12-07-2015
Chúa Nhật 15 thường niên
năm B
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa:
Chúa Nhật XV Thường Niên - năm B
CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN B
(Am 7,12-15; Ep 1,3-14; Mc 6,7-13)
(Am 7,12-15; Ep 1,3-14; Mc 6,7-13)
Chủ đề:
ĐƯỢC SAI ĐI LÀM CHỨNG CHO CHÚA
ĐƯỢC SAI ĐI LÀM CHỨNG CHO CHÚA
“Đức Giêsu
gọi nhóm Mười Hai
và bắt đầu sai đi;
Các ông đi rao giảng,
kêu gọi người ta ăn năn sám hối.”
(Mc 6,7.12a)
và bắt đầu sai đi;
Các ông đi rao giảng,
kêu gọi người ta ăn năn sám hối.”
(Mc 6,7.12a)
Các
bài đọc hôm nay nhấn mạnh đến sứ vụ làm chứng cho Chúa (truyền giáo). Về nguồn
gốc, sứ vụ này là một ơn gọi, vì được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi. Về mục
đích, sứ vụ này nhắm đến việc rao giảng về chương trình cứu độ của Thiên Chúa
bằng lời nói và hành động hầu kêu gọi người ta ăn năn sám hối để được đón nhận
ơn cứu thoát.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Am
7,12-15)
Bài
đọc I cần được đọc trong bối cảnh lịch sử của Dân Chúa thời đó. Sau khi vua
Salômon qua đời (năm 931 Tcn), mười hai chi tộc Israel phân chia: 2 chi tộc
trung thành với vương triều Đavít lập thành vương quốc Giuđa ở phía Nam; 10 chi
tộc còn lại tách ra thiết lập vương quốc Israel ở phía Bắc.
Ngôn
sứ Amos xuất thân từ vương quốc Giuđa phía Nam, nhưng được Thiên Chúa sai đi
thi hành sứ vụ ở vương quốc Israel phía Bắc. Như thế, người thi hành sứ vụ ngôn
sứ mà Thiên Chúa trao phó không phụ thuộc vào một miền đất nhất định nào đó, và
sứ vụ đó không phải do ý muốn hay nỗ lực cá nhân của con người, nhưng do Thiên
Chúa tuyển chọn.
Vào
lúc đó, xét về đời sống bên ngoài, dân chúng đang sống trong cảnh thanh bình và
thịnh vượng nhưng xét về thực trạng bên trong, xã hội đầy dẫy những bất công,
nhất là người giàu có và quyền thế đàn áp bóc lột dân nghèo trong xứ. Trong bối
cảnh đó, ngôn sứ Amos loan báo lời Chúa để kêu gọi dân thay đổi lối sống áp bức
kẻ nghèo về mặt xã hội; đồng thời lên án mạnh mẽ việc thực hành tôn giáo mà
thiếu đời sống luân lý lành mạnh. Thêm vào đó, khi thấy hiểm họa xâm lăng của
các đạo quân Átsua, ông đã tiên báo rằng vua Giơrôbôam sẽ bị ám sát và Israel
sẽ bị đưa đi lưu đày. Ông cảnh báo vua và dân để giúp họ hồi tâm, thay đổi lối
sống mà trở lại cùng Thiên Chúa để được cứu thoát.
Tuy nhiên, như bao ngôn sứ khác, sứ vụ của Amos gặp nhiều khó
khăn. Vì trung thành loan báo sứ điệp của Thiên Chúa, nên ngôn sứ Amos bị dân
chúng ghét bỏ, ngay cả tư tế Amasia ở Đền thờ Bêthel cũng trục xuất ông về
vương quốc Giuđa. Tuy nhiên, ngôn sứ Amos đã nhất quyết ở lại Israel để thi
hành sứ vụ của mình, vì ông ý thức được rằng sứ vụ đó không xuất phát từ bản
thân nhưng từ Thiên Chúa. Ông tự nhận “tôi
không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ”
(Am 7,14), nhưng “chính Đức
Chúa đã bắt lấy tôi và đã truyền cho tôi‘Hãy đi tuyên sấm cho Israel’”
(Am 7,15). Do đó, ông sẽ không từ bỏ sứ vụ đó bao lâu sứ điệp của Thiên Chúa
chưa được dân đón nhận và thực hiện.
2. Bài đọc II (Ep
1,3-14)
Bài đọc II là một bài thánh ca thuộc thể loại tạ ơn truyền thống của Dothái. Thánh
ca này có nội dung chính mang tính Kitô học, nói về vai trò trung tâm của Đức
Kitô trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi; đồng thời, đó cũng là
một bài mặc khải về ý định cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người.
Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn chúng ta từ trước
cả khi tạo thành vũ trụ, đã thi ân giáng phúc, cho hưởng ân huệ của Thánh Thần
để chúng ta được trở nên tinh tuyền thánh thiện, được làm nghĩa tử, và nhờ Máu
Đức Kitô đổ ra, chúng ta được cứu chuộc và thứ tha tội lỗi, và quy tụ muôn loài
dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô. Nếu nói về tiền định của Thiên Chúa, thì
đó là sự tiền định “cho ta
làm nghĩa tử”, chứ không tiền định cho ai bị “diệt vong” bao giờ. Như
vậy, việc chúng ta được làm “nghĩa
tử” hay bị “diệt
vong” là tùy thuộc quyền chọn lựa của chúng ta đáp trả ý định của
Thiên Chúa.
Nhưng làm sao để con người nhận ra ý định nhiệm mầu của Thiên
Chúa và vai trò của Đức Kitô trong chương trình cứu độ của Người, nếu không nhờ
vào việc làm chứng của các tông đồ. Quả thật, các tông đồ là “những người đầu tiên đặt hy vọng vào
Đức Kitô” và “ngợi
khen vinh quang của Người” (Ep 1,12), và đến lượt ra đi làm chứng
để “trong Đức Kitô, cả anh
em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin mừng cứu độ anh em”
và “một khi đã tin như thế,
anh em được đóng ấn Thánh Thần” (Ep 1,13a).
3. Bài Tin Mừng (Mc
6,7-13)
Bài
Tin Mừng hôm nay nói về sứ vụ của Nhóm Mười Hai, tức các tông đồ. Đoạn Tin Mừng
được chia làm hai phần chính: Đức Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi loan báo Tin Mừng
(Mc 6,7-11) và các ông thi hành sứ vụ đó (Mc 6,12-13).
Quả
thật, Đức Giêsu đã lập Nhóm Mười Hai với mục đích: để các ông ở với Người và để
sai các ông đi rao giảng (x. Mc 3,14). Như thế, sau khi “đã ở với Người”, các
ông được “sai đi làm chứng” để tiếp tục sứ vụ của Người.
Đức
Giêsu sai các tông đồ đi từng hai người một. Điều này nói lên rằng chứng của
các ông về Đức Giêsu là chứng thật vì theo quy định của Lề Luật, một lời chứng
chỉ có giá trị nếu có hai nhân chứng trở lên (x. Đnl 17,6; 19,15; Ds 35,30; Mt
18,16; Ga 8,16-17). Hơn nữa, đi từng hai người một không chỉ để an toàn và giúp
đỡ nhau, nhưng quan trọng hơn là để biểu lộ tinh thần hiệp nhất, và nói lên
việc làm chứng cho Tin Mừng này mang chiều kích cộng đoàn.
Gắn
liền với việc sai đi rao giảng, Đức Giêsu ban cho các tông đồ quyền trên các
thần ô uế, tức trừ quỉ (x. Mc 6,7). Điều đó muốn nói lên rằng sứ vụ loan báo
Tin Mừng của các ông bào gồm việc chữa lành cả thể lý: bệnh tật; lẫn tinh thần:
trừ quỉ (x. Mc 3,14-15; 6,7.12-13). Đây cũng chính là sứ vụ của Đức Giêsu (x.
Mc 1,14-15; 1,21-27; 1,39). Như thế, các tông đồ là người tiếp tục sứ vụ của
chính Thầy mình. Quả thật, Đức Giêsu chia sẻ sứ vụ đó cho các tông đồ là những
kẻ đã nghe lời Người và chứng kiến việc Người làm, nghĩa là đã được “huấn
luyện” với Người.
Sứ điệp
mà các tông đồ rao giảng là “kêu gọi người ta ăn năn sám hối” (Mc 7,12) và dĩ
nhiên là vì “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. Đó cũng chính là sứ điệp mà Đức
Giêsu đã loan báo lúc bắt đầu sứ vụ rao giảng của Người (x. Mc 1,14-15). Sứ
điệp Tin Mừng này đòi hỏi sự canh tân nơi người nghe, hầu có thể đón nhận ơn
cứu thoát.
Lệnh
truyền không được mang gì đi đường (x. Mc 7,8-9) nói lên tính cấp bách của sứ
vụ loan báo Tin Mừng và sự tin tưởng ký thác hoàn toàn cho Thiên Chúa quan
phòng khi thi hành sứ vụ đó. Như thế, cuộc đời tông đồ là một cuộc lữ hành.
Hành trang vật chất các ông mang theo chỉ là những gì tối cần cho một lữ khách:
một cây gậy, một áo choàng và đôi dép, không cần mang theo lương thực, bao bị,
tiền giắt lưng và đi từ nhà nay qua nhà khác, làng này qua làng khác. Nếu
không, các ông lại lo tìm kiếm những phương tiện mà quên đi mục đích. Chúa muốn
rằng người tông đồ không cần mang theo và cũng chẳng cần sở hữu gì ngoài Sứ
điệp Tin Mừng.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Làm
chứng cho Chúa, loan báo Tin Mừng (hay truyền giáo) là sứ vụ làm nổi bật căn
tính của Hội Thánh và của mỗi Kitô hữu. Chúng ta ý thức được điều đó qua việc
mỗi khi tham dự Thánh lễ, trước khi ra về, mọi người được cầu chúc và mời gọi:
“Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an.” Như thế, Thánh Lễ chưa kết
thúc mà còn kéo dài suốt cả ngày và đi vào trong cuộc sống. Nói cách khác, đây
là mời gọi đi loan báo Tin Mừng. Sau khi đã tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh
Thể trong Thánh lễ thì đến lượt, người Kitô hữu được mời gọi đem Lời Chúa, đem
Đức Kitô đến cho người khác trong môi trường sống thường nhật của mình. Đó
chính là đi làm chứng cho Đức Kitô giữa lòng đời. ĐGH Phanxicô cũng luôn tâm
niệm điều trên khi ngài nhắc nhở chúng ta trong Tông huấn Niềm
vui của Tin Mừng: “Chúng
ta hãy đi ra, đi ra để cung cấp cho tất cả mọi người sự sống của Ðức Chúa Giêsu
Kitô”, và ngài nói “Tôi
muốn có một Hội Thánh bị bầm dập, bị tổn thương và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường,
còn hơn một Hội Thánh bệnh hoạn vì đóng cửa và thanh nhàn bám víu vào sự an
toàn riêng của mình.” Ngài lưu ý thêm: “bên ngoài, có vô số người đói khát, và Chúa Giêsu liên
tục nhắc cho chúng ta rằng: ‘Các
con hãy cho họ ăn’” (số 49).
2. Về
phía người nghe, không phải ai cũng đón nhận Sứ Điệp Tin Mừng mà người Kitô hữu
loan báo. Hệ luận là trong khi thi hành sứ vụ, không phải lúc nào các sứ giả
cũng được người ta tiếp nhận vui vẻ, nhiều khi còn bị người ta chống đối và xua
đuổi như trường hợp ngôn sứ Amos. Thời đại của chúng ta cũng có nhiều thách đố
tương tự và hơn thế nữa, như ĐGH Phanxicô đã đề cập trong Tông huấn Niềm
vui của Tin Mừng (ss.
52-75). Tuy nhiên, dù gặp khó khăn và thách đố đi chăng nữa, người môn đệ của
Đức Giêsu luôn xác tín thi hành sứ vụ của mình, vì biết rằng sứ vụ đó không do
ý muốn của bản thân hay của người nào khác mà do ý muốn của Thiên Chúa.
3. Người
Kitô hữu hôm nay có cùng một sứ vụ của các tông đồ xưa kia, đó là được Đức
Giêsu sai đi để tiếp tục sứ vụ của Người: rao giảng Tin Mừng và đẩy lui sự dữ.
Sứ giả Tin Mừng không chỉ nói suông nhưng còn có bổn phận đem niềm vui đến cho
dân chúng bằng cách đổi mới đời sống của họ, cả về mặt tinh thần lẫn mặt vật
chất. Trước hết, cần lo cho người dân “ăn năn sám hối” nghĩa là thay đổi lối
sống tinh thần, hướng tới một đời sống luân lý lành mạnh, làm lành lánh dữ, đẩy
lui những tệ nạn, và hướng đến một nền văn minh tình thương xuất phát từ tình
yêu cứu rỗi của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Kế đến, khi điều kiện cho phép,
cần cố gắng giúp họ cải thiện đời sống vật chất qua việc giáo dục, hướng nghiệp
và chăm lo sức khỏe cho cộng đồng, vì chính Đức Giêsu và các tông đồ cũng chữa
lành bệnh tật thể lý cho dân chúng trong lúc rao giảng.
4. Một
nguyên tắc nghe rất cũ nhưng luôn mới, đó là “mình không thể đem đến cho người
khác điều mình không có”. Do đó, trước khi đi loan báo Tin Mừng, người sứ giả
phải được đào tạo. Các tông đồ xưa, trước khi được Đức Giêsu sai đi, họ đã “ở
với Người” (Mc 3,14). Qua việc “ở với Đức Giêsu”, họ đã được huấn luyện để trở
thành người môn đệ, đã được nghe lời, thấy việc và nhất là kết hiệp mật thiết
với Đức Giêsu trong Đức tin, Đức Cậy và Đức Mến. Người Kitô hữu cũng thế, cần
phải được đào tạo các khía cạnh của đời sống Kitô hữu và thấm nhuần lối sống
Tin Mừng. Có như thế, người Kitô hữu mới có thể đem đến cho người khác điều
mình đã tin, đã hy vọng, đã yêu mến và nhất là đã sống.
III. LỜI NGUYỆN
CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Thiên Chúa đã yêu thương mời gọi chúng ta cộng tác vào công
cuộc loan báo Tin Mừng, hầu muôn người được quy tụ và cứu độ trong Đức Giêsu
Kitô. Chúng ta cùng dâng lời chúc tụng tri ân và tha thiết cầu nguyện.
1. “Chúa
Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và sai đi từng hai người một.” Chúng ta cùng cầu
nguyện cho hàng giáo phẩm luôn hợp nhất trong đức tin và đức ái, tận tâm hoàn
thành sứ mạng Chúa trao bằng lời rao giảng, gương sáng đạo đức, và những hoạt
động bác ái.
2. “Chúa
Giêsu ban cho các Tông đồ có quyền trên các thần ô uế.” Chúng ta cùng cầu
nguyện cho nhà cầm quyền các quốc gia trên thế giới biết nhìn nhận và trân
trọng những nỗ lực của Giáo Hội nhằm đẩy lui sự dữ, chữa lành và thanh luyện
lương tâm con người.
3. Môn đệ
Chúa Kitô luôn bị người đời khước từ và chống đối. Chúng ta cầu nguyện cho các
kitô hữu đang dấn thân cho các hoạt động tông đồ, luôn khiêm tốn và nhẫn nại
trong sứ vụ, siêu thoát trước của cải vật chất, và tin tưởng phó thác kết quả
cho thánh ý Chúa.
4. Trong
Đức Kitô, mọi tín hữu được chọn để trở nên tinh tuyền thánh thiện. Chúng ta cầu
nguyện cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta, luôn liên kết mật thiết với Đức
Kitô qua việc lắng nghe cùng thực hành Lời Chúa, và nhiệt tâm với sứ mạng loan
báo Tin Mừng.
Chủ tế: Lạy
Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và chúc phúc
để chúng con luôn hăng say tiếp nối sứ vụ tông đồ của Con Chúa, hầu đem tin
mừng cứu độ đến cho nhiều người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng
con. Amen.
Chủ đề :
Chúa sai chúng ta đi
"Ngài gọi Nhóm 12 lại
và bắt đầu sai đi từng hai người một"
(Mc 6,7)
và bắt đầu sai đi từng hai người một"
(Mc 6,7)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (Am
7,12-15) : Thiên Chúa sai ngôn sứ Amos đi nói tiên tri cho dân Israel.
- Tin Mừng (Mc
6,7-13) : Đức Giêsu sai 12 tông đồ đi rao giảng Tin Mừng.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta thường nghe nói tới
hai chữ "thừa sai" : Giáo Hội chúng ta là một Giáo Hội
"thừa sai", mỗi tín hữu chúng ta là một "thừa sai".
"Thừa sai" là gì ? Là được sai đi. Ngày xưa Đức Giêsu đã sai 12
tông đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Ngày nay Ngài cũng sai chúng ta như thế.
Trong Thánh lễ hôm nay,
chúng ta hãy xin Chúa dạy cho chúng ta hiểu rõ hơn để chúng ta thi hành sứ mạng
này.
II. Gợi ý sám hối
- Xưa nay chúng ta chỉ lo
"giữ đạo" mà không để ý đến "truyền đạo".
- Chúng ta chưa ý thức mình
được Thiên Chúa sai đi để mang Tin Mừng đến cho người khác.
- Trong những lúc khó khăn,
chúng ta chưa phó thác đủ vào sự quan phòng của Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Am 7,12-15)
Amos sinh sống ở tiểu vương
quốc Giuđa (miền Nam), nhưng Chúa sai ông lên tiểu vương quốc Israel (miền Bắc)
để làm ngôn sứ nói lời Ngài.
Vì trung thực nói lời Chúa,
nên Amos bị dân Israel ghét. Một vị tư tế tên Amasia còn đuổi ông về Giuđa.
Amos đáp lại : Ông chỉ
là một nông dân chứ không thuộc dòng dõi ngôn sứ cho nên không quen làm ngôn
sứ. Nhưng chỉ vì Thiên Chúa sai ông nên ông phải vâng theo.
Trong một đoạn khác không
thuộc trích đoạn này, Amos còn nói một câu rất ý nghĩa cho thấy sự thúc bách
của lệnh Chúa sai đi : "Sư tử gầm lên, ai lại không sợ ; Đức
Chúa Giavê phán, ai lại không nói tiên tri ?" (Am 3,8)
2. Đáp ca (Tv 84)
Trích đoạn Tv 84 này có thể
được coi là nối tiếp ý tưởng của bài đọc I : người được Thiên Chúa sai đi
phải quan tâm "lắng nghe điều Thiên Chúa phán", đó là những lời mang
lại bình an và ơn cứu độ.
3. Tin Mừng (Mc 6,7-13)
Trong giai đoạn đầu của việc
rao giảng Tin Mừng, trung tâm hoạt động của Đức Giêsu là thành Caphácnaum và
những thành ven bờ hồ Ghênêdarét. Bây giờ bước vào giai đoạn 2, Ngài sai các
tông đồ từng hai người một đi đến những vùng khác.
- Sứ mạng của các ông là rao
giảng sự thống hối và trừ quỷ, chữa bệnh.
- "Phương tiện"
của các ông chỉ có tối thiểu, còn tất cả những điều khác đều phó thác cho Chúa
quan phòng lo liệu.
4. Bài đọc II (Êp 1,3-14)
Thánh Phaolô trình bày
chương trình cứu độ của Thiên Chúa :
- Ngài đã chọn chúng ta
trước khi tạo thành thế gian.
- Tiền định cho chúng ta
được phúc làm con Ngài nhờ Đức Giêsu Kitô.
- Cứu chuộc chúng ta bằng
giá máu của chính Đức Giêsu Kitô.
- Ban Thánh Thần cho chúng
ta.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Chúa cần đến chúng ta
Trong thời kỳ chiến tranh
Triều Tiên, một ngôi làng bị pháo kích nặng nề. Giữa làng có một ngôi nhà thờ,
trước nhà thờ có một tượng Đức Giêsu được đặt trên một cái bệ. Nhưng sau khi
khói lửa của trận pháo kích tan đi, người ta chỉ còn thấy cái bệ, còn pho tượng
thì biến đâu mất. Những người lính đồng minh cố gắng đi tìm và cuối cùng cũng
tìm thấy tượng Chúa bị văng khỏi đó một khoảng khá xa. Tuy nhiên hai cánh tay
của Chúa đã bị hỏng mất. Họ cung cấp một chiếc máy bay để chở pho tượng về Mỹ
cho thợ làm lại hai cánh tay. Nhưng Cha Xứ từ chối. Cha bảo cứ đặt pho tượng
lên bệ như cũ, phía dưới viết thêm hàng chữ : "Các con thân mến, hãy
cho ta mượn đôi cánh tay của các bạn".
Câu chuyện trên giúp ta hiểu
sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay : Đức Giêsu kêu gọi các tông đồ tham gia
công việc của Ngài. Ngài chia sẻ sứ mạng với họ. Ngài ban cho họ chính quyền
năng và uy tín của Ngài. Rồi Ngài sai họ đi loan truyền Tin Mừng. Thực ra, họ
chỉ là những người chài lưới, cả tài năng lẫn đức độ đều không có bao nhiêu.
Nhưng Ngài vẫn chia sẻ sứ mạng cho họ, vì họ sẽ thi hành sứ mạng không phải
bằng sức riêng của họ, mà bằng ơn Chúa.
Ngày nay, có nhiều đấng có
thẩm quyền vẫn e ngại không chia xẻ công việc cho giáo dân ; mặt khác,
nhiều giáo dân cũng e ngại không dám gánh trách nhiệm trong Giáo Hội. Cả hai
phía đều tính toán thành bại dựa trên khả năng của con người. Nhưng đó không
phải là tính toán của Thiên Chúa.
Hãy nhớ rằng Sách Thánh bắt
đầu bằng chuyện Thiên Chúa giao cho loài người quyền hợp tác với Ngài trong
công cuộc sáng tạo vũ trụ ; bài đọc I hôm nay kể chuyện Thiên Chúa giao
cho Amos sứ mạng làm ngôn sứ cho dân Israel mặc dù ông chỉ chuyên nghề chăm sóc
cây sung ; và bài Tin Mừng kể chuyện Đức Giêsu sai 12 tông đồ vốn là những
dân chài sứ mạng truyền giáo. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Phó thác trong tay Chúa
Bài Tin Mừng này nói đến
tinh thần Phó Thác mà Chúa muốn các Tông đồ phải có trong khi đi truyền giáo.
Phó Thác là một nhân đức quan trọng, nhưng nhiều người không hiểu đúng.
. Chẳng hạn một người kia
mắc bệnh, không lo chữa trị mà cũng chẳng có biện pháp giữ gìn sức khoẻ gì hết,
mà lại nói "Tôi phó thác tất cả cho Chúa". Như thế có phải là phó
thác không ? Dĩ nhiên là không.
. Hay một người khác không
chăm chỉ làm ăn, tiêu xài thì chẳng tính toán cân nhắc, rồi lâm cảnh túng
thiếu. Cũng nó : "Xin phó thác tương lai trong tay Chúa". Có
phải là phó thác không ? Dĩ nhiên cũng là không.
. Xin thêm một thí dụ
nữa : làm cha mẹ chẳng lo sửa dạy con cái, để cho chúng hư thân mất nết,
rồi bảo "Phó thác cho Chúa". Có phải là Phó thác không ? Cũng
không phải.
Nếu những trường hợp kể trên
mà là Phó Thác, thì Phó thác chẳng còn phải là một nhân đức nữa, nhưng là một
tính xấu : tính lười biếng, thụ động. Đạo Công giáo mà chủ trương Phó thác
kiểu đó thì cũng không oan ức gì khi bị người khác chế nhạo là đạo tiêu cực,
đạo cảm trở sự tiến bộ....
Ngược lại, đứng trước một
công việc mà mình lo lắng thái quá, làm như Chúa để một mình mình phải lo, thì
cũng không phải là Phó thác. Rồi trong khi lo công việc mà quá cậy dựa vào
những phương tiện vật chất, thế tục, không tin tưởng vào ơn Chúa giúp, cũng
không phải là Phó thác.
Vậy Phó thác là gì ?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa dạy các tông đồ có tinh thần Phó
thác đúng nghĩa : khi các ông ra đi truyền giáo, các ông chỉ cần một số
phương tiện vật chất vừa đủ : một cây gậy để chống lại thú dữ dọc đường,
một chiếc áo mặc, một đôi dép để đi, thế thôi. Đừng quá lo lắng về vật
chất : không cần mang lương thực dự trữ, không cần thủ cho nhiều tiền
trong túi, không cần tới hai áo, không cần mang bị theo để đựng quà biếu của
người khác. Về nơi ăn chốn ở cũng thế, miễn sao có chỗ trọ là được, nhà nào cho
mình trọ, thì cứ trọ bất kể giàu hay nghèo, đừng chọn lựa nhà này hay nhà khác
để có tiện nghi hơn. Nhà nào không cho mình trọ thì mình ra đi không chút lưu
luyến. Điều chính yếu quan trọng mà các ông phải cậy dựa vào, đó là quyền năng
của Chúa.
Qua đoạn Tin Mừng trên,
chúng ta hiểu Phó Thác là đứng trước một công việc, một mặt mình không được
lười biếng buông trôi nhưng phải vận dụng hết sức mình để làm cho được ;
mặt khác không ỷ sức riêng mình mà còn phải cầu nguyện xin Chúa ban ơn giúp
sức. Và khi đã cố gắng hết sức mình đồng thời đã tin cậy vào ơn Chúa như thế,
sau đó công việc diễn tiến thế nào đi nữa mình cũng không quá lo lắng sợ sệt,
vì mình đã Phó thác cho Chúa.
Như thế, đứng trước một vấn
đề khó khăn, nếu ta ngả lòng nản chí thì là thiếu Phó thác ; nhưng nếu ta
quá lo lắng cậy dựa vào khả năng riêng của mình để giải quyết thì cũng là thiếu
phó thác.
Chúng ta hãy làm như một đứa
bé tập đi : bàn tay nhỏ bé của nó nắm chặt bàn tay Cha nó, đôi chân nhỏ bé
của nó can đảm bước đi từng bước từng bước, và lòng nó thì rất an tâm, vì nó
biết chắc có Cha nó luôn sẵn sàng nâng đỡ mỗi khi nó xảy chân. Phó thác là như
thế.
Sau thế chiến thứ nhất, một
linh mục trẻ người Pháp được bài sai đi coi xứ. Tay xách vali, cha mạnh dạn ra
đi truyền giáo. Đến nơi chỉ thấy hầm sâu, tường đổ. Nhà thờ, nhà xứ, chỉ còn
duy nhất một bức tường xiêu vẹo.
Không một chút sờn lòng, cha
cùng với các tín hữu tích cực kiến thiết lại ngôi thánh đường đổ nát. Chẳng bao
lâu sau, đền thờ vật chất đã hoàn thành khang trang đẹp đẽ. Giờ đây, cha lại
tiếp tục xây dựng đền thờ tâm hồn. Nhờ đời sống gương mẫu, cha đã tu sửa lại
lòng đạo đức của cả đoàn chiên.
Tuổi cha chưa cao nhưng đã
kiệt sức, giữa lúc tình cha con đang mặn nồng, gắn bó. Dầu vậy, nằm trên giường
bệnh, cha vẫn thản nhiên vui vẻ. Giờ hấp hối đến, cha nhỏ nhẹ nói với những
người chung quanh :
- Giờ đây tôi vui mừng vì đã
trung thành giữ lời nhủ bảo của thân phụ ngày tôi chịu chức linh mục :
"Nay con làm linh mục Chúa, cha chỉ cầu ước cho con 3 điều : Thứ
nhất, lúc con chết đừng nợ ai xu nào ; Thứ hai, khi qua đời con cũng chẳng
còn xu nào ; Thứ ba, lúc lâm chung con đừng vướng một chút tội nào với
Chúa". Và ngài an bình đi về với Đấng mình đã trọn đời dâng hiến.
*
Vị linh mục trong câu chuyện
trên đây, không những đã làm theo lời khuyên của thân phụ, mà còn thi hành đúng
lời dạy của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Khi sai các tông đồ đi truyền
giáo, Chúa phán : "Không được mang lương thực, bao bị, tiền
bạc…" (Mc.6,8). Hành trang của các ông chỉ là chiếc áo đang mặc,
cây gậy và đôi dép đi đường. Vì chính Người đã từng nói : "Con
chồn có hang, chim trời có tổ, con Người không có chỗ dựa đầu". Người
muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào Chúa, phó thác cho tình yêu quan phòng của
Người, và cậy dựa vào lòng tốt của tha nhân.
Đó là thân phận của kẻ được
sai đi : ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn
sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng
đắng cay. Vì "Phaolô trồng, Apollo tưới và Chúa mới cho mọc
lên" (1Cr.3,6).
Hôm nay Chúa cũng sai chúng
ta đi vào lòng thế giới, để "rao giảng sự sám hối" (Mc.6,12).
Sám hối rất khó nói vì chẳng mấy ai thích nghe. Đó cũng là thách thức của người
tông đồ : can đảm nói lên những điều phải nói. Nói mà không giảm nhẹ những
đòi hỏi của Tin mừng. Nói mà không lợi dụng tin mừng để mưu cầu cá nhân. Nói mà
không trích dẫn Tin mừng để khoe khoang kiến thức. Nói mà không bóp méo Tin
mừng để vuốt ve quần chúng. Dù sao Tin mừng vẫn phải được loan báo. Chúng ta
hãy xem câu nói của Thánh Phaolô như là của chính mình : "Khốn
thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cr.9,16).
Hôm nay, Chúa cũng trao cho
chúng ta những quyền năng như hành trang để lên đường. Đó là quyền rao giảng
Tin mừng, quyền trừ quỷ và quyền chữa bệnh.
Chúng ta có thể chia sẻ Tin
mừng với niềm hân hoan của người tìm được viên ngọc quí.
Chúng ta có thể nói về Chúa
như nói về một người bạn thân.
Chúng ta có thể xua trừ quỉ
bằng cách đẩy lui những thói hư tật xấu.
Chúng ta có thể chữa bệnh
bằng cách lau khô những giọt lệ của bao người quanh ta.
*
Lạy Đức Giêsu, mỗi thánh lễ
là một bài sai, mỗi bài Tin mừng là một sứ điệp Chúa gởi cho trần gian qua từng
người chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ cậy dựa sức riêng mình, nhưng
tin tưởng vào quyền năng Chúa mà chu toàn sứ vụ Người đã trao ban. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
4. Những lời chói tai
Chúng ta hãy tìm hiểu bài
đọc thứ I, được trích từ sách tiên tri Amos.
Amos không phải là một nhà
tiên tri chuyên nghiệp. Hằng ngày làm ăn sinh sống bằng nghề chăn chiên và hái
trái sung. Nhưng một ngày kia Thiên Chúa bảo ông hãy lên miền Israel công bố
Lời Chúa. Lúc ấy nước Do thái đang chia cắt thành hai miền vừa khác nhau vừa
đối nghịch nhau ; miền Nam nơi Amos đang sinh sống là Yuđa, còn miền Bắc
là Israel. Mà Israel lúc đó đang vào hồi thịnh vượng, giàu có. Tuy nhiên đó chỉ
là thịnh vượng giàu có về mặt vật chất, chứ về tôn giáo và luân lý xã hội thì
rất tồi tệ.
. Về tôn giáo : người
dân Israel thờ Chúa ở Đền Thờ Bethel. Họ dâng hiến rất nhiều lễ vật. Nhưng họ
cũng ỷ rằng vì họ đã dâng nhiều lễ vật cho nên họ chẳng cần phải sống đạo đức.
Chúa đã nhận lễ vật của họ cho nên Chúa có bổn phận phải che chở cho họ. Đó là
một thứ đạo đức bề ngoài.
. Còn về luân lý xã hội thì
đầy dẫy những xấu xa : người giàu bóc lột, ức hiếp người nghèo, thói làm
ăn gian lận, kẻ có nhiều tiền thì có tất cả, còn kẻ không có tiền thì thua
thiệt mọi mặt.
Vì vâng lệnh Chúa, Amos đã
từ giả nếp sống bình dị ở miền Nam Yuđa để lên miền bắc Israel. Ông lớn tiếng
công kích tất cả những tệ nạn xấu xa vừa kể trên. Ông can đảm vạch tội của mọi
hạng người từ vua chúa, đến các tư tế và những người giàu có. Và dĩ nhiên là
những người này tức giận. Nhưng người tức giận nhất là Amasia, một tiên tri
chuyên nghiệp ở đền thờ Bethel. Xưa nay Amasia vẫn cấu kết với giới hoàng gia
và những người giàu có, dùng quyền tiên tri để nói những điều vừa ý họ. Bây giờ
ông cũng thay mặt họ chống lại Amos. Đại khái ông mỉa mai Amos rằng : nếu
nhà người có muốn kiếm ăn bằng cái nghề tiên tri này thì tốt hơn hãy trở về
miền Yuđa của nhà ngươi mà nói tiên tri đi. Ở đây mà nói tiên tri giọng đó thì
chẳng ăn khách đâu. Đối lại Amos trả lời : tôi đâu phải là một người kiếm
sống bằng nghề tiên tri. Tôi chỉ là một nhà nông thôi. Nhưng vì Chúa sai tôi
đến đây nói tiên tri thì tôi phải đến và nói, và bổn phận của tôi là phải
truyền đạt lại đúng y như lời Chúa. Amasia tức bực. Ông ta vận động với triều
đình Israel ra lệnh trục xuất Amos. Thế là Amos phải trở về quê cũ.
Ca dao có câu :
"Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Đó là
một thái độ khôn ngoan, khôn ngoan vì lời mình nói không đụng chạm ai và dễ
được người ta chấp nhận, người ta còn thích mình nữa. Đó là kiểu khôn ngoan của
tiên tri Amasia : ông đã nói những lời thuận tai vừa lòng những bậc vua
chúa và những người giàu có, và họ đã ưu đãi ông, ông được hưởng một cuộc sống
sung túc dễ chịu. Nhưng kiểu khôn ngoan đó không đem lại lợi ích thực sự cho
dân. Dân Israel bị ru ngủ bởi những lời dễ chịu ấy cứ tiếp tục dấn sâu mãi
trong những tội lỗi của mình, để rồi đến khi Thiên Chúa ra tay trừng phạt thì
hối tiếc đã muộn. Năm 721 Chúa để cho đất nước họ bị xâm lược, dân chúng bị
bắt, đi lưu đày. Tục ngữ cũng có câu "Thuốc đắng đã tật lời thật mất
lòng". Những lời nói thành thật, dám vạch ra những cái xấu thì thường
không được người ta ưa nghe, lại còn làm cho người ta ghét mình nữa. Có thể coi
đó là một thái độ ngu dại. Đó là cái ngu dại của Amos. Thế nhưng cái ngu dại ấy
lại có ích. Nếu như dân Israel chịu nghe lời của Amos mà sửa đổi những tật xấu
của mình thì họ đã được Chúa thương tha thứ.
Như vậy là có 2 kiểu
nói : Kiểu nói thuận tai của Amasia và kiểu nói chói tai của Amos. Tự
nhiên thì chúng ta thích nghe những lời nói kiểu Amasia. Thế nhưng nếu chúng ta
muốn hoàn thiện đời mình thì chúng ta phải tập lắng nghe những lời nói kiểu
Amos. Vậy ai là những Amos của chúng ta ngày nay ? Trước hết đó là những
Linh mục có nhiệm vụ giảng dạy Lời Chúa. Kế đó là những người thiện chí muốn
sửa đổi chúng ta. Và kế tiếp nữa phải kể cả những người không ưa chúng ta mà
chỉ trích chúng ta. Trước những lời nói thẳng nói thật, nhiều người tức bực,
chẳng những không là một người muốn kiếm ăn bằng nghề tiên tri. Chúng ta cũng
có phản ứng tương tự khi tìm cách nói xấu lại người dám nói thẳng vạch cái xấu
của chúng ta : nào là người ấy bịa chuyện, nào là bản thân người ấy cũng
chẳng tốt lành gì, có khi còn vạch ra những cái xấu của người ấy hay thậm chí
bịa ra những điều xấu gán cho người ấy để làm giảm uy tín của họ và để che giấu
chính cái xấu của mình. Nghĩa là trên cương vị người nghe, chúng ta phải tập
khiêm nhường để sẵn sàng lắng nghe những tiếng nói chói tai vạch những cái xấu
của mình.
Còn trên cương vị người nói,
nếu nói kiểu Amasia để làm vừa lòng người ta thì thật là quá đã, nhưng chúng ta
phải tập cho có can đảm để dám nói theo kiểu Amos, dám vạch thẳng những cái xấu
của người khác. Nhưng chúng ta đừng hiểu lầm Amos, cho rằng Amos đã làm gương
cho chúng ta về việc nói xấu nói hành. Amos nói thẳng nói thật chứ không phải
nói xấu nói hành. Người nói là thẳng nói thật là người nói trước mặt người
nghe. Còn người nói xấu nói hành là người trước mặt thì nói tốt hoặc không dám
nói, nhưng sau lưng thì nói xấu. Thực ra, biết được một điều xấu của người khác
thì rất dễ, nhưng chỉ cho người ta biết cái xấu của họ một cách thẳng thắn thì
là khó, và giúp cho người ta sửa được cái xấu ấy lại càng khó hơn nhiều. Vậy
trong thực hành, khi chúng ta biết một điều xấu của người nào đó, nếu chúng ta
có can đảm tới nói thẳng với người đó để người đó sửa lỗi thì chúng ta hãy nói,
cho dù lời nói của mình có thể làm cho người ta khó chịu, người ta ghét mình.
Còn nếu chúng ta không có đủ can đảm như vậy thì thà chúng ta im lặng, đừng nói
lén sau lưng, đừng rỉ tai, đừng nói lại cho bất cứ ai nghe, vì như thế chẳng
những không có lợi mà chỉ có hại và còn có tội nữa.
Tuy nhiên có lẽ chúng ta nên
tìm một giải pháp dung hoà giữa hai thái độ của Amasia và Amos. Amasia chỉ nói
ngọt nên được người ta ưa nghe nhưng không làm lợi cho người ta. Còn Amos thì
nói lời chói tai nên người ta không chịu nghe, còn bị người ta ghét và xua
đuổi. Thái độ dung hoà là nói thật nhưng ngọt ngào. Vừa dễ nghe vừa sửa được
lỗi của người khác. Và ngọt ngào thì không gì ngọt ngào bằng yêu thương. Vì yêu
thương người có lỗi mà ta nói, và nói làm sao để người nghe hiểu rằng ta nói vì
ta thương họ ; và kết quả là vì họ biết ta thương họ nên họ sẽ cố gắng sửa
mình để đáp lại tình thương của ta.
Con người có tai để nghe và
lưỡi để nói. Trong chữ Nho, chữ "Thánh" là do 3 chữ ghép lại :
chữ Vương ở dưới có nghĩa là vua, phía trên có chữ Nhĩ là lỗ tai và chữ Khẩu là
cái miệng. Vậy Thánh, theo chữ Nho, có nghĩa là người làm chủ được sự nghe và
sự nói của mình. Làm chủ được sự nghe là không phải chỉ thích nghe những lời
nói khen mà còn dám nghe những lời phê bình thẳng thắn ; làm chủ sự nói là
không phải bạ đâu nói đó, nói một cách vô trách nhiệm, nói hành nói xấu, nhưng
là nói đúng, nói thật, nói khéo, nói với tình thương để lời nói của mình đem
lại lợi ích xây dựng cho người khác.
5. Một tấm gương
Một tội nhân được
giong đi pháp trường. Đến nơi hành quyết lính vây quanh thành ba vòng :
vòng trong cầm gươm, vòng giữa cầm giáo, vòng ngoài cầm cờ, sĩ quan oai vệ cưỡi
ngựa cưỡi voi. Bỗng tội nhân lên tiếng nói đôi lời với những người có mặt, sau
đó nói riêng với viên chỉ huy. Với viên chỉ huy tội nhân nói :
"Tôi xin gửi quan
30 đồng tiền để xin quan một ân huệ : xin đừng chém tôi một nhát, nhưng
chém ba nhát. Nhát thứ nhất, tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi, và đưa tôi đến đất
Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành nên tôi. Còn nhát
thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí trong đức tin,
theo gương vị chủ chăn của mình. Và như thế họ đáng lãnh phần phúc cùng các
thánh trên trời."
Tội nhân là Đức Cha An
vừa dứt lời, lính liền trói ngài vào cây cọc hình thập giá. Dân công giáo có
mặt oà lên khóc. Lính chém Đức Cha ba nhát như ngài đã yêu cầu. Đầu và mình của
vị tử đạo bị ném xuống sông. Có hai người lính thấm máu vị tử đạo liền bị tống
giam. Đồ đạc sách vở của Đức Cha đều bị đốt.
Đó là ngày 20 tháng 7,
1857. Trước đó hai tháng, Đức Cha đã viết thư tạm biệt Đức Giám Mục và các linh
mục trong Giáo Phận. Từ nhà ngục tỉnh Nam Định ngày 28 tháng 5,1857, Đức Cha An
viết :
"Tù nhân trong
Chúa gửi lời tạm biệt Đức Cha và các cha cho tới ngày gặp nhau trên trời. Xin
tất cả anh em tha thứ cho những điều lầm lỗi và gương xấu tôi đã làm… Gông
xiềng tôi đang mang được coi là những báu vật Đức Giêsu gửi cho tôi. Tôi vui
mừng lắm và chỉ ước ao đổ máu vì Chúa, để máu tôi hoà với máu cực thánh Đức
Giêsu rửa linh hồn tôi được sạch mọi tội lỗi. Xin anh em cầu cho tôi vững tin
đến cùng…"
Giuse Diaz Sanjurjo
cất tiếng chào đời ngày 26 tháng 10, 1818 tại tỉnh Lugo nước Tây Ban Nha. Cậu
là con cả trong gia đình có năm anh em mà một người sau là nữ tu Antonia. Lớn
lên cậu theo học chủng viện Lugo. Chiến tranh khiến việc học của cậu bị gián
đoạn ba năm nhưng sau được vào đại học, cậu đã tìm đến với tỉnh dòng Đa Minh
Rất Thánh Mân Côi là tỉnh dòng đặc trách lo việc truyền giáo tại Viễn Đông. Ở
đây cậu đã lần lượt được nhận vào Tập Viện ngày 23 tháng 9, 1842 ; được
tuyên khấn 24.9.1843. Cha Giuse Diaz Sanjurjo đến địa phận Đông Đàng Ngoài ngày
19.9.1845 với tên Việt Nam là An. Sau thời gian học tiếng Việt, cha An được
giao nhiệm vụ coi sóc chủng viện tại Nam An.
Dưới thời vua Tự Đức
cấm đạo gắt gao năm 1848, cha An đã phải đau lòng gấp rút giải tán chủng sinh,
chôn giấu các đồ thờ phượng và nhìn chủng viện bị tàn phá. Trong thư gởi một
bạn ở Tây Ban Nha, cha An viết : "Chúng tôi chẳng còn nhà, chẳng còn
sách vở và áo quần, chẳng còn gì nữa… nhưng chúng tôi vẫn an tâm vì nhớ lời
Thầy Chí Thánh nói "Con Người không có chỗ gối đầu…"
Nhiệt thành với tương
lai giáo phận, cha An tái lập chủng viện tại Cao Xá. Thời gian này cha biên
soạn cuốn văn phạm La ngữ bằng tiếng Việt.
Qua tông thư đề ngày
05.09.1848, Đức Piô IX thiết lập giáo phận Trung tách khỏi giáo phận Đông Đàng
Ngoài. Giáo phận Trung gồm cả Bùi Chu và Thái Bình hiện nay, với dân số khi ấy
là 140.000 giáo hữu rải rác trên 624 giáo xứ.
Người có công thuyết
phục linh mục Marti Gia nhận chức vụ giám mục giáo phận mới thành lập chính là
cha An. Trong bầu khí trao đổi thân tình, cha An đã phân tích các mặt của nhiệm
vụ giám mục với những khó khăn trong thời cấm đạo. Kế đến cha nêu những nhu cầu
của cộng đoàn dân Chúa mà vai trò phục vụ được giao cần phải đáp ứng. Cha An
không ngờ sắc lệnh bổ nhiệm Đức Cha Marti Gia làm giám mục giáo phận Trung Đàng
Ngoài, có ban quyền chọn giám mục phó. Đức Cha Gia liền chọn người đã thuyết
phục mình nhận chức giám mục bản quyền, là cha An, làm giám mục phó.
Sau khi thụ phong giám
mục, cha An lại trở về Cao Xá tiếp tục coi sóc chủng viện. Trong thư gởi gia
đình, đức tân giám mục viết : "Ở đây thì chức vụ cao chỉ thêm công
việc, con thường phải đi bộ, có khi phải đi chân không, nhiều lần phải lội bùn
đến đầu gối, để trốn tránh những người lùng bắt."
Tháng 3, 1850, Đức Cha
An giao chủng viện cho cha San Pedro Xuyên coi sóc rồi đi kinh lý toàn tỉnh
Hưng Yên. Cuộc kinh lý bị bỏ dở. Hai linh mục Việt Nam cùng đi với Đức Cha bị
bắt. Đức Cha thoát nạn nhưng về bị sốt rét nặng một thời gian. Hai năm sau, Đức
Cha Marti Gia lâm bệnh nặng và qua đời tại Hương Cảng ngày 26.4.1852. Thế là
Đức Cha An phải đến ở toà giám mục Bùi Chu để điều khiển công việc giáo phận mà
mũi nhọn là công cuộc truyền giáo. Số người được chịu phép rửa tội năm 1852 lên
tới 28.355 người. Đức Cha An viết : "Đó quả là phần thưởng đầy khích
lệ để các nhà truyền giáo tiếp tục trách nhiệm tông đồ bất chấp âm mưu của thần
dữ. Không nản lòng trước những cơ cực thiếu thốn, trước nguy hiểm vây quanh và
những nghịch cảnh có thể xảy đến…"
Xảy ra là từ năm 1854,
tại miền Bắc có giặc châu chấu của Lê Duy Cự và Cao Bá Quát. Họ kêu gọi người
công giáo tham gia nhưng Đức Cha An lên tiếng cấm bổn đạo không được chống lại
chính quyền hợp pháp. Do đó các quan chức địa phương cũng nới tay trong việc
thi hành sắc lệnh cấm đạo của nhà vua. Tổng đốc Nguyễn Đình Tuân biết chính xác
trụ sở toà giám mục Bùi Chu nhưng vẫn làm ngơ. Ông còn hứa nếu bất đắc dĩ phải
sai quân truy nã thì ông sai người báo trước.
Không may khi ấy có
quan thượng thư từ kinh đô về Nam Định nhằm lúc có người làng Thoại Miên là
Chánh Mẹo, lên tỉnh tố cáo rằng có đạo trưởng Tây tên An ở Bùi Chu. Quan Tổng
đốc buộc lòng phải ra lệnh truy bắt nhưng cũng cho người đi báo tin cho toà
giám mục. Tiếc rằng tin đến nơi thì Đức Cha An đã bị bắt. Khi lính đến bao vây,
Đức Cha chạy đi ẩn náu liên tiếp ở bốn nơi. Nơi cuối cùng ở giữa bụi tre khá
kín. Nhưng đúng lúc Đức Cha ngó đầu ra để xem lính đã đi chưa thì bị phát hiện
và bị bắt.
Đức Cha An bị giải về
Nam Định và bị biệt giam hai tháng trước khi có án tử hình từ kinh đô truyền
chém đầu Tây dương đạo trưởng tên An. Nhưng Đức Cha An đã không bị cưỡng bức
chịu tử hình. Ngài đã vui mừng đón nhận cái chết tử đạo vì yêu mến Đức Giêsu vị
Mục Tử nhân lành. Do đó ngài đã xin được chém ba nhát mà nhát thứ ba như lời di
chúc cho các bổn đạo của ngài để họ bền chí trong đức tin, theo gương vị chủ
chăn của mình.
Cuộc đời tông đồ và
cái chết tử đạo của Đức Cha An được kể vì gắn liền với đời tông đồ và cái chết
tử đạo của Mười Hai Tông Đồ xưa. Mỗi giám mục đều là người kế vị các tông đồ
của Đức Giêsu. Chính Người gọi từng người môn đệ (Mc 1,16-20). Từ số các môn đệ
ấy, Người tuyển chọn Nhóm Mười Hai (3,13-19) để Nhóm này ở lại bên Người hầu
được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để họ trở nên những người được Đức
Giêsu sai đi như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay (6,7-13). Họ có sứ mạng khử
trừ các thần ô uế (c.7), đó là điều chính yếu. Nhưng họ còn được hướng dẫn về
cách ăn vận, về đồ vật nào được mang theo, về nơi nào nên ở lại, về cách xử trí
khi bị khước từ… Điều quan trọng là họ phải trở nên nhẹ nhàng cho việc di
chuyển và phải đặt mình dưới sự săn sóc của Thiên Chúa.
Điều mà Tin Mừng Máccô
gợi ý đối với các Kitô hữu xưa cũng như nay là chính họ cũng cần ở lại bên Đức
Giêsu để được Người huấn luyện. Đức Giêsu hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi
vẫn là một (Dt 13,8). Chính Người đứng đầu Giáo Hội. Người điều khiển mọi người
nhờ Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh là Đấng làm vang lên tiếng gọi của Đức
Giêsu nơi những tâm hồn quảng đại. Chúa Thánh Linh cũng là Đấng làm cho cuộc
huấn luyện các môn đệ vẫn còn tiếp tục trong Giáo Hội. Thư Do Thái nói rõ tính
chất của cuộc huấn luyện đó khi nói "Anh em hãy nhớ đến những người lãnh
đạo của anh em, họ là những người làm cho anh em được nghe lời của Thiên Chúa
và hãy xem cuộc đời của họ kết thúc như thế nào, để noi theo lòng tin của
họ" (Dt 13,7).
Vậy bài Tin Mừng hôm
nay đi đôi với cái chết tử đạo của các thánh tông đồ cũng như của các vị kế
nghiệp Nhóm Mười Hai như trường hợp Đức Cha An, phải trở nên sức mạnh củng cố
ta trong đức tin và thăng tiến ta trong đức ái nhằm vinh danh Chúa hơn. (Lm
Augustine sj, Vietcatholic 2001)
6. Chuyện minh họa
a/ Đóng góp
Một vị Thị trưởng mở một Lễ
hội lớn và mời mọi thị dân đến dự. Phần thức ăn thì vị Thị Trưởng hứa cung cấp
đầy đủ. Phần rượu thì ông kêu gọi mỗi người khi đến dự hãy mang theo một chai,
đến đổ vào một thùng rất lớn rồi mọi người sẽ uống chung.
Tới ngày Lễ hội, ai nấy đều
mang chai rượu mình đến đổ vào thùng. Khi mọi người đổ xong, vị Thị trưởng cầm
ly đến múc từ trong thùng ra, rồi nâng ly tuyên bố "Lễ Hội chính thức bắt
đầu".
Tuy nhiên khi ông Thị Trưởng
uống, thì ôi thôi chỉ toàn là nước ! Bởi vì ai cũng nghĩ rằng người ta sẽ
mang rượu thật đổ vào đấy, chỉ một chai nước của mình thì có làm loãng bao
nhiêu đâu ! Thế là Lễ Hội thất bại thê thảm, chỉ vì sự tiêu cực và ích kỷ
của thị dân.
Chúa mời gọi chúng ta cộng
tác vào công trình của Ngài. Chúng ta hãy là những người tích cực chứ đừng tiêu
cực như những thị dân trong chuyện trên. Chúng ta đừng chỉ biết nhận mà cũng
hãy biết cho.
b/ Trang bị đầy đủ
Một chàng hiệp sĩ chuẩn bị
làm một chuyến viễn du. Chàng tính trước tất cả mọi tình huống có thể xảy ra,
để trang bị tất cả những điều cần thiết để đối phó.
Chàng mang theo một thanh
gươm và một bộ áo giáp để sẵn sàng chiến đấu với quân thù. Chàng mang thêm một
bình dầu chống nắng để thoa lên da phòng khi phải đi giữa trời trưa nắng gắt.
Lại mang thêm một cái rìu để đốn củi đốt lên phòng lúc đi lạc ban đêm trong
rừng. Chàng còn mang thêm một cái lều và rất nhiều chăn mền phòng khi gặp tiết
trời trở lạnh. Lại có cả nồi niêu xoong chão để nấu nướng kẻo có lúc không gặp
được quán ăn. Và chàng cũng không quên chở theo mấy bao ngũ cốc cho con ngựa vì
sợ dọc đường không mua được. Và với những hành trang rất đầy đủ đó, chàng bắt
đầu lên đường.
Nhưng mới đi được một khoảng
thì gặp một chiếc cầu cũ kỹ lung lay. Chàng mới đi được đến giữa cầu thì chiếc
cầu gãy sụp vì không chịu nổi sức nặng của mớ hành lý. Thế là anh chàng hiệp sĩ
chết đuối mà không hoàn thành được cuộc hành trình đã dự định.
Khi Đức Giêsu sai 12 tông đồ
ra đi truyền giáo, Ngài căn dặn họ một mặt đừng mang nhiều hành trang, mặt khác
hãy phó thác cho Chúa Quan Phòng. Muốn hành trình đi xa thì hành trang phải nhẹ
nhàng. Tuy nhiên ra đi với hành trang nhẹ nhàng đòi hỏi phải có đức tin vững
chắc.
c/ Chúng ta là công cụ của
Chúa
Một ngày mùa đông, một người
bộ hành bắt gặp một cậu bé đang ngồi ăn xin ở dạ cầu. Cậu bé vừa lạnh run vừa
rất đói. Người bộ hành cảm thấy bất nhẫn nên nói với Chúa :
- Thưa Chúa, sao Chúa không
làm gì hết để giúp cậu bé này ?
Chúa đáp :
- Ta đã làm rồi chứ.
Người bộ hành rất ngạc nhiên
trước câu trả lời ấy nên vặn lại :
- Nhưng dù Chúa có làm gì đi
nữa thì xem ra chẳng có hiệu quả gì cả.
- Ta đồng ý.
- Nhân tiện, xin mạo muội
hỏi Chúa một câu nữa : Chúa đã làm gì nào ?
- Thì Ta đã tạo dựng nên con
đó.
Chúng ta là dụng cụ Chúa
dùng để lo cho người khác, và chúng ta có trách nhiệm về hạnh phúc của người
khác.
d/ Ánh sáng của Chúa
Ở thành phố Dallas, bang
Texas Hoa Kỳ, có một cặp vợ chồng thất nghiệp hàng ngày đi lượm những lon bia
và lon nước ngọt để bán lại kiếm tiền sinh sống. Một hôm, đang khi tìm kiếm
trong những thùng rác, họ gặp được một cảnh rất đau lòng, đó là một đứa bé bị
cha mẹ vất bỏ và đã chết trong thùng rác. Họ báo cảnh sát để tìm cha mẹ đứa bé.
Nhưng chẳng tìm ra. Cũng chẳng ai đứng ra lo chôn cất đứa bé xấu số ấy. Thế là
hai vợ chồng nghèo này quyết định làm việc đó. Họ lấy hết số tiền đang có để
mua một chiếc quan tài nhỏ và một bó hoa, rồi đưa tiễn đứa bé tới nơi an nghỉ
cuối cùng. Có thể nói, những giọt lệ của họ trước nấm mồ của đứa bé cũng thánh
thiện như những giọt lệ Đức Giêsu đã đổ ra trước nấm mồ của Ladarô.
Để trở thành ánh sáng tỏa chiếu
trong thế giới tối tăm này, chúng ta không cần phải có nhiều tiền, mà chỉ cần
có một tấm lòng biết hướng tới người khác.
V. Lời nguyện cho mọi
người
Chủ tế : Anh chị em
thân mến, Đức Giêsu đã sai 12 tông đồ đi loan báo Tin mừng. Chúng ta đã lãnh
nhận bí tích Rửa tội và Thêm sức nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cũng
được sai đi để Tin mừng hóa anh chị em đồng bào chúng ta. Chúng ta hãy dâng lời
cầu nguyện :
1. Hội thánh có sứ vụ loan báo Tin mừng cho mọi
dân tộc mút cùng trái đất / Xin cho các giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân trong Hội
thánh luôn hăng say thi hành sứ vụ Chúa đã trao phó / dầu gặp thuận lợi
hay bất cứ khó khăn nào.
2. Nhiều nhà cầm quyền trên thế giới còn hạn chế
cấm đoán, và bách hại các sứ giả Tin mừng của Chúa / Xin cho họ biết dẹp
bỏ mọi thành kiến sai lầm / vì việc Tin mừng hóa chỉ nhằm mục đích đem lại
hạnh phúc thật cho con người.
3. Chung quanh chúng ta còn rất nhiều người chưa
biết Tin mừng của Chúa / còn sống trong mê tín dị đoan hoặc nô lệ vật
chất / Xin cho họ sớm được nghe biết Tin mừng giải phóng của Chúa.
4. Nhiều giáo hữu trong họ đạo chúng ta còn dửng
dưng và chẳng quan tâm gì đến nhiệm vụ truyền giáo / Xin Chúa cho họ biết
cầu nguyện và góp công góp của cho việc truyền giáo của Hội thánh.
Chủ tế : Lạy
Chúa, xin cho mọi Kitô hữu chúng con biết nghe theo lệnh truyền của Chúa, để
sẵn sàng cộng tác bằng bất cứ cách nào có thể, cho mọi người được nghe biết và
đón nhận Tin mừng của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha :
Khi cùng với Đức Giêsu dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha trên trời, chúng ta hãy
đặc biệt xin cho Nước Cha trị đến.
VII. Giải tán
- Thánh lễ đã xong. Đây là
lúc Chúa sai chúng ta đi. Chúng ta hãy mang tinh thần Tin Mừng của Chúa đến cho
tất cả mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ trong tuần này.
Bài đọc thêm
A. Người nhận thư
Về người nhận thư, ta phải
lưu ý tới 3 điều bất thường sau :
1. Êphêxô là thủ phủ của
Tỉnh hạt Asia (Tiểu Á), là một thành phố lớn, lại là nơi Phaolô thường xuyên
lui tới và cư trú trong 1 thời gian lâu. Do đó có thể nói Êphêxô được Phaolô
thân thiết hơn mọi giáo đoàn khác. Thế mà giọng điệu thư này có vẻ chung chung
(impersonnel) chứ không có gì là thân thiết cả.
2. Trong số các bản chép tay
thư này, một vài bản chép câu 1,1 là "... kính gởi hàng thánh hữu
ở Laođixê"
3. Vài bản khác lại chép bỏ
trống : "... kính gởi hàng thánh hữu ở..."
Vì 3 điểm bất thường trên
nên có nhiều giả thuyết về người nhận thư :
a/ Là giáo đoàn Laođixê.
b/ Là một bức thư chung viết
sẵn để muốn gởi đến giáo đoàn nào cũng được.
c/ Chúng ta theo giả thuyết
của W. Harrington : đây là thư gởi trực tiếp cho giáo đoàn Êphêxô. Nhưng
vì Êphêxô còn là thủ phủ của tỉnh hạt Asia rộng lớn, có nhiều liên hệ với các
giáo đoàn khác trong tỉnh hạt (có thể coi đây là trung tâm của vùng truyền
giáo), nên cũng gián tiếp gởi cho các giáo đoàn kia nữa. Nghĩa là qua trung
gian Êphêxô, Phaolô cũng muốn nói với các giáo đoàn kia. Tóm lại, đây là một
thư luân lưu cho nhiều giáo đoàn mà Êphêxô là người nhận đầu tiên.
Giả thuyết này cắt nghĩa
được tất cả 3 điều bất thường trên : giọng điệu chung chung vì viết cho
nhiều giáo đoàn ; những chỗ bỏ trống là để cho Êphêxô khi muốn gởi cho
giáo đoàn nào khác thì điền tên giáo đoàn ấy vào ; "tại
Laođixê" vì đó là một bản gởi đến Laođixê.
B. Hoàn cảnh
Thư này có nhiều điểm giống
với thư gởi giáo đoàn Côlôxê :
- Viết lúc Phaolô đang bị
cầm tù ở Rôma
- Nội dung tương tự nhau
- Cùng do một người mang đi
là Tychique.
Chúng ta biết có hai thư
khác của Phaolô cũng tương tự nhau là thư Galát và thư Rôma : khởi đầu
Phaolô viết cho giáo đoàn Galát để giải quyết vụ "khủng hoảng Galát"
(muốn được cứu rỗi thì ngoài niềm tin vào Đức Kitô còn phải giữ thêm luật lệ do
thái nữa mới "chắc ăn"). Sau đó vì thấy vấn đề có tầm quan
trọng đối với các giáo đoàn khác nữa nên Phaolô viết thêm một thư nữa gởi
giáo đoàn Rôma : nội dung tương tự nhưng giọng điệu bình tĩnh hơn chứ
không có tính bút chiến như thư đầu.
Hai thư Côlôxê và Êphêxô
cũng vậy : cũng có một cơn khủng hoảng được gọi là "khủng hoảng
Côlôxê" (không vững lòng khi chỉ tin vào Đức Kitô, nên tin thêm nhiều điều
nữa từ do thái giáo, ngoại giáo và những ý tưởng của thuyết tiền ngộ đạo, tạo
thành một thứ tín ngưỡng thập cẩm). Lúc đầu Phaolô viết cho Côlôxê. Sau đó,
thấy vấn đề quan trọng nên lấy lại đề tài này viết một thư luân lưu và gởi đến
Êphêxô trước, bàn vấn đề 1 cách sâu rộng và bình tĩnh hơn. Cha Benoit nhận
định : "Synthèse des épitres précédentes, notamment de
romains et de colossiens, elle représente comme l'apogée de la pensée
paulinienne" (là tổng hợp các thư trước, đặc biệt là thư Rm và
thư Cl, thư này (Ep) như là đỉnh cao của tư tưởng Phaolô). Đúng vậy, thư Rm đã
sâu và rộng hơn các thư trước, thư Ep còn sâu rộng hơn nữa, nó là tuyệt đỉnh
của tư tưởng Phaolô.
C. Nội dung
Thư này có phần giống với
thư Gl, Rm và Cl ở chỗ giải quyết một cơn khủng hoảng đức tin và sau đó triển
khai 1 chủ đề thần học :
- Nhân cơn khủng hoảng
Galát, Phaolô triển khai vấn đề và dẫn tới một ý tưởng then chốt :
"người ta được công chính hóa nhờ đức tin chứ không phải nhờ lề luật".
- Nhân cơn khủng hoảng
Côlôxê, Phaolô triển khai vấn đề và tiến tới một bước xa hơn nữa :
"Đức Kitô là tất cả và nơi tất cả mọi người"
- Thư Ep này còn tiến xa hơn
nữa : niềm tin vào Đức Kitô được thể hiện trong Giáo Hội.
Sở dĩ Phaolô đề cao Giáo Hội
vì, theo ông, ý định huyền diệu của Thiên Chúa an bài từ muôn thuở và giấu kín
qua bao đời đã được thi hành trong Đức Kitô, mặc khải cho các tông đồ triển
khai trong Giáo Hội.
Chính vì thế, người ta đã
đặt cho thư Ep này thêm một biệt danh : thư bàn về Giáo Hội (l'épitre de
l'Eglise). Phaolô gọi Giáo Hội bằng nhiều tên : Thân thể Chúa Kitô, Ngôi
nhà của
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa
Nhật XV Thường Niên (B)
Chúa Nhật, 12 Tháng 7, 2015
Sứ vụ của Nhóm Mười Hai
Mc 6:7-13
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy
Cha, xin ban cho chúng con có thể nhìn thấy được trong Con Cha khuôn mặt tình
yêu của Cha, Lời của ơn cứu rỗi và lòng thương xót, để chúng con có thể theo
Người với tâm hồn quảng đại và rao giảng về Người trong lời nói và việc làm cho
các anh chị em chúng con là những kẻ tìm kiếm Nước Trời và công lý của
Người. Xin Cha hãy đổ đầy Chúa Thánh Thần trên chúng con để chúng
con có thể chăm chú lắng nghe và để lời chứng tá của chúng con có thể được xác
thực và trôi chảy, ngay cả trong những lúc khó khăn và những khi chúng con
không hiểu thấu. Chúng con cầu xin Cha là Đấng hằng sống hằng trị đến
muôn thuở muôn đời. Amen.
2. Bài Đọc
a) Bối Cảnh:
Sau khi thu nhận Nhóm Mười Hai (trong ý nghĩa “tổ chức”) (Mc
3:13-19), Chúa Giêsu đi giảng dạy và chữa lành như là một phần của sự huấn
luyện cho các ông. Giờ đây là lúc để các ông thực hành công khai lần đầu
tiên: như là kinh nghiệm đầu tiên, các ông phải ra đi và công
bố. Từng hai người một, các ông đi vào trong dân chúng với những
nhiệm vụ, mà trong đó Máccô cho là khá đơn giản: một lời công bố
tổng quát để hoán cải và các việc thần diệu khác nhau để chống lại sự
dữ. Chúa Giêsu đã không để cho việc khước từ mãnh liệt trong làng Nagiarét
làm Người khiếp đảm, sự thật đầu tiên được gợi nhớ lại bởi Máccô ở đoạn Mc
6:1-6. Người đã không đình chỉ sứ vụ của mình bởi vì tâm trí khép kín của
chúng ta không thể ngăn cản được Người.
Hai sách Phúc Âm Nhất Lãm khác (Mt 10:1-42; Lc 9:1-10) kể lại
chi tiết với độ chính xác hơn về các nhiệm vụ và sự thách đố mà Nhóm Mười Hai
sẽ đối diện. Tuy nhiên, trong tất cả các sách Tin Mừng, điều quan
trọng đáng lưu ý là sứ vụ xuất phát từ Chúa Giêsu và chỉ sau khi các ông đã học
hỏi nơi Người về cách thức và nội dung. Con số “mười hai” – thường
được lặp lại nhiều lần trong việc nối kết với nền tảng của cộng đoàn mới, thậm
chí đến những vinh quang của Khải Huyền – biểu hiện sự liên tục, nhưng cũng là
sự vượt qua khỏi nền kinh tế cần kiệm trước đó. Việc sai đi “nhóm
hai người một” phải được hiểu theo tâm lý người Do Thái chỉ chấp nhận sự làm
chứng được đưa ra bởi một “cộng đoàn” (ít ra là nhỏ bé nhất) và không phải bởi
một cá nhân.
b) Phúc Âm:
Người
đi rảo qua các làng chung quanh và giảng dạy. 7 Khi
ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các
ông có quyền trên các thần ô uế. 8 Và Người truyền các ông
đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền
trong túi, 9 nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. 10 Người
lại bảo: "Đến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra
đi. 11 Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các
con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ". 12Các
ông ra đi rao giảng sự thống hối. 13 Các ông trừ nhiều
quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
3. Giây phút cầu nguyện thinh lặng
Để đọc lại Lời Chúa với lòng trí chúng ta và
để nhận ra trong những từ ngữ và cấu trúc, sự hiện diện mầu nhiệm của Thiên
Chúa hằng sống.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để nhìn thấy những điểm quan trọng trong văn
bản và bắt đầu thấm nhuần chúng.
a) Trong Tin Mừng của Máccô, tại sao việc đuổi trừ các
thần ô uế lại quan trọng như vậy?
b) Ý nghĩa của việc khẳng định về sự thiếu thốn các
phương tiện là
gì?
c) Nội dung của lời công bố đầu tiên này là gì?
d) Tại sao Chúa Giêsu đặt sự khó nghèo, lòng can đảm và
sự tự do lại cùng với nhau?
e) Tại sao việc công bố phải được luân lưu và không cố
định một nơi?
f) Các sách Tin Mừng Nhất Lãm khác giải thích cặn kẽ
hơn về điều gì?
5. Đào sâu vào bài đọc
“Người bắt đầu sai từng hai người đi”
Sứ vụ của các môn đệ không xuất phát từ sự
nhiệt tình cá nhân hoặc từ một mong muốn nổi danh. Nó bắt đầu khi
Chúa Giêsu nghĩ rằng các ông đã sẵn sàng để rao giảng, dựa trên những gì các
ông đã nghe và hiểu thấu. Theo thánh Máccô, sau khi các ông đã thấy
nhiều phép lạ, nghe được một số giáo lý, quan trọng trong số những giáo lý là
chủ đề hạt giống được lớn lên trong nhiều cách; các ông cũng đã hỗ trợ tại một
số cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các người lãnh đạo.
Các ông đã nhờ cậy vào cách thực hành chữa
lành của Chúa Giêsu, lời kêu gọi hoán cải của Người, sự sẵn lòng di chuyển đi
lại giữa dân chúng của Chúa, việc rao giảng lưu động của Người. Các
ông chắc chắn chưa đủ chín chắn. Dưới sự giám sát của Chúa Giêsu,
các ông sẽ tìm hiểu và cải tiến cho tốt hơn: các ông sẽ nghĩ ra được
những từ ngữ thích hợp và cử chỉ cho đúng cách. Các ông sẽ trải
nghiệm rằng lòng nhiệt thành đến từ sự thành công tuyệt vời, nhưng cuối cùng,
các ông sẽ phải tiến xa hơn ngay cả khi sự tập trung của các ông trên các phép
lạ để loan báo về cái chết và sự sống lại của Đấng Cứu Thế.
“Người cho các ông quyền năng trên các thần ô
uế”
Điều này liên quan đến việc “trừ quỷ” mà Chúa
Giêsu cũng thực hành: do đó, các ông cũng được ủy quyền và được phép
dùng quyền năng tương tự. Đối với Máccô, nó gần như
có vẻ rằng đây là hoạt động chính vào thời ấy; trên thực tế, ông tập trung vào
khía cạnh này của Chúa Giêsu như là “người có phép thần thông” và là Đấng xua
đuổi quỷ dữ.
Chúng ta cần phải hiểu rằng “thần ô uế” có
nhiều ý nghĩa: các bệnh tâm thần, các hình thức của bệnh động kinh,
các lực hủy hoại tinh thần, sức mạnh nô dịch hóa của luật lệ, mọi hình thức của
tình trạng khiếm khuyết tâm thần, dị dạng thể chất, v.v.
Quyền năng được thực hiện trong việc đi giữa
những người đau khổ này, chấp nhận sự thách đố đối với đức tin vào Thiên Chúa
được tạo ra bởi những thách đố này, chấp nhận sống trong tình đoàn kết, chấp
nhận phẩm giá của mỗi con người. Chúng ta không nên nhầm lẫn “không tinh
tuyền” với sự không trong trắng về tính dục hay pháp lý. Đó là vấn
đề “tinh tuyền” như nhãn quan của Thiên Chúa, đó là, lòng yêu thương, tình đoàn
kết, công lý, lòng thương xót, sự hợp tác, chào đón, v.v. Đây là lý
do tại sao Nhóm Mười Hai sẽ phải kêu gọi “hoán cải” khỏi những thành kiến, sự
cố chấp và những hình thức “không trong sạch” này để sống như con cái Thiên
Chúa.
“Không mang gì cho cuộc hành trình, ngoại trừ
cây gậy…”
Sứ vụ của các ông là phải đi khắp nơi, không
được dừng lại một chỗ; đó là, sứ vụ phải nên thường xuyên đi đây đó, những cuộc
gặp gỡ mới, tách biệt khỏi kết quả, tự do nội tại lẫn ngoại tại. Vì
thế, lời đề nghị được tìm thấy trong tất cả các sách Tin Mừng Nhất Lãm, thực
hành sự nghèo khó vật chất trong trang phục và cách ăn uống, trong an sinh và
các bảo đảm. Có lẽ cũng là một vấn đề của việc thiếu kinh
nghiệm: như bài thực hành đầu tiên, hành trình không được kéo dài,
và như thế, các ông phải đi với hành lý nhẹ nhàng, không cồng kềnh, chú tâm
nhiều hơn về tầm quan trọng của việc công bố hơn là củng cố kết quả.
Nhưng khi văn bản này được viết, tình hình
cộng đoàn của các môn đệ đã được phát triển và hiệp nhất rất
nhiều. Do đó, thuộc lòng những lời khuyên này không những chỉ giúp
cho việc nhắc nhớ lại về kinh nghiệm đầu tiên lý thú và mạo hiểm này, mà cũng
phải đương đầu với phong cách sống hiện tại và các phong tục của người ta vào
thời Chúa Giêsu, từ đấy đến nay thời gian đã quá lâu. Vì thế văn bản nhắm vào
việc ghi nhớ và vào động lực truyền giáo mới, ít lo lắng hơn về những nhu cầu
của sự thoải mái và an sinh.
“Khi ra khỏi đó, hãy phủi bụi chân …”
Những lời khuyên của Chúa đem hai khía cạnh
lại với nhau, mà chỉ dường như là sự đối chọi. Một mặt, các môn đệ
phải hoàn toàn sẵn sàng để gặp gỡ dân chúng, mà không cần bận tâm về việc hơn
thua hay sống còn. Các ông phải đi tìm những người bệnh – đó là,
những ai bị bệnh vì lý do cá nhân hay xã hội, bởi sự áp bức của luật lệ hoặc từ
sự dữ loài người – và giải thoát họ, đổ dầu an ủi lên họ, chữa lành những vết
thương tâm hồn và thể xác của họ. Tuy nhiên, mặt khác, các ông cũng
phải tránh chấp nhận bất kỳ một hình thức đạo đức giả và vô trách nhiệm của
những kẻ làm việc từ thiện.
Bên cạnh tổ chức từ thiện và chăm sóc cho
những người đau khổ, các ông cũng phải có can đảm vạch trần thói đạo đức giả,
đối mặt lại với những người có thiên kiến, và chấp nhận việc thất bại cá
nhân. Những nơi mà các ông không được đón nhận, các ông phải lìa bỏ
không hối tiếc hoặc lưỡng lự. Sự từ chối hoặc đạo đức giả khiến cho
việc rao giảng và làm chứng trở thành vô ích. Chúa đòi hỏi cần phải
có sự dừng lại dứt khoát và rõ ràng, một điều mà chính Chúa Giêsu có lẽ đã
không có nhiều trải nghiệm. Người luôn cố gắng trở lại và đối thoại,
khổ tâm vì trái tim khép kín của những người Biệt Phái và Luật
Sĩ. Người đã thách thức giáo lý xảo quyệt và ngoan cố của
họ. Tuy nhiên, bây giờ Người lại cắt đặt các môn đệ một đường hướng
không nên lãng phí thì giờ với những kẻ sẽ không đón nhận các
ông. Có lẽ, trong đề nghị này cũng có một sự thích nghi vời tình
trạng của cộng đoàn: các ông không nên hối tiếc trong việc tách rời
với cộng đoàn người Do Thái. Đã có một thái độ khép kín và một sự từ chối
hung hăng và dữ dội: Chúa Giêsu cũng đã tiên liệu rõ điều
này. Không cần phải đau buồn. Các ông phải đến với những
người khác và không được lãng phí thì giờ để cố gắng dành lại những gì đã không
thể có.
6. Thánh Vịnh 85
Hãy cầu nguyện cho công lý và hòa bình
Lạy CHÚA, xin tỏ cho chúng con thấy tình
thương của Chúa,
và ban ơn cứu độ cho chúng con.
Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán,
điều CHÚA phán là lời chúc bình an
cho dân Người, cho kẻ trung hiếu
và những ai hướng lòng trí về Người.
Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa,
để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta.
Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ,
hoà bình công lý đã giao duyên.
Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp,
công lý nhìn xuống tự trời cao.
Vâng, chính CHÚA sẽ tặng ban phúc lộc
và đất chúng ta trổ sinh hoa trái.
Công lý đi tiền phong trước mặt Người,
mở lối cho Người đặt bước chân.
và ban ơn cứu độ cho chúng con.
Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán,
điều CHÚA phán là lời chúc bình an
cho dân Người, cho kẻ trung hiếu
và những ai hướng lòng trí về Người.
Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa,
để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta.
Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ,
hoà bình công lý đã giao duyên.
Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp,
công lý nhìn xuống tự trời cao.
Vâng, chính CHÚA sẽ tặng ban phúc lộc
và đất chúng ta trổ sinh hoa trái.
Công lý đi tiền phong trước mặt Người,
mở lối cho Người đặt bước chân.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin hãy gìn
giữ các môn đệ của Con Chúa khỏi các con đường đến sự nổi tiếng dễ dàng, vinh
quang hão huyền, và xin hướng dẫn họ đến con đường của những người nghèo và
cùng khổ của trái đất, để họ có thể nhận ra được trong khuôn mặt của các người
ấy là khuôn mặt của Thầy mình và là Đấng Cứu Chuộc. Xin hãy ban cho
họ có mắt để nhìn thấy những con đường đưa đến hòa bình và đoàn kết; có tai để
nghe những lời cầu xin của lương tri và sự cứu rỗi của rất nhiều người đang đi
tìm kiếm bởi cảm xúc; xin hãy làm phong phú tâm hồn họ với lòng trung thành
quảng đại, một sự nhạy cảm và hiểu biết để họ có thể đi cùng con đường, là
những chứng nhân đích thực và chân thành cho sự vinh quang tỏa sáng trong sự
sống lại và chiến thắng của Đấng đã chịu đóng đinh. Chúa là Đấng hằng sống hằng
trị cùng với Đức Chúa Cha đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét