm
mười tuổi. Ông đã được thấy con cái của Ephraim đến ba đời. Con cái của Makir,
là con của Manassê cũng đã sinh ra trên đầu gối Giuse. Các việc ấy đã qua đi,
Giuse đã nói cùng anh em: "Sau khi tôi chết, Thiên Chúa sẽ thăm viếng anh
em, và dẫn anh em ra khỏi đất này và đưa đến đất mà Người đã thề hứa ban cho
Abraham, Isaac và Giacóp".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 104, 1-2. 3-4. 6-7
Ðáp: Các bạn khiêm
cung, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh (Tv 68, 33).
Xướng:
1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa
chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của
Chúa. - Ðáp.
2)
Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui.
Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn
luôn. - Ðáp.
3)
Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được
Người kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao
trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 118, 27
Alleluia,
alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con
suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 10, 24-33
"Các
con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ
không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là
khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của
Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị
thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các
con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao
giảng trên mái nhà.
"Các
con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con
hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán
hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha
các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi.
Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy
ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha
Thầy là Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ
chối nó trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Ðừng Sợ Người Ðời
Mahatma
Gandhi, nhà tranh đấu bất bạo động cho quyền con người và nền độc lập của Ấn Ðộ,
đã có lần nhắn nhủ các môn sinh như sau: "Sự thật và tình thương sẽ chiến
thắng. Hãy suy nghĩ điều đó và hành động theo sự thật và tình thương. Ðừng bao
giờ dùng bạo lực đáp trả bạo lực, vì làm như thế là bắt chước lối sống man rợ của
những người dùng bạo lực. Khi dùng bạo lực, những người đó cho thấy nỗi thất vọng
và trạng thái thú hóa của họ. Chúng ta hãy sống như con người. Những người dùng
bạo lực có thể đánh đập và giết chết thân xác chúng ta, nhưng không thể giết được
tinh thần và quyền lợi của chúng ta, họ không thể giết được sự thật. Sự thật và
tình thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ kỹ và hãy sống theo sự thật và tình
thương, bởi vì nếu sống theo bạo lực và hận thù, thì thế giới sẽ trở thành mù
lòa".
Ðã
từng vào tù ra khám, đã từng bị đánh đập hành hung, con người đã nói những lời
trên đây chưa một lần tỏ ra sợ sệt. Ngày 30/01/1948, ông ngã gục vì nhát gươm của
một người quá khích. Cái chết của ông là một cụ thể hóa của chính chủ trương bất
bạo động mà ông đã đề ra.
Sẵn
sàng chết để làm chứng cho sự thật và tình thương với niềm tin vào sự bất tử của
linh hồn con người, Mahatma Gandhi dù chưa phải là Kitô hữu, nhưng đã sống theo
lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay, đó là sống hiên ngang, không sợ hãi trước
các cường lực sự dữ, không sợ hãi những người chỉ giết được thân xác, nhưng
không làm gì được linh hồn; sống trung thực với phẩm giá của con cái Chúa,
không để mình rơi vào tình trạng hóa thú và nô lệ cho bạo lực: "Các con đừng
sợ những kẻ giết được thân xác, mà không giết được linh hồn".
Lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào thực tế cuộc sống và tỏ ra thái độ phù hợp
với người có lòng tin. Từ chuyện phải vất vả kiếm sống đến chuyện tương lai của
con cái và những khó khăn trong việc sống đạo, chúng ta được mời gọi để múc lấy
ánh sáng của Tin Mừng và chiếu dọi vào những thực tế ấy. Là người Kitô hữu, tôi
phải sống những thực tại ấy thế nào? Lý tưởng của tôi là tìm mọi cách để có nhiều
của cải vật chất hay là tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính trước?
"Môn
đệ không hơn Thầy, tôi tớ không hơn chủ". Chúa Giêsu đã đi con đường của
nghèo khó, thua thiệt, bách hại, thập giá, tha thứ và tha thứ cho đến cùng.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ đề ra cho chúng ta một lý tưởng, một con đường để đi
theo, Ngài chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu
chúng ta kết hiệp với Ngài, chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi
gian nan thử thách. Chúng ta cũng tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc
trong thân xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Bảy Tuần 14 TN1,
Năm lẻ
Bài
đọc:
Gen 49:29-33, 50:15-24; Mt 10:24-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự thật sẽ toàn thắng.
Thế
gian là bãi chiến trường giữa sự thật và sự gian tà, giữa sự thiện và sự ác, giữa
Thiên Chúa và ma quỉ, và giữa con cái ánh sáng và con cái của bóng tối. Thế
gian dùng những thủ đọan và áp lực để gây đau khổ cho con cái của ánh sáng, làm
cho họ sợ hãi và không dám sống cho sự thật. Thiên Chúa đòi con cái của Ngài đừng
sợ hãi, hãy chấp nhận đau khổ và làm chứng cho sự thật. Ngài sẽ cho họ sức mạnh
để thắng vượt gian khổ và chiến thắng khải hoàn.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung trong cuộc giao tranh này và những lời dạy quí hóa của
Chúa Giêsu cho các môn đệ. Trong Bài Đọc I, vì tổ-phụ Jacob đã trung thành sống
theo những gì Chúa răn dạy, nên Ngài đã bảo vệ ông cho đến lúc nhắm mắt lìa đời.
Noi gương cha, Giuse cũng làm những gì Chúa và cha căn dặn, ông sẵn sàng tha thứ
cho các anh em và cấp dưỡng cho gia đình họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các
môn đệ phải có 3 thái độ tối quan trọng để có thể rao giảng Tin Mừng và làm chứng
cho Ngài: sẵn sàng chấp nhận đau khổ, không sợ hãi, và tuyệt đối tin tưởng vào
sự quan phòng của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
1.1/
Thiên Chúa luôn bảo vệ các tôi trung của Ngài: Sau khi đã đoàn tụ và sống bên
con được ít lâu, ông Jacob biết sắp đến giờ ông phải từ biệt các con để ra đi.
Ông cho gọi các con tới và truyền cho họ rằng: "Cha sắp được về sum họp với
tổ tiên. Hãy chôn cất cha bên cạnh cha ông của cha, trong cái hang ở cánh đồng
của ông Ephron, người Hittite, trong cái hang ở cánh đồng Machpelah, đối diện với
Mamre, tại đất Canaan ... Ở đó đã chôn ông Abraham và vợ ông là bà Sarah; ông
Isaac và vợ ông là bà Rebekah; ở đó cha đã chôn bà Leah." Khi truyền lệnh
cho các con trai ông xong, thì ông Jacob rút chân lên giường; ông tắt thở và được
về sum họp với tổ tiên.
Thiên
Chúa đã hứa với Jacob trước khi xuống Ai-cập: Ngài sẽ bảo vệ ông và sẽ cho
Giuse vuốt mắt ông trước khi lìa đời. Điều này đã hiện thực. Trong thị kiến cái
thang, Thiên Chúa hứa với ông: "Này Ta ở với ngươi; ngươi đi bất cứ nơi
nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi, và Ta sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ
ngươi cho đến khi Ta hoàn thành điều Ta đã phán với ngươi" (Gen 32:15). Ước
nguyện của Jacob trước khi chết cũng thành hiện thực: Các con ông đem xác ông về
chôn trong phần mộ của tổ tiên tại Hebron, vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
1.2/
Các anh vẫn không tin Giuse có thể tha thứ cho họ:
(1)
Phản ứng của các anh: Các anh ông Giuse thấy cha mình đã chết thì bảo nhau:
"Không khéo Giuse còn hận chúng ta và trả lại cho chúng ta tất cả điều ác
chúng ta đã gây ra cho nó!" Vì thế, họ sai người đến nói với ông:
"Cha của chú trước khi chết đã truyền rằng: Các con hãy nói thế này với
Giuse: "Thôi! Xin con tha tội tha lỗi cho các anh con, vì họ đã gây ra điều
ác cho con." Bây giờ xin chú tha tội cho các kẻ làm tôi Thiên Chúa của cha
chú!" Sau đó, các anh ông đích thân đến cúi rạp xuống trước mặt ông và
nói: "Này chúng tôi là nô lệ của chú."
(2)
Phản ứng của Giuse: Ông Giuse muốn các anh nhận ra sự quan phòng của Thiên
Chúa, nên ông nói với họ: "Đừng sợ! Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa! Các
anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt,
để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo. Bây giờ các anh
đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng cho các anh và con cái các anh." Ông an ủi và
chuyện trò thân mật với họ.
Thiên
Chúa có mắt, Ngài không bỏ các tôi tớ trung thành tin tưởng vào Ngài. Ông Giuse
nói với các anh em: "Tôi sắp chết, nhưng thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng
thăm anh em và đưa anh em từ đất này lên đất mà Người đã thề hứa với ông
Abraham, ông Isaac và ông Jacob."
2/
Phúc Âm:
Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ.
2.1/
Ba thái độ phải có của người môn đệ Đức Kitô: Để trở thành môn đệ trung thành
của Đức Kitô, một người phải có ba thái độ sau:
(1)
Sẵn sàng chấp nhận gian khổ: "Nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh
em." Người môn đệ Đức Kitô chắc chắn sẽ bị người đời bắt bớ, vì họ đã từng
bắt bớ và giết Ngài. Chúa Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải nhớ rõ điều này:
"Trò không hơn thầy, đầy tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, đầy tớ được
như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Beel-zebul, huống
chi là người nhà."
Trong
khi rao giảng hay làm việc tông đồ, người môn đệ chắc chắn sẽ gặp những người
phê bình, chống đối, đe dọa và bắt bớ. Lý do đơn giản là người môn đệ nói những
điều người đời không muốn nghe, và sự thật thì hay mất lòng. Một vài ví dụ dẫn
chứng: người môn đệ nói phải tuyệt đối trung thành trong ơn gọi gia đình đang
khi khán giả ngồi dưới đã từng ly dị; người môn đệ dạy phải hy sinh để báo hiếu
cha mẹ đang khi khán giả gởi cha mẹ vào các viện dưỡng lão; người môn đệ dạy phải
sinh con cái cho nhiều đang khi khán giả không muốn sinh thêm con.
(2)
Không được sợ hãi người đời: Nếu người môn đệ sợ làm người đời mất lòng, sợ bị
phê bình hay bị chống đối, người môn đệ sẽ không dám nói sự thật mà ông được
kêu gọi để rao giảng; ngược lại, ông sẽ tìm cách nói những gì mà khán giả
thích, cho dẫu những điều này không phải là những gì Chúa dạy. Đó là lý do Chúa
Giêsu răn dạy các môn đệ: "Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có
gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết.
Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh
em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng."
Khi
làm chứng cho sự thật, các môn đệ sẽ phải trả giá đắt, có thể phải hy sinh cả
tính mạng như trường hợp của các thánh tử đạo; nhưng các ngài sẵn sàng đổ máu để
làm chứng cho sự thật, vì các ngài tin Thiên Chúa sẽ trả lại thân xác vinh
quang, và cho linh hồn các ngài được sống đời đời.
(3)
Phải tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa: Để dạy các môn đệ điều này,
Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: Thứ nhất, chim sẻ: Ngài nói: "Hai con chim sẻ
chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài
ý của Cha anh em. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ."
Thứ hai, tóc trên đầu: Ngài nói: "Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng
đếm cả rồi." Tóc trên đầu con người quá nhiều và rụng xuống hàng ngày. Nếu
một sợi tóc vô nghĩa rơi xuống hàng ngày như vậy còn được Thiên Chúa quan tâm tới,
huống hồ là số phận của những người môn đệ Chúa.
Trong
sự quan phòng của Thiên Chúa, đau khổ là phương tiện Thiên Chúa dùng để thử
thách niềm tin yêu của con người dành cho Ngài. Nếu con người sợ hãi và trốn
tránh đau khổ, con người không chứng minh niềm tin yêu của họ dành cho Ngài.
2.2/
Phần thưởng cho những môn đệ sống trung thành và làm chứng cho sự thật: Chúa Giêsu nói rõ
ràng với các môn đệ: "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì
Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời."
Ngược lại, "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy
trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời." Người nào không dám tuyên xưng
danh Thầy mình, không dám nói những sự thật Thầy dạy, người ấy không phải là môn
đệ Đức Kitô. Trong Ngày Chung Thẩm, Đức Kitô cũng không nhận những người như thế
trước mặt Cha của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Đau khổ là khí cụ Thiên Chúa dùng để thử thách con người, chúng ta đừng sợ hãi
cũng đừng trốn tránh đau khổ đến độ không dám tuyên xưng danh Chúa và làm chứng
cho sư thật.
-
Chúng ta hãy tuyệt đối tin tưởng nơi tình yêu của Thiên Chúa quan phòng, để
luôn can đảm sống như những người con Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, và làm ích
cho mọi người.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
11/07/15 THỨ BẢY TUẦN
14 TN
Th. Bê-nê-đi-tô, viện phụ
Mt 10,24-33
Th. Bê-nê-đi-tô, viện phụ
Mt 10,24-33
Suy niệm: Nỗi
sợ hãi làm con người không dám nhìn nhận sự thật, đối diện với sự thật và nói
sự thật. Chẳng hạn, sợ bị kỳ thị, nhiều Ki-tô hữu không dám nhìn nhận căn cước
của mình; sợ bị mất chức quyền, nhiều Ki-tô hữu không dám công khai sống đạo;
sợ phải sống như lời Chúa dạy, nhiều Ki-tô hữu không dám đọc và suy niệm Lời
Chúa, không dám dấn thân, không dám chịu thiệt thòi. Chúa Giê-su bảo chúng ta
“đừng sợ”, bởi không gì có thể che giấu sự thật, mà sự thật lớn lao nhất là sự
hiện diện của Chúa. Theo thánh Gio-an, sở dĩ người ta sợ hãi không dám nhìn
nhận sự thật, bởi người ta thiếu tình yêu Chúa. “Tình yêu thì không biết đến sợ hãi; trái lại,
tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1Ga 4,18). Một khi tin yêu Chúa, Ki-tô hữu sẽ
mạnh dạn xác nhận căn cước Ki-tô hữu của mình, sẽ can đảm sống lời Chúa dạy và
sẽ dùng đời sống của mình minh chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Mời Bạn: Sự
sợ hãi hiện nay của bạn là gì? Sự sợ hãi đó có làm bạn xa sự thật không? có làm
bạn xa cách Thiên Chúa không? Nếu có như thế, Chúa mời bạn hãy can đảm sống
tình thân với Chúa, chính tình thân này sẽ giúp bạn loại trừ mọi sợ hãi.
Sống Lời Chúa: Trình
bày với Chúa nỗi sợ hãi hiện nay của bạn và xin Ngài ban ơn giúp bạn vượt qua
nỗi sợ ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, điều con phải sợ hãi nhất là sợ làm buồn lòng Chúa. Xin
cho con luôn tìm làm đẹp lòng Chúa, vượt thắng mọi thiệt thòi, thiệt thân, để
chỉ tìm làm vui lòng Chúa mà thôi.
Anh em đừng sợ
Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ vu
vơ, để chúng ta được tự do, biết lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ.
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm qua,
Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng lo (c.19).
Hôm nay ba lần Ngài nhắc
chúng ta đừng sợ kẻ bách hại (cc. 26. 28.31).
Cuộc sống con người bị trói
buộc bởi những nỗi sợ,
có lý và vô lý, đến từ bên
ngoài hay từ bên trong trái tim.
Càng văn minh con người càng
có nhiều nỗi sợ mới.
Nỗi sợ làm người ta mất tự
do, mất bình an, mất vui…
“Đừng sợ” là điệp khúc trấn
an được Đức Giêsu nhắc lại nhiều lần.
Đừng sợ, Simon, khi Thầy gọi
anh đi theo (Lc 5, 10).
Đừng sợ khi Thầy đi trên mặt
nước mà đến (Mt 14, 27).
Đừng sợ sau khi thấy Thầy
được biến hình (Mt 17, 7).
Đừng sợ, Giairô, dù con gái
ông đã chết (Mc 5, 36).
Đừng sợ, hỡi các phụ nữ, khi
gặp Thầy phục sinh (Mt 28, 10).
Nỗi sợ có vẻ gắn liền với
phận người mong manh.
Nhưng Đức Giêsu muốn giải
phóng chúng ta khỏi mọi nỗi sợ.
Có người môn đệ sợ bị mất
mạng, đến nỗi không dám rao giảng,
không dám tuyên nhận Thầy
trước mặt người đời.
Đức Giêsu mời các môn đệ nói
công khai giữa ban ngày, trên mái nhà,
điều mình nghe Thầy thì thầm
trong đêm khuya (c. 27).
Họ không được giữ riêng cho
mình điều đã lãnh nhận.
Đừng sợ cái giá phải trả cho
việc rao giảng, làm chứng cho Thầy,
vì có điều gì còn quý hơn cả
sự sống thân xác nữa (c. 28).
Trong Vườn Dầu, Đức Giêsu
cũng sợ chết, vì Ngài còn quá trẻ.
Nhưng Ngài đã không để cho
nỗi sợ thắng mình,
khi dám nói tiếng xin vâng,
buông đời mình trong tay Cha.
Cha lo cho cả những sinh vật
bé nhỏ, tưởng như vô giá trị.
Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền
nhất vào thời Đức Giêsu.
Tiền lương một ngày mua được
ba chục con chim sẻ.
“Thế mà không một con nào
rơi xuống đất ngoài ý Cha” (c. 29).
Cả đến sợi tóc của trên đầu
chúng ta cũng được Thiên Chúa đếm (c. 30).
Dù một sợi cũng được Thiên
Chúa giữ gìn (Lc 21, 18).
Chính vì thế người Kitô hữu
được giải phóng khỏi những nỗi sợ đeo đẳng.
Họ chẳng còn sợ ai, ngoài
Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là trở nên
vô cảm, không biết sợ là gì.
Nhưng là biết sợ ai.
“Mày cùng chịu một án phạt
mà không biết sợ Thiên Chúa ư?”
Anh trộm lành đã nói với
người kia như vậy (Lc 23, 40).
Xin Chúa giải thoát chúng ta
khỏi những nỗi sợ vu vơ,
để chúng ta được tự do, biết
lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe
nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn
con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn
con,
và Chúa yêu con hơn cả chính
con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo
Chúa
mà không tính toán thiệt
hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi
sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu
đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự
quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy
Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 7
11
THÁNG BẢY
Con
Đường Tiến Tới Thành Toàn
Sự
quan phòng bao trùm một cách đặc biệt những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh
Thiên Chúa và giống như Ngài – tức con người. Con người nhận được “sự tự trị của
những hữu thể thụ tạo” trong ý nghĩa đầy đủ nhất theo diễn tả của Công Đồng
Vatican II (MV 36). Nhưng không chỉ con người mà thôi – vì còn phải kể đến các
tạo vật có bản tính tinh thần thuần túy nữa. Nhưng chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề
này sau – vấn đề liên quan đến thế giới vô hình.
Trong
thế giới hữu hình, đối tượng đặc biệt của sự quan phòng thần linh là con người.
Theo ngôn ngữ của Công Đồng Vatican II, “con người là tạo vật duy nhất trong thế
giới được Thiên Chúa yêu thương vì chính nó” (MV 24). Vì thế, “con người không
thể hoàn thành chính mình nếu không chân thành trao hiến chính mình” (MV 24).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thứ
Bảy 11-07
Thánh
Bênêđictô, viện phụ ; St 49,29-33;50,15-24 ; Mt 10, 24-33
LỜI
SUY NIỆM: “Anh
em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn anh em
hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trogh hỏa ngục.”
Với
Đức tin của chúng ta, Chúng ta tin trong con người có hai phần, một phần xác là
tro bụi, là đất, nó sẽ chết, để trở về với bụi tro, với đất; còn một phần nữa
là phần linh hồn, linh hồn là thiêng liêng nó bất tử. Chính sự bất tử này trong
ngày tận thế, nó sẽ kết hợp với xác của mình đã sống chung, để nhận lãnh án phạt
hay sẽ được thưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa. Nên Chúa muốn chúng ta phải biết
giá trị đích thực để phải sợ những gì và không sợ những gì.
Lạy
Chúa Giêsu, Xin Chúa ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con ơn biết
Kính Sợ Chúa, yêu mến Chúa trên hết mọi sự, và biết quý trong thân xác và linh
hồn của mình cũng như của người anh em.
Mạnh
Phương
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
11-07:
Thánh
BÊNÊDITÔ
Tu
Viện Trưởng (480 - 547)
Thánh
Bênêditô, tổ phụ các dòng tu bên tây phương, sinh khoảng năm 480 tại Nursia.
Hai nguồn chính về cuộc đời thánh Bênêđitô là cuốn Dialogne (đối thoại) của
thánh Grêgôriô Cả và cuốn qui luật của chính thánh nhân. Cuốn Dialogne thâu thập
các phép lạ được coi là do thánh nhân thực hiện. Giá trị của các phép lạ này
tùy theo thẩm quan và theo cách thức phê phán của mỗi người, nhưng cung ứng cho
chúng ta những sự kiện quí giá. Cha mẹ Ngài có lẽ thuộc vào hàng quí tộc ở miền
quê. Ngài lớn lên tại gia đình. Năm 14 tuổi, Ngài được gửi tới Roma để bổ túc
việc học hành. Các độc giả ngày nay có thể ngạc nhiên khi thấy có chị vú nuôi
Cyrilla của Ngài đi theo.
Sự
suy đồi của Roma làm cho người thiếu niên nhà quê này khiếp sợ. Dầu có vú nuôi
đi theo, thánh nhân trốn khỏi kinh thành hai hay ba năm sau đó. Ngài biết rằng:
Thiên Chúa muốn gọi mình sống đời tu trì. Cùng với vài người đạo đức, Ngài lưu
lại ít lâu ở Enfide, cách Roma 35 dặm. Sau đó một mình lên đường, Ngài tìm sống
đời ẩn dật tu trì. Tại Subianô, Ngài gặp một ẩn sĩ tên là Rômanô, vị ẩn sĩ hỏi:
- Bạn ơi, bạn đi đâu vậy ?
-
Tôi trốn thế gian và đi tìm cô tịch.
Rômanô
khen ngợi ý định đạo đức của thánh nhân, khuyên Ngài hãy kiên trì và ban cho những
lời khuyên nhủ quí báu. Thầy cho Ngài một bộ áo nhà tu, là một tấm da cừu và chỉ
cho Ngài một cái hang. Nhận bộ áo nhà tu, Bênêditô lần mò tới cái hang ở giữa
triền dốc Montê Calvô. Ngài đã giam mình ở đó 3 năm, thinh lặng cầu nguyện và
ăn chay hãm mình. Thực phẩm Ngài dùng là rễ cây và ít mẩu bánh thầy Romanô gởi
tới bằng một cái thúng cột giây thả xuống.
Quỉ
dữ tức giận vì các nhân đức của thầy dòng trẻ tuổi. Chúng dùng nhiều chước cám
dỗ để lôi kéo Ngài bỏ sa mạc trở về thế gian. Ngài thường làm dấu thánh giá để
xua đuổi các cơn cám dỗ. Một lần kia bị cám dỗ nghịch với đức trong sạch, Ngài
liền cởi áo và lăn mình vào bụi gai đến chảy máu ra. Từ đó tư tưởng xấu hoàn
toàn bị đè nén và không còn khuấy khuất Ngài nữa.
Tuy
nhiên, các mục đồng đã khám phá ra Ngài và danh thơm nhân đức của Ngài đã lan rộng.
Một tu viện gần đó mời Ngài về làm bề trên. Nhưng khi muốn chỉnh đốn những lạm
dụng và muốn áp dụng một qui luật, Ngài đã bị một số thầy dòng bực tức khó chịu.
Họ còn đi đến quyết định hãm hại người khác nữa. Đến bữa ăn thánh Bênêditô làm
dấu thánh giá trên chén rượu như thói quen, chén liền vỡ tan. Ngài nói với họ:
- Xin Chúa tha thứ cho các anh. Tại sao các anh làm như vậy ? Tôi đã chẳng nói
với các anh rằng : chúng ta không thể sống chung được với nhau là gì ? Vậy các
anh hãy đi tìm một bề trên khác hợp ý các anh hơn.
Rồi
thánh nhân tìm lại cô tịch để sống thân mật một mình với Thiên Chúa. Dầu vậy
danh tiếng của thánh nhân lan rộng tới Roma. Ngài không thể sống cô độc một
mình được nữa. Nhiều người tìm đến xin làm môn đệ Ngài. Tiếp nhận họ, Ngài đã
phải thiết lập 12 tu viện nhỏ. Có những gia đình quí phái mang con đến gởi
thánh nhân. Chúng ta phải kể đến trong số này hai thiếu niên Placidê và Maurô
là những người sau này đã trở nên các vị thánh.
Nhân
đức các phép lạ của thày dòng cao cả này đã gây nên nỗi ghen tức và cả đến việc
vu oan nữa. Thánh Grêgôriô cho chúng ta biết rằng: vì bị một linh mục ghen ghét
xua đuổi, Bênêditô phải dời bỏ Subianô. Thi sĩ Marcô lại nói rằng: Ngài đã được
Chúa gọi đến Cassinô. Dầu sự thực có thế nào đi nữa, thì vào khoảng giữa năm
520 và 530, thánh Bênêditô cùng với vài người bạn đã rời bỏ Subiacô tới
Cassinô. Trên núi Cassinô có một ngôi đền cổ và một cánh rừng dâng kính thần
Apollô. Ngài rao giảng Tin Mừng cho dân cư vùng này và phá rừng khai hoang. Sau
khi triệt hạ ngôi đền cổ, Ngài đã thiết lập hai nhà nguyện kính thánh Gioan tẩy
giả và thánh Martinô. Đó là nguồn gốc của tu viện nổi danh Montê Cassinô.
Thánh
Bênêditô đã sống tại đây cho tới hết đời. Cũng tại đây, Ngài đã trước tác một bộ
luật dòng ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tu trì của Giáo hội. Theo luật sống
này, một ngày của tu sĩ được phân phối cho ba hoạt động chính là cầu nguyện, học
hành và lao động.
Mọi
hoạt động của thánh nhân đều nhằm thi ân. Người ta còn kể lại nhiều phép lạ
Ngài đã thực hiện. Chẳng hạn như Ngài chữa cho nhiều người phong hủi, trừ quỉ
và làm cho nhiều người chết sống lại, Ngài còn được ơn thấu suốt bí mật tâm hồn
và bí mật về tương lai. Chúng ta ghi lại giai thoại về cuộc tiếp xúc giữa thánh
nhân với vua Totila. Nhà vua muốn kiểm chứng tin đồn rằng: thánh nhân biết được
những điều bí mật. Ông cho biết mình sẽ đến thăm thánh nhân. Nhưng thay vì đích
thân đến, ông lại sai một viên chức tên là Riggon, ăn mặc như nhà vua và có
đoàn tùy tùng đông đảo. Thánh nhân vẫn ngồi khi thấy ông tới và nói với ông: -
Con ơi ! Cởi áo ra đi. Nó không phải là của con,
Đến
luợt Tôtila, ông đến thăm người của Chúa, ông quỳ mọp dưới chân thánh nhân,
nhưng đã ngạc nhiên khi nghe Ngài nói: - Hãy giảm bớt những bất công đi, bởi vì
ông đã gây quá nhiều sự dữ. Ong sẽ tiến vào Roma, cai trị trong chín năm. Năm
thứ 10 ông sẽ từ trần.
Lời
tiên báo của thánh nhân đã được thể hiện đầy đủ. Ngài còn cho biết rằng tu viện
Monte Cassinô sẽ bị tàn phá. Lời tiên báo này cũng đã xảy ra. Năm 590, tu viện
bị người Combarde cướp phá. Năm 1943, bọn đồng minh tàn phá dữ dội tu viện.
Thánh
nhân tiếp tục làm nhiều phép lạ, do lòng bác ái thúc đẩy. Vào cuối đời, Ngài được
thị kiến, thấy địa cầu chói sáng và linh hồn của thánh Germain được các thiên
thần đưa về trời.
Ngài
cũng đã thấy linh hồn của em mình là thánh nữ Scolastica về trời như vậy. Bốn
mươi ngày sau cái chết của người em gái thánh nhân cho biết về cái chết của em
mình. Sau khi đào mộ cho mình, thứ bảy ngày 21 tháng 3 năm 543 Ngài từ trần như
lời loan báo trước.
(Daminhvn.net)
11
Tháng Bảy
Một Quy Luật Ðơn Sơ
Hôm
nay Giáo hội tôn kính nhớ thánh Bênêđictô, bổn mạng của toàn thể Châu Âu.
Vào
cuối thế kỷ thứ 5, đế quốc La Mã bị lung lay vì cuộc xâm lăng của những người
mà thế giới Kitô tại Âu Châu gọi là dân man di.
Một
người thanh niên thuộc dòng dõi quý tộc tại miền trung nước Italia muốn trốn
thoát khỏi cuộc loạn nhiễu nhương ấy, cho nên đã leo lên ngọn núi Subiaco để
dìm mình trong cuộc sống ẩn dật. Chính giữa nơi thanh tịnh thoát tục ấy mà
chàng đã nghe được tiếng Chúa phán trong tâm hồn: có nhiều giá trị của đế quốc
La Mã cần phải được bảo tồn. Càng ra sức làm việc để đem lại sự thống nhất và
văn minh cho các dân xâm lược ấy.
Lấy
những thôi thúc ấy làm lý tưởng cho cuộc sống, Bênêđictô, người thanh niên quý
tộc ấy đã quy tụ xung quanh mình một số người đồng chí hướng và thiết lập tu viện
đầu tiên tại Montecassino.
Chàng
đã nói với Mauro, Placido và những người môn đệ đầu tiên như sau: "Chúng
ta giam mình trong bốn bức tường kiên cố không phải là để xa cách những người
khác, nhưng là để tiếp nhận từ trên cao ánh sáng của Chúa và thông đạt cho thế
giới, để học hỏi một cách sâu xa hơn nền văn minh vừa Kitô giáo vừa nhân bản và
làm cho nền văn minh ấy chiếu sáng giữa những người anh em của chúng ta. Tôn chỉ
của chúng ta là thập giá và cái cày, bởi vì một dân tộc chỉ có thể phát sinh và
lớn lên với sự cầu nguyện, nghiên cứu học hỏi và lao động".
Những
điểm chính trong quy luật của chúng ta là: Hát bảy lần một ngày để ca tụng Chúa
và làm cho màn đêm tăm tối cũng được ấm cúng với lời ca tụng này. Thứ đến, mỗi
ngày bỏ ra nhiều giờ để lao động ngoài đồng áng, học hỏi những sự trên trời và
dịch lại những tác phẩm cổ điển. Sau cùng, phục vụ nhau như những người anh em
của nhau, nhất là tại bàn ăn, là nơi vừa nghe đọc sách vừa thưởng thức chút rượu.
Vị
thánh đã đưa ra chút quy luật đơn sơ trên đây đã được chọn làm bổn mạng của
toàn thể Âu Châu, bởi vì nền văn minh của Kitô giáo hiện nay, nền văn minh nhân
bản của thế giới ngày nay đã phát sinh từ chính lý tưởng cao quý ấy: sống chung
trong yêu thương để ca tụng Chúa và phục vụ con người.
Giữa
cơn khủng hoảng của đời sống tu trì như người ta đang chứng kiến hiện nay tại hầu
hết các nước Tây phương, người ta lại thấy một dấu hiệu đầy hy vọng: các tu viện
sống đời chiêm niệm vẫn tiếp tục thu hút thanh niên thiếu nữ. Giữa một thế giới
dư dật, nhưng trống rỗng, hơn bao giờ hết, người ta càng ngày càng cảm thấy có
nhu cầu phải cầu nguyện, phải sống kết hợp với Chúa.
Ðời
sống tu trì, dù bất cứ dưới hình thức nào đi nữa, cũng không là một lẩn trốn đầy
sợ hãi trước thế gian... Người tu sĩ đích thực xa lánh thế gian, chứ không xa
lánh con người. Người tu sĩ đích thực xa lánh sự sa đọa của thế gian, để rồi lại
kiến tạo một xã hội nhân bản hơn, dễ thở hơn, dễ sống hơn.
Ðó
không chỉ là sứ mệnh của người được Chúa chọn cho cuộc sống chiêm niệm và cầu
nguyện, mà cũng là sứ mệnh của mọi người Kitô. Người tín hữu Kitô luôn được mời
gọi để thoát tục, để đi ngược lại tinh thần của thế tục, để tiêu diệt nơi mình
những sức mạnh của sự dữ để ra sức kiến tạo một thế giới đáng sống hơn. Sống giữa
thế giới, nhưng không thuộc về thế gian: đó là thế đứng của người Kitô. Ơn gọi
và sứ mệnh của họ là kiến tạo Nước Chúa nghĩa là xây dựng những giá trị vĩnh cửu
ngay trên chính những cái chóng qua ở đời này.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét