Trang

Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2015

Thượng Hội Đồng về Gia Đình, cuộc khủng hoảng hôn nhân và Phép Thánh Thể

Thượng Hội Đồng về Gia Đình, cuộc khủng hoảng hôn nhân và Phép Thánh Thể
Vũ Van An6/29/2015


Thượng Hội Đồng về Gia Đình năm 2015 sắp sửa nhóm họp vào Mùa Thu này. Văn Phòng Tổng Thư Ký của Thượng Hội Đồng, ngày 23 tháng 6 vừa qua đã công bố Tài Liệu Làm Việc. Bầu không khí chuẩn bị vì thế càng lúc càng sôi động. Thực ra, bầu không khí ấy đã sôi động ngay từ trước đó. Thực vậy, ngày 18 tháng 6, 2015, Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình đã cho đăng tải bài tham luận của Đức Hồng Y Ennio Antonelli, nguyên chủ tịch của Hội Đồng, nhiệm kỳ 2008-2012. Tham luận này cực lực chỉ trích đề xuất cho phép người Công Giáo ly dị và tái hôn dân sự được rước lễ. Nó cho biết nhiều điều rất hữu ích về “luật tiệm tiến” là điều Đức TGM Bruno Forte, Thư Ký Đặc Biệt của Thượng Hội Đồng, coi là chìa khóa để hiểu Tài Liệu Làm Viêc. Tựa của tham luận là “Cuộc Khủng Hoảng Hôn Nhân và Phép Thánh Thể”.

Đào tạo những gia đình Kitô Giáo gương mẫu

Trong phần nhập đề, Đức Hồng Y Antonelli tin rằng điều khẩn thiết chính của mục tiêu mục vụ hiện nay là đào tạo các gia đình Kitô Giáo gương mẫu, có khả năng làm chứng một cách cụ thể rằng hôn nhân Kitô Giáo là điều đẹp đẽ và có thể thể hiện trọn vẹn được. 

Theo ngài, trong bối cảnh văn hóa hậu Kitô Giáo ngày nay, các trách vụ cần thiết đối với việc chăm sóc mục vụ các gia đình phải như sau:

1. Giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên trong lý thuyết và thực hành về tình yêu theo Kitô Giáo, hiểu như việc hiến mình cho người khác và như một hiệp thông biết kính trọng các dị biệt;

2. Chuẩn bị hôn nhân kỹ càng cho các cặp đính hôn, để hôn nhân thành sự và sinh hoa trái, bằng những cuộc hành trình được xén tỉa phù hợp với tình huống tâm linh, văn hóa và xã hội khác nhau;

3. Tiếp tục đào luyện các cặp vợ chồng, nhất là các cặp vợ chồng trẻ, bằng các buổi gặp gỡ định kỳ xen kẽ vào các chương trình mục vụ hàng năm, do các tác nhân xứng hợp trình bầy (thí dụ các cặp vợ chồng có kinh nghiệm), và lưu tâm thích đáng tới các đóng góp của các cộng đoàn nhỏ, các phong trào và hiệp hội.

Nói thế rồi, Đức HY Antonelli thú nhận rằng chủ đề mà ngài quan tâm vừa khó khăn vừa quan trọng, đó là khả thể cho phép người ly dị tái hôn được rước lễ. Ngài muốn được góp một số suy nghĩ về chủ đề này để chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng sắp tới, với hai thái độ từng được Đức Phanxicô khuyến khích đó là parrhesia (mạnh dạn) và khiêm nhường: thành thực phát biểu tư tưởng và lắng nghe người khác một cách kính trọng và sẵn sàng tiếp nhận sự sửa sai huynh đệ hướng tới hồi tâm. Chỉ có thế, ta mới mong phong phú hóa cho nhau và cùng nhau hướng tới sự chân và sự thiện. 

Ngài muốn đề cập tới các vấn đề sau đây: bản chất gắn bó và hoàn hảo của các thực hành mục vụ đã được phép từ trước tới nay; các thay đổi được đề nghị và các luận bác đối với chúng; các yếu điểm của điều gọi là Luật Tiệm Tiến (law of gradualness) và các đề nghị nhằm đưa ra các tiêu chuẩn tổng quát đối với việc cho phép người ly dị tái hôn được rước lễ; tín lý đã được xác định vững vàng liên quan tới tính bất khả tiêu của hôn nhân Kitô giáo; tình yêu dâng hiến trong tương quan với tính thành sự của hôn nhân; phúc âm hóa chân chính cần thiết cho một việc tông đồ truyền giáo có hiệu quả. 

Các quan điểm tín lý và kỷ luật hiện hành 

Do ý muốn của Chúa Kitô, hôn nhân bí tích, một khi đã thành sự và hoàn hợp, thì bất khả tiêu. Mọi phân ly giữa vợ chồng đều chống lại ý muốn của Người. Bất cứ cuộc kết hợp mới nào của một người phối ngẫu ly thân đều bất hợp pháp và tạo nên một bất trật tự nặng nề và tồn lưu về luân lý; nó tạo ra một tình trạng mâu thuẫn khách quan với giao ước phu phụ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, đã được biểu tượng và thể hiện qua Phép Thánh Thể. Bởi thế, người ly dị và tái hôn không thể được phép rước lễ, trước nhất, bởi lý do thần học và sau đó, bởi trật tự mục vụ. “Giáo Hội tái khẳng định thực hành của mình, một thực hành đặt căn bản trên Sách Thánh, không cho phép những người ly dị tái hôn được rước Thánh Thể. Họ không thể được phép như thế do sự kiện: tình trạng và điều kiện sống của họ mâu thuẫn khách quan với sự kết hợp tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, một sự kết hợp vốn được biểu tượng và thể hiện qua Phép Thánh Thể. Ngoài điều đó ra, còn một lý do mục vụ nữa là: nếu những người này được phép rước lễ, các tín hữu sẽ bị dẫn vào lầm lạc và lẫn lộn về giáo huấn của Giáo Hội đối với tính bất khả tiêu của hôn nhân” (Familiaris Consortio, 84).

Việc không cho phép rước lễ này sẽ tiếp diễn suốt thời kỳ sống cuộc hôn nhân bất hợp pháp. “Nếu các người ly dị tái hôn theo dân luật, họ sẽ rơi vào một tình huống mâu thuẫn khách quan với lề luật Thiên Chúa. Thành thử, họ không thể rước lễ bao lâu tình huống này còn kéo dài” (Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo [SGLCGHCG],số 1650). Việc không cho phép này không kỳ thị người ly dị tái hôn nếu đem so sánh với các tình huống bất trật tự khách quan hay gương mù gương xấu công khai nặng nề khác. Bất cứ ai có thói quen văng tục phải cố gắng hết mình để sửa sai; bất cứ ai ăn trộm phải đền trả; bất cứ ai làm hại người lân cận, về vật chất hay tinh thần, đều cần đền bù thiệt hại. Không thực sự cam kết hồi tâm, sẽ không có xá tội theo bí tích và không được phép rước lễ. Không được phép như thế những ai “ương ngạnh trì chí trong tội nặng rõ ràng” (Giáo Luật, điều 915). Rõ ràng không thể có luật trừ cho những người ly dị tái hôn không chịu cam kết. 

Tuy nhiên, loại trừ khỏi rước lễ không có nghĩa là loại trừ khỏi Giáo Hội, chỉ có nghĩa một hiệp thông không đầy đủ với Giáo Hội mà thôi. Người ly dị tái hôn tiếp tục là các chi thể của Giáo Hội; họ có thể và nên tham dự vào đời sống và các hoạt động của Giáo Hội. Mặt khác, các tín hữu khác và đặc biệt các mục tử phải chào đón họ cách yêu thương, kính trọng, và quan tâm, cho họ tham dự vào đời sống Giáo Hội, khuyến khích họ làm việc thiện cách quảng đại, và tín thác vào lòng từ bi của Thiên Chúa. “Giúp người ly dị, và lo lắng quan tâm bảo đảm làm sao để họ đừng tự coi họ như bị tách biệt khỏi Giáo Hội, vì trong tư cách những người đã chịu phép rửa, họ có thể, và đúng hơn, phải tham dự vào đời sống Giáo Hội. Họ nên được khuyến khích lắng nghe lời Chúa, tham dự Hy Tế Thánh Lễ, kiên tâm cầu nguyện, đóng góp vào các công việc bác ái và các cố gắng cộng đồng cho công lý, dưỡng dục con cái trong đức tin Kitô Giáo, vun trồng tinh thần và thực hành thống hối và như thế, ngày ngày, van nài ơn thánh Chúa. Hãy để Giáo Hội cầu nguyện cho họ, khuyến khích họ, tự chứng tỏ mình là người mẹ từ nhân, và nhờ thế nâng đỡ họ trong đức tin và đức cậy. […] Với niềm tín thác vững vàng, Giáo Hội tin rằng những người bác bỏ giới răn của Chúa nhưng vẫn sống trong trạng thái này sẽ có khả năng nhận được từ Thiên Chúa ơn hoán cải và cứu rỗi, miễn là họ phải trì chí trong cầu nguyện, thống hối và bác ái” (Familiaris Consortio, 84).

Hai mươi sáu năm sau, các khẳng định về tín lý và mục vụ của Familiaris Consortio đã được Sacramentum Caritatis của Đức Bênêđíctô XVI củng cố, không thay đổi bao nhiêu (số 29). Thay vào đó, một số tiêu chí đã được phụ thêm vào một văn kiện khác của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tức Reconciliatio Poenitentia, được công bố sau Familiaris Consortio không lâu, và đã minh nhiên trích dẫn tông huấn này. Đức Giáo Hoàng nói tới các Kitô hữu rơi vào “các tình huống đặc biệt tế nhị và hầu như không thể thoát ra được”, trong đó có người ly dị tái hôn và những người sống trong “các tình huống bất hợp lệ”. Trong các trường hợp này, hai nguyên tắc bổ túc phải được tuân giữ: nguyên tắc “cảm thương và từ bi” và nguyên tắc “chân lý và nhất quán”. Dưới ánh sáng của hai nguyên tắc này, người ta có thể tiến tới “việc hoà giải trọn vẹn vào thời khắc chỉ có Đấng Quan Phòng mới biết”. “Chính vì dựa vào các nguyên tắc này, Giáo Hội chỉ có thể mời gọi những con cái nào của mình đang vướng vào các tình huống đau lòng này tiếp cận lòng thương xót của Chúa cách khác vậy, tuy nhiên không phải qua các bí tích thống hối và Thánh Thể cho tới lúc họ đạt được các thiên hướng đòi hỏi” (Reconciliatio et Poenitentia, 34).

Như thế, bất cứ ai nghiêm chỉnh cố gắng sống đúng theo con đường Kitô Giáo, chẳng sớm thì muộn, sẽ nhận được ơn hoán cải và hoà giải trọn vẹn, ngõ hầu lãnh nhận được các bí tích, hay ít nhất ơn cứu rỗi đời đời vào lúc kết thúc cuộc sống trần gian. Trong viễn tượng này, vững tin vào lòng thương xót và tôn trọng chân lý đã cùng được đưa vào việc hoà giải. 

Theo cùng văn kiện trên, nẻo đường dẫn tới việc hòa giải trọn vẹn cũng bao gồm “việc năng lặp đi lặp lại các hành vi tin, cậy, mến và thống hối càng làm hoàn hoảo bao nhiêu càng hay” (ibid.). Chúng là các hành vi riêng tư mà chỉ có Thiên Chúa mới biết và phán đoán. Có thể chúng không đạt được mức hoàn hảo cần thiết để công chính hóa người có tội, nhưng ít nhất, chúng giúp chuẩn bị cho việc này. Cũng có thể nói tương tự như thế về việc rước lễ thiêng liêng. Kiểu nói này có ý nói tới ước muốn được rước Thánh Thể hoặc nơi người đã được công chính hóa, nhưng không thể rước lễ bí tích vì các hoàn cảnh chẳng may xẩy ra, hay nơi người có tội vốn bị ngăn cản không được rước lễ bí tích vì tình huống luân lý của mình không tương hợp với Phép Thánh Thể. Nhờ ước muốn này, người trong trường hợp đầu nhận được sự gia tăng của ơn thánh hóa; người trong trường hợp sau nhận được sự trợ giúp để chuẩn bị cho mình được ơn hóan cải và công chính hóa trọn vẹn. Trong cả hai trường hợp, ước muốn chịu lễ đều tốt và lý tưởng để phát triển mối liên hệ với Chúa. 

Chủ trương mục vụ hiện hành vừa được trình bày trên đây liên quan trước nhất tới người ly dị và tái hôn. Nhưng Familiaris Consortio cũng đưa ra các lời dạy tương tự đối với những người sống chung mà không kết hôn (số 81) và các người Công Giáo chỉ kết hôn theo dân luật (số 82). Dù tình huống của họ có khác nhau, nhưng cách đối xử với họ gần như giống nhau: không cho họ được chịu các bí tích thống hối và Thánh Thể; hoan nghinh họ tham dự đời sống Giáo Hội; gần gũi họ một cách kính trọng, để hiểu biết họ trên căn bản cá nhân, và do đó, hướng dẫn và đồng hành với họ hướng về trạng thái sống hợp lệ. 

Tính hoàn hảo của thực hành hiện nay

Chủ trương hiện nay trong tín lý và kỷ luật của Giáo Hội đối với người ly dị tái hôn và những người sống chung rất nhất quán và đặt căn bản vững chắc trên Thánh Kinh và Thánh Truyền. Tuy nhiên, hiện đang có nhiều người không thấy thoải mái với nó. Nhiều cặp bất hợp lệ coi việc không cho rước lễ như là bị loại hoàn toàn ra khỏi Giáo Hội. Họ cảm thấy bị Giáo Hội hất hủi và không còn cảm nhận được sự gần gũi đầy xót thương của Thiên Chúa. Họ bị cám dỗ rời bỏ cộng đồng Giáo Hội và mất đức tin.

Hiển nhiên, phương thuốc đầu tiên là phải cố gắng hơn nữa để thực thi các chỉ thị khôn ngoan của Huấn Quyền. Ấy thế nhưng, một số người đề nghị nên thêm nhiều cách cụ thể và chuyên biệt hơn trong việc chăm sóc các cặp bất hợp lệ, để đem lại một tầm quan trọng lớn hơn và dễ thấy hơn đối với tư cách chi thể Giáo Hội của họ và để nâng đỡ cuộc sống thiêng liêng của họ cách hữu hiệu hơn. Một số trách vụ trong Giáo Hội, từ trước tới nay người ly dị tái hôn vốn bị cấm làm, nay có thể ủy thác cho họ, ngoại trừ những trách vụ đòi phải có một đời sống gương mẫu. Các buổi cử hành nhằm tăng tiến cuộc sống thiêng liêng của họ nên được tạo ra, cả cho người sống chung nữa. Có thể thay thế việc không cho rước lễ bằng việc chúc lành, như vốn làm với các Kitô hữu không Công Giáo. Đề xuất có tính thách thức hơn cả liên quan tới việc thiết lập một nẻo đường đặc biệt nhằm giúp họ biện phân và thể hiện ý muốn của Thiên Chúa tốt hơn ở trong đời: một nẻo đường có tính bản thân và chung chia trong các cộng đoàn nhỏ, một nẻo đường bao gồm suy niệm và đối thoại, cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa, Giáo Hội, gia đình và cam kết xã hội, cũng như phục vụ bác ái; một hành trình kéo dài nhiều thời gian, cho tới khi vượt qua được trạng huống không tương hợp với Thánh Thể, hoặc thậm chí cho tới lúc kết thúc cuộc sống dương gian, luôn sống tín thác vào lòng từ bi của Thiên Chúa và niềm hy vọng cuộc sống đời đời. Các gợi ý này và các gợi ý tương tự chắc chắn có những khía cạnh tích cực của chúng; nhưng chúng cũng có nguy cơ hạ nhục người ta và đẩy họ qua bên lề thành một loại người khác. Dù sao, cần phải khôn ngoan, kính trọng và quan tâm tế nhị.

Nhiều người than phiền rằng thực hành mục vụ hiện nay của Giáo Hội khi, một cách tổng quát, không cho các cặp bất hợp lệ rước lễ, đã không xem xét đủ điều gọi là “luật tiệm tiến” (“law of gradualness”) từng được chính Huấn Quyền nêu rõ (Xem Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, 34). Họ tự hỏi có thể đưa ra một số luật trừ nào đó hay không. Trước khi đề cập đến việc này, xin đi qua phần dưới trước đã.

Các đề nghị đổi mới

Đó là một thay đổi mục vụ lớn được các phương tiện truyền thông hết mình cổ vũ, và được công chúng cũng như nhiều người Công Giáo, cả giáo dân lẫn giáo sĩ, rất mong chờ. 

Phiên Đặc Biệt gần đây của Thượng Hội Đồng Giám Mục (5-19 tháng Mười, 2014) biến nó thành một chủ đề tranh luận sống động. 

“Khi cân nhắc một phương thức mục vụ đối với những người đã kết ước một cuộc hôn nhân dân sự, những người đã ly dị và tái hôn hay đơn giản chỉ sống chung với nhau, Giáo Hội có trách nhiệm giúp họ hiểu nền sư phạm của Thiên Chúa về ơn thánh trong đời họ và giúp đỡ để họ đạt tới sự viên mãn của kế hoạch Thiên Chúa dành cho họ. […] Các nghị phụ thượng hội đồng cũng xem xét khả thể cho phép người ly dị và tái hôn được chịu các bí tích thống hối và Thánh Thể… Đề tài này cần được xem xét thấu đáo, luôn nhớ tới việc phân biệt giữa một bên là tình thế tội lỗi khách quan và các hoàn cảnh giảm khinh, xét vì “việc có thể qui tội và trách nhiệm đối với một hành động nào đó có thể gia giảm, thậm chí còn bị triệt tiêu bởi ngu dốt, thiếu thận trọng, bị cưỡng ép, sợ sệt, bởi thói quen, các gắn bó vô trật tự, và nhiều nhân tố tâm lý hay xã hội” (Relatio Synodi, 25 v à 52).

Sự thay đổi mục vụ trên được gợi hứng bởi ý muốn làm cho Giáo Hội có tính chào đón và lôi cuốn hơn đối với nhiều người đang bị thương tổn bởi cuộc khủng hoảng hôn nhân rất phổ biến trong xã hội hiện nay, bằng cách tỏ cho họ và nọi người thấy lòng từ bi của Thiên Chúa một cách cụ thể, bằng cách thừa nhận các giá trị tích cực được coi là hiện diện trong việc sống chung bất hợp lệ, và bằng cách trình bầy Tin Mừng như một hồng ân hơn là một trói buộc. 

Các đề nghị có thế giá nhất không nghi vấn tính bất khả tiêu của hôn nhân Kitô Giáo. Thực thế, các đề nghị này cho rằng các tín hữu ly dị tái hôn nên tuyên xưng tính này, bằng cách thừa nhận rằng họ đã phạm tội vì đã phá bỏ sự kết hợp vợ chồng trước đây, xin sự tha thứ, và làm việc thống hối. Cuộc kết hợp thứ hai không được coi là cuộc hôn nhân tự nhiên, vì, đối với người đã chịu phép rửa, chỉ có một cuộc hôn nhân thành sự, đó là cuộc hôn nhân bí tích. Cũng thế, cuộc hôn nhân thứ hai không được coi là hợp giáo luật, vì, vì cuộc hôn nhân đầu bất khả tiêu, nên cuộc hôn nhân thứ hai tạo ra một cuộc đa hôn. Nói tổng quát, người ta thích nói tới một cuộc kết hợp không trọn vẹn, chỉ hầu như có tính hôn nhân, hay một cuộc sống chung, đặt căn bản trên một số giá trị nhân bản và Kitô Giáo (như tình âu yếm, dịu dàng, giúp đỡ lẫn nhau, chăm sóc con cái). Tuy nhiên, một số người công khai nói tới cuộc hôn nhân tự nhiên thứ hai, không có tính bí tích hay hôn nhân dân sự. Nói tóm lại, ngoài các thay đổi về ngôn từ, người ta tin rằng cuộc kết hợp thứ hai tương hợp với tính bất tiêu của cuộc hôn nhân đầu, ít ra trong một số trường hợp; thực sự, theo các đề nghị này, ta nên đánh giá nó như một vốn qúy (asset) cần được bảo vệ, và nên tự chế trong việc đòi hỏi những người liên hệ phải ly thân và tiết dục, là điều quá đáng, gây nhiều khó khăn.

Trong Kỳ Họp Đặc Biệt năm 2014, bộ phận các nghị phụ tỏ ra ủng hộ sự thay đổi này chỉ chấp nhận “phương thức cá nhân hóa nhiều hơn, cho phép lui tới trong trong một số tình huống và với những điều kiện định rõ” (Relatio Synodi, 52). Việc rước lễ chỉ được ban cho các tín hữu ly dị và tái hôn trong các trường hợp không thể nào trở lui được nữa, sau khi đã thanh thỏa mọi nghĩa vụ do cuộc hôn nhân đầu tạo ra và hoàn tất nẻo đường thống hối do vị giám mục giám sát.

Còn đối với các nhà chuyên môn, một số đưa ra giả thuyết cho rước lễ “phiến diện” (partial), tức trong các dịp đặc biệt, có ý nghĩa đặc biệt đối với cuộc sống bản thân hay cuộc sống gia đình, hay mỗi năm một lần vào dịp Phục Sinh. Rồi, một số nói rằng nên giới hạn kỷ luật mới vào những người ly dị và tái hôn dân sự mà thôi, loại trừ những người sống chung trên thực tế (de facto), những cặp có đăng ký và những người đồng tính sống chung với nhau. 

Bản thân Đức HY Antonelli thì nghĩ rằng việc hạn chế như trên không thực tiễn, vì những người sống chung đông hơn những người ly dị tái hôn rất nhiều. Cuối cùng, áp lực xã hội và luận lý học nội tại của sự việc chắc chắn sẽ áp đặt các ý kiến ủng hộ việc cho phép rộng rãi hơn. 

Các phản bác đối với việc cho phép những người sống chung bất hợp lệ rước lễ

Các mục tử có thế giá và các nhà chuyên môn có giá trị đã nêu ra nhiều phản bác đáng lưu ý chống lại các đề nghị đổi mới nhằm cách mạng hóa thực hành của Giáo Hội. 

1. Người ta nên thận trọng lưu ý tới nguy cơ phá hoại tính khả tín của huấn quyền giáo hoàng, vì Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI, trong mấy năm gần đây, đã nhiều lần và cương quyết loại bỏ khả thể cho các người tái hôn và sống chung lãnh nhận các bí tích. Cùng với thế giá của Đức Giáo Hoàng, điều này cũng làm yếu đi thế giá của toàn thể giám mục đoàn thế giới, là đoàn ngũ vốn chia sẻ cùng một chủ trương như thế trong nhiều thế kỷ qua.

2. Việc Giáo Họi chào đón các tín hữu ly dị tái hôn, và tổng quát hơn, những cặp bất hợp lệ, không nhất thiết đòi phải cho họ rước lễ. Đã đành, rước lễ cần thiết cho sự cứu rỗi; tuy nhiên, điều này không có nghĩa chỉ những ai rước lễ mới được cứu rỗi. Giáo Hội cũng cần thiết cho việc cứu rỗi, ấy thế nhưng điều này không hàm nghĩa chỉ những ai hữu hình thuộc về Giáo Hội mới được cứu rỗi. Thánh Thể là biểu thức tối cao nói lên sự hiệp thông với Chúa Kitô, để thánh hóa các cá nhân Kitô hữu và để xây dựng Giáo Hội. Đã đành mọi người chúng ta đều mắc lầm lỗi và không xứng đáng lãnh nhận Thánh Thể; nhưng có nhiều loại thiếu sót và bất xứng khác nhau. “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, là phạm đến Mình và Máu Chúa…là ăn và uống án phạt mình” (1 Cor 11:27.29). Giáo Hội nhất quán dạy rằng tội trọng khiến người ta không được rước lễ và muốn rước lễ lại thì phải xưng tội (xem Công Đồng Trent, DH 1647; 1641; SGLCGHCG, 1415).

Hơn nữa, cho phép rước lễ không phải chỉ là vấn đề thánh hóa cá nhân. Một Kitô hữu không Công Giáo hay thậm chí một tín hữu của một tôn giáo khác không có phép rửa, về phương diện thiêng liêng, có thể còn gần gũi Thiên Chúa hơn một người Công Giáo giữ đạo, dù họ không được phép rước lễ, vì đâu có hiệp thông trọn vẹn một cách hữu hình với Giáo Hội. 

Thánh Thể là đỉnh cao và nguồn suối của sự hiệp thông thiêng liêng và hữu hình. Tính hữu hình này là điều chủ yếu, vì Giáo Hội là một bí tích cứu rỗi và là dấu hiệu công khai của Chúa Giêsu, Cứu Chúa trong thế gian. Tuy nhiên, những người ly dị tái hôn và những người sống chung bất hợp lệ, rơi vào tình huống khách quan và công khai mâu thuẫn nghiêm trọng với Tin Mừng và tín lý của Giáo Hội

Trong bối cảnh văn hóa duy tương đối ngày nay, có nguy cơ tầm thường hóa Phép Thánh Thể và rút gọn nó thành một nghi thức xã hội hóa. Trong một số trường hợp, ngay những người không rửa tội cũng tiến tới bàn thánh, với ý định làm một cử chỉ lịch sự, và những người không tin vẫn đòi quyền được rước lễ tại các lễ cưới và an táng như một dấu chỉ tình liên đới với bằng hữu. 

3. Có thể ban Thánh Thể cho các người Công Giáo ly dị và tái hôn trong khi vẫn khẳng nhận tính bất khả tiêu của cuộc hôn nhân thứ nhất và không thừa nhận cuộc kết hợp thứ hai là hôn nhân thực sự (để tránh song hôn). Một chủ trương như thế có khác với lập trường của các Giáo Hội Chính Thống. Các Giáo Hội này cho phép những người ly dị ở tòa đời được kết hôn hợp giáo luật lần thứ hai (thậm chí cả lần thứ ba nữa), dù các cuộc hôn nhân sau có sắc thái thống hối hơn. Thực vậy, xét theo một số phương diện, chủ trương này còn nguy hiểm hơn, vì nó dẫn người ta tới chỗ thừa nhận việc sử dụng hợp pháp cơ năng tính dục ở bên ngoài hôn nhân, giống các cặp sống chung với nhau, là những cặp vốn đông hơn các người ly dị và tái hôn. Những người bi quan nhất thường nói rằng họ thấy trước điều này: cuối cùng người ta sẽ tin rằng việc sống chung trước hôn nhân, cả có đăng ký lẫn không đăng ký, là hợp pháp về phương diện luân lý, cả các liên hệ tính dục qua ngày (occasional), các cuộc kết hợp đồng tính và thậm chí cả đa ái (polyamory) và các cuộc kết hợp đa gia (multiple-family unions) nữa cũng thế. 

4. Người ta chắc chắn ước ao muốn thấy một thái độ tích cực được chấp nhận trong thừa tác mục vụ, qua việc “nhậy cảm đối với các khía cạnh tích cực của các cuộc hôn nhân cử hành bằng dân luật và, cả việc sống chung nữa, tuy có nhiều dị biệt hiển nhiên” (Relatio Synodi, số 41).

Các cuộc kết hợp bất hợp lệ chắc chắn có những giá trị nhân bản chân chính (thí dụ, tình âu yếm, giúp đỡ lẫn nhau, dấn thân chung cho con cái), vì sự ác luôn luôn lẫn lộn với sự thiện và không bao giờ hiện hữu trong một trạng thái nguyên chất. Tuy nhiên, ta phải tránh việc trình bầy các cuộc kết hợp này như tự chúng là các giá trị chưa hoàn hảo, vì thực sự có những bất trật tự nghiêm trọng. “Đừng để mình bị đánh lừa; những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu thần, ngoại tình, đĩ điếm nam hay thực hành đồng tính luyến ái, trộm cướp, tham lam, rượu chè, quen chủi bới, trộm cắp sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (1Cor 6:9–10).

Luật tiệm tiến chỉ ảnh hưởng tới trách nhiệm chủ quan của các cá nhân mà thôi, và không nên biến nó thành tính tiệm tiến của lề luật, bằng cách trình bầy sự ác như một sự thiện chưa hoàn hảo. Không hề có tính tiệm tiến giữa điều chân và điều giả, giữa điều thiện và điều ác. Dù không nên phán đoán lương tâm người ta, một điều chỉ có Thiên Chúa mới thấy, và phải đồng hành với họ một cách kính trọng và kiên nhẫn hướng tới sự thiện bao nhiêu có thể, Giáo Hội vẫn không thể không giảng dạy sự thật khách quan về thiện và ác, và chứng minh rằng mọi giới luật của Thiên Chúa đều là những đòi hỏi để có được tình yêu chân chính (xem Gl 5:14; Rm 13:8-10) và nhờ được ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ, tình yêu này có thể tuân giữ được các giới luật này và còn có thể vượt quá cả chúng nữa. Bởi thế, dù khó khăn, đức trong sạch vẫn có thể có đối với mọi người, phù hợp với bậc sống của họ: dù là người kết hôn, người độc thân hay người ly dị và tái hôn. Những người sau cùng vừa kể, dù vì con cái hay vì chính họ, mà không thể chấm dứt việc sống chung, thì ít nhất, cũng có thể nhận được ơn và sức mạnh để thực hành việc tiết dục, và sống mối tương quan bằng hữu và giúp đỡ lẫn nhau “như anh trai em gái”, không thực hành giao hợp tính dục, vốn chỉ dành cho hôn nhân và lên đặc điểm cho tình yêu phu phụ (xem Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, 84).

5. Nhận cho những người ly dị tái hôn và những người sống chung với nhau dự bàn tiệc Thánh Thể là dẫn người ta tới chỗ tách biệt lòng từ bi ra khỏi việc hoán cải, một việc không nhất quán với Tin Mừng.

Nếu thế, đấy là trường hợp duy nhất trong đó sự tha thứ không đòi phải hóan cải. Lòng từ bi của Thiên Chúa luôn dẫn người có tội tới chỗ hoán cải: nó không những giúp họ thoát hình phạt, mà còn chữa lành họ khỏi mặc cảm tội lỗi; nó chẳng liên hệ gì tới lòng khoan dung. Về phần Người, Thiên Chúa luôn ban ơn tha thứ; nhưng sự tha thứ này chỉ được tiếp nhận bởi những ai khiêm nhường, biết thừa nhận rằng mình có tội và đồng ý thay đổi lối sống của mình. Ngược lại, bầu khí duy tương đối và chủ nghĩa chủ quan đạo đức tôn giáo, mà ta đang sống trong đó hiện nay, cổ vũ việc tự công chính hóa chính mình, nhất là trong các lãnh vực xúc cảm và tính dục. Sự thiện là điều người ta coi như một phần thưởng và phù hợp với ý muốn tức khắc của họ. Trung thực và chính trực được gọi là chân chính, hiểu như tự phát (spontaneity). Đàng khác, đang có khuynh hướng giảm thiểu trách nhiệm cho người ta, bằng cách gán bất cứ thất bại nào cho việc điều kiện hóa của xã hội. Ý kiến đang tràn lan hiện nay là: nếu các cuộc hôn nhân thất bại, thì chính vợ chồng không có trách nhiệm hàng đầu nào mà đây là kết quả của tình hình kinh tế và các điều kiện nhân dụng, tính di động của công việc, đòi hỏi của nghề nghiệp; tóm lại, đây là lỗi của xã hội. Chuyện cũng dễ dàng là đổ lỗi cho người phối ngẫu kia và tự cho mình vô tội. Tuy nhiên, ta không nên bỏ qua sự kiện này: nếu một trong hai người phối ngẫu, đôi khi, có thể bị qui lỗi, thì trong cuộc kết hợp mới (bất hợp pháp), cả hai người đều chịu trách nhiệm, và điều này, trước nhất, khiến họ không được rước lễ, bao lâu cuộc kết hợp này còn kéo dài. Khuynh hướng xem xét cuộc kết hợp thứ hai một cách tích cực và chỉ qui tội cho việc ly thân trước đó không hề có bất cứ nền tảng thần học nào cả. Chỉ làm việc thống hối cho nó mà thôi thì không đủ. Cần thiết phải thay đổi đời sống. 

6. Thông thường, những người có cảm tình với việc cho phép người ly dị tái hôn và người sống chung được rước lễ tuyên bố rằng việc này không hề nghi vấn tính bất khả tiêu của hôn nhân. Tuy nhiên, quá bên kia ý hướng của họ, xét vì sự thiếu nhất quán về tín lý giữa việc cho phép họ rước lễ và tính bất khả tiêu của hôn nhân, điều này cuối cùng sẽ dẫn ta tới chỗ bác bỏ việc thực hành cụ thể một điều vốn tiếp tục được quả quyết trong nguyên tắc lý thuyết, với nguy cơ rút gọn cuộc hôn nhân bất khả tiêu thành một lý tưởng, rất có thể đẹp đẽ, nhưng chỉ một thiểu số may mắn mới có thể vươn tới. 

Về phương diện này, thực hành mục vụ được các Giáo Hội Chính Thống khai triển dạy ta nhiều điều. Các Giáo Hội này duy trì tín lý bất khả tiêu của hôn nhân. Tuy nhiên, trong các thực hành của họ, họ dần dần nhân thừa các lý do để tiêu hủy cuộc hôn nhân trước nhằm cho phép cuộc hôn nhân thứ hai (hay thứ ba). Hơn nữa, con số đơn xin rất cao. Hiện nay, bất cứ ai trình được văn kiện ly dị ở tòa đời cũng đều nhận được phép của Giáo Hội để tái hôn, không cần phải đi qua cuộc điều tra theo giáo luật và việc lượng giá vụ việc. 

Người ta cũng dễ thấy trước việc này: việc rước lễ của người ly dị và tái hôn và những người sống chung sẽ mau chóng được tổng quát hóa. Lúc ấy, nói tới tính bất khả tiêu của hôn nhân sẽ là điều vô nghĩa và việc cử hành bí tích hôn phối sẽ mất hết tính liên hệ thực tiễn của nó. 


Chân lý và trách nhiệm

Theo Relatio Synodi, tức bản tường trình sau cùng của THĐ năm 2014, vấn đề cho phép người ly dị và tái hôn rước lễ phải được nghiên cứu dưới ánh sáng của việc phân biệt giữa tình tạng khách quan của tội và trách nhiệm bản thân, là trách nhiệm có thể được giảm khinh hay triệt tiêu bởi nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài (xem Relatio Synodi, 52).

Huấn quyền của Giáo Hội dạy rằng có sự phân biệt giữa chân lý khách quan của sự thiện luân lý và trách nhiệm chủ quan của các cá nhân, giữa lề luật và lương tâm, giữa bất trật tự và tội lỗi. Huấn quyền này thừa nhận rằng có luật tiệm tiến trong trách nhiệm bản thân, trong khi không hề có sự tiệm tiến về luật trong chân lý của thiện và ác. 

“Nhưng con người, vốn được mời gọi sống theo kế sách khôn ngoan và đầy yêu thương của Thiên Chúa một cách có trách nhiệm, là một hữu thể lịch sử, ngày qua ngày, tự bồi đắp mình bằng rất nhiều quyết định tự do; và do đó, họ biết, họ yêu và họ thực hiện sự thiện luân lý qua các giai đoạn trưởng thành” (Thánh GH Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, 34).

Khả năng chủ quan biết, đánh giá và muốn sự thiện là của riêng mỗi người và được điều kiện hóa bởi nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài. “Việc quy lỗi và trách nhiệm về một hành động có thể được giảm bớt hay xóa bỏ do thiếu hiểu biết, sơ suất, do áp lực, sợ hãi, do thói quen, do tâm lý bất ổn, do các nhân tố tâm lý hay xã hội” (SGLCGHCG, số 1735).

Trách nhiệm thường phát triển từ từ. Tuy nhiên, người ta không thể “coi lề luật chỉ như một lý tưởng để đạt tới trong tương lai”; họ không thể nói tới tính tiệm tiến của lề luật “như thể có những mức độ hay hình thức giới điều khác nhau trong lề luật của Thiên Chúa dành cho các cá nhân và các tình huống khác nhau” (Thánh GH Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, 34). Luật luân lý buộc tất cả mọi người và không bao giờ bị coi như “một lý tưởng cần được thích ứng” với các khả thể cụ thể của con người (idem; Veritatis Splendor, 103). Nghĩa vụ làm điều thiện không có phân mức (gradation), nhưng khả năng làm nó thì phát triển từ từ. 

Để chỉ rõ sự phân biệt giữa chân lý khách quan của đời sống Kitô hữu theo Tin Mừng và trách nhiệm chủ quan của các cá nhân, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tạo ra một hình ảnh sống động được ngài dùng nhiều lần sau bài diễn văn tại Kinshasa, vào ngày 3 tháng Năm, 1980. Như thường lệ, Đức Giáo Hoàng khuyên các mục tử đừng hạ thấp ngọn núi, nhưng hãy giúp các tín hữu leo núi ấy bằng cách dẫn đường. Về phần họ, các tín hữu đừng có ngưng việc cố gắng đạt tới đỉnh núi; họ phải thành thực tìm kiếm cả điều thiện lẫn ý Thiên Chúa. Chỉ với thái độ nền tảng này, ta mới có thể khai triển được một nẻo đường tích cực để hoán cải và lớn lên, dù bước chân cá thể có thể ngắn và đôi khi đi lạc. “Điều cần là một cuộc hóan cải liên tục, vĩnh viễn, một cuộc hóan cải, trong khi đòi nội tâm ta phải xa lánh mọi điều ác và gắn bó với điều thiện trong tính viên mãn của nó, được tạo ra một cách cụ thể trong các bước chân dẫn ta tiến tới phía trước” (Familiaris Consortio, 9).

Đức GH Phanxicô dùng một âm sắc khác, nhiệt tình hơn, nhưng xét trong yếu tính, ngài cũng tiến theo cùng một đường hướng. “Trong khi vẫn không xa rời lý tưởng Tin Mừng, họ cần phải có lòng thương xót và kiên nhẫn để dõi theo và nâng đỡ các giai đoạn tăng trưởng khi chúng tuần tự diễn ra. Tôi muốn nhắc nhớ các linh mục rằng toà giải tội không phải là một buồng tra tấn nhưng là một nơi gặp gỡ lòng từ bi của Chúa, thúc đẩy chúng ta làm hết sức mình. Một bước đi nhỏ giữa những hạn chế to lớn của con người, có thể làm vui lòng Thiên Chúa hơn là một cuộc sống bề ngoài xem ra đúng mực nhưng ngày ngày không phải đối diện với những khó khăn to lớn nào. Mọi người cần được đánh động bởi sự an ủi và hấp dẫn của tình thương cứu độ của Thiên Chúa, đang hoạt động một cách nhiệm mầu trong mỗi người, vượt lên trên các sa ngã và lỗi lầm của họ” (Đức GH Phanxicô, Evangelii Gaudium, 44).

Trong viễn ảnh của luật tiệm tiến, ta có thể hiểu một lương tâm tốt lành và ngay thẳng có thể hiện hữu ra sao ngay trong một tình huống tội lỗi khách quan, ngay trong tác phong thiếu sót và vô trật tự. Một số người đơn giản làm ngơ điều này: một số tác phong là sai lạc; nhiều người khác biết rằng về lý thuyết, chúng xấu xa, nhưng bản thân lại không tin như thế; lại có nhiều người, dù nhìn nhận chúng là sự ác, nhưng lại không cương quyết xa lánh chúng. Chỉ có Thiên Chúa mới thấy được tâm hồn người ta và trực tiếp phán kết trách nhiệm luân lý của họ. Giáo Hội chỉ có thể làm việc biện phân, vì thái độ bên trong tự nó biểu lộ qua lời nói, hành động, thói quen và lối sống, dù chỉ phần nào. Trách vụ đầu tiên của Giáo Hội là dạy chân lý khách quan, vốn có giá trị đối với mọi người, và song song, ra qui luật cho đời sống bản thân và cộng đoàn của Kitô hữu. Còn về phần các tín hữu, mỗi cá nhân có bổn phận phải đồng hành với họ một cách kiên nhẫn hướng tới sự thiện mà họ vốn có khả năng, soi sáng các tình huống của họ ở trong đời, khuyến khích họ trì chí trong diễn trình hoán cải và trưởng thành, trong khi tôn trọng tự do lương tâm của họ và trao phó sự yếu đuối của con người cho lòng từ bi vô lượng của Thiên Chúa. 

Các vụ kết hợp bất hợp pháp của các cặp ly dị và tái hôn và những người sống chung là việc công khai và tỏ tường. Giáo Hội không nhìn nhận chúng, coi chúng như những tình huống tội lỗi khách quan. Nếu Giáo Hội nhìn nhận chúng, như thể chúng có thể tốt ở một lúc nào đó, là Giáo Hội đi trệch ra ngoài luật tiệm tiến mà bước vào tính tiệm tiến của lề luật, vốn bị Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kết án. Điều xấu không thể có lúc nào đó lại có thể tốt được. Ăn cắp không bao giờ trở thành hợp pháp cả, dù đối với những người đã quá quen thuộc với việc ăn cắp; văng tục chửi thề hiếm khi có thể trở thành hợp pháp, ngay đối với những người quá quen với việc văng tục chửi thề thường xuyên. Cũng nthế, các cuộc kết hợp hôn nhân bất hợp pháp không thể được biến thành tốt về phương diện luân lý bởi các điều kiện của những người ủng hộ việc cho phép người ly dị và tái hôn được rước lễ (như tình thế không thể nào đảo ngược được, chu toàn các nghĩa vụ cũ, hôn nhân dân sự, hoàn tất hành trình thống hối để đền trả sự bất trung trong cuộc hôn nhân thứ nhất, các giá trị nhân bản chân chính cảm nghiệm được trong cuộc kết hợp thứ hai).

Vì các cuộc kết hợp bất hợp lệ có tính công khai và tỏ tường, nên Giáo Hội cũng không thể im lặng hay khoan dung được. Giáo Hội bắt buộc phải công khai can thiệp để bác bỏ các tình huống tội lỗi khách quan ấy.

Ấy thế nhưng, về phương diện chủ quan, các người kết hợp có thể không chịu trách nhiệm hoàn toàn, vì chịu điều kiện hóa của cuộc sống, của văn hóa, của tâm lý và xã hội. Thậm chí rất có thể họ còn có ơn Chúa và có những thiên hướng cần thiết để lãnh nhận Thánh Thể. Tuy thế, ta không thể chỉ đơn giản giả thiết tất cả những điều ấy; cần phải biện phân chúng một cách thận trọng, theo luật tiệm tiến. Ta phải biện phân xem liệu những người sống chung có nhất định leo lên đỉnh núi, tức việc tiết dục, hay không. Chỉ khi nào có việc thành thực hóan cải này, thì bất cứ bước lầm lỡ hay tái phạm nào trong các liên hệ tính dục mới được giảm khinh. Sự giúp đỡ cần thiết cho việc leo núi khó khăn này tùy thuộc ở việc đồng hành có tính bản thân và việc tham dự vào đời sống Giáo Hội, như đã được chỉ ra trong 
Familiaris Consortio  Sacramentum Caritatis, là hai văn kiện sẽ được bổ túc nay mai nhờ các kết luận của Thượng Hội Đồng và giáo huấn của Đức GH Phanxicô.

Luật tiệm tiến rất có giá trị đối việc đồng hành có tính bản thân với các cá nhân. Các tiêu chuẩn chung để cho phép những người sống trong các tình huống bất hợp lệ rưóc lễ không thể được rút ra từ luật này, ngoại trừ bởi những người lẫn lộn luật này với tính tiệm tiến của lề luật vốn không thể chấp nhận được. Thực vậy, biện phân trách nhiệm chủ quan là một việc và nhận diện sự thiện khách quan có thể có nơi các cá nhân lại là một việc hoàn toàn khác. Việc đem người ta tới chỗ dần dần khắc phục được tình huống bất hợp lệ của họ, bằng cách nghiêm chỉnh hướng tới việc hoàn toàn tiết dục, khác với việc bảo họ cứ tiếp tục ở lại trong cuộc kết hợp bất hợp pháp, trong khi chỉ cho họ thấy cuộc kết hợp này còn có thể trở thành một sự thiện khả hữu đối với họ, trong một số điều kiện. Luật tiệm tiến dùng để biện phân các lương tâm, chứ không phải để xếp loại các hành động được coi như tốt nhiều hay ít, và càng không phải để nâng sự ác lên phẩm cách sự thiện chưa hoàn toàn.

Đối với người ly dị và tái hôn và những ai sống chung, thay vì cổ vũ các đề nghị đổi mới trên đây, nhiên hậu ta phải củng cố thực hành mục vụ truyền thống. Trách nhiệm chủ quan đối với bất cứ hành vi vô trật tự nào chỉ ít nhiều được giảm khinh nơi những người nghiêm chỉnh cố gắng tiết dục hoàn toàn và sống “như anh trai em gái”, dù đôi lúc, nếu không ngưng việc sống chung và rơi vào chỗ quá cận kề với dịp tội, họ có thể không giữ được cam kết một cách liên tục. 

Thái độ thông thường, cần thiết cho việc giảm khinh trách nhiệm bản thân, trong bản chất, cũng y hệt như thái độ, mà theo Thánh GH Gioan Phaolô II, có thể cho phép lãnh nhận bí tích hòa giải và rước lễ. “Ơn hòa giải trong bí tích thống hối, mở đường vào Phép Thánh Thể, chỉ có thể được ban cho những ai, sau khi thống hối vì đã phá bỏ dấu chỉ Giao Ước và lòng trung thành của Chúa Kitô, thành thực sẵn sàng bước vào lối sống không còn mâu thuẫn với tính bất khả tiêu của hôn nhân nữa. Trong thực hành, điều vừa nói có nghĩa: vì các lý do nghiêm túc, như dưỡng dục con cái, người đàn ông và người đàn bà không thể thỏa mãn nghĩa vụ ly thân, thì họ phải tự đảm nhận nhiệm vụ sống hoàn toàn tiết dục, nghĩa là, tránh các hành vi dành riêng cho các cặp hôn nhân” (Familiaris Consortio, 84).

Tính bất khả tiêu của cuộc hôn nhân bí tích 

Tính bất khả tiêu là hòn đá góc của toàn bộ vấn đề mục vụ cho phép những cặp bất hợp lệ rước lễ. Để nhất quán với tính bất khả tiêu này, thực hành truyền thống không cho phép họ rước lễ. Trái lại, vì nghĩ tới một sự tương hợp khả hữu nào đó, nên phần lớn các đề nghị đổi mới có thế giá sẵn sàng cho phép một cách hạn chế, trong một số trường hợp và với một số điều kiện. Không may, có những nhà thần học, vì một số quan điểm và phương pháp giải thích khác nhau, đã đi tới chỗ nghi vấn tính bất khả tiêu này. Đức HY Antonelli không có ý định nghiên cứu chi tiết vấn đề này ở đây. Ngài chỉ muốn nhắc lại một số chỉ dẫn. 

Trong Giáo Hội Công Giáo, thực hành mục vụ phải nhất quán với tín lý đức tin vốn có nền tảng vĩnh viễn trong Thánh Kinh và giáo huấn của Đức Giáo Hoàng và của các giám mục hiệp thông với ngài như tiêu chuẩn giải thích chính. Chân lý có thể từ từ xuất hiện trong ý thức của Giáo Hội, được Chúa Thánh Thần soi sáng, đến mức đôi khi được truyền dạy một cách không thể sai lầm. Việc khai triển tín lý chân chính diễn tiến bằng cách chú ý tới các viễn tượng và việc phát triển các tổng hợp mới, nhưng phải cùng đường hướng với các lập trường nhất định đã được đưa ra trước đây. Không bất động mà cũng không phân ly, nhưng trung thành một cách sáng tạo.

Giáo huấn của Chúa Giêsu về tính bất khả tiêu của hôn nhân và sự bình đẳng giữa đàn ông và đàn bà có tính cách mạng và khiến người Do Thái thời Người ngỡ ngàng (xem Mt 5:31-32; 19:3-10; Mc 10:2-12; 1Cor 7:2-5, 10-11, 39). Theo Luật Môsê, người chồng được phép ly dị vợ mình, bằng cách trao cho nàng tờ giải thoát, giúp nàng tự do tái hôn. Chúa Giêsu dứt khoát bác bỏ ly dị, nhắc lại kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa Hóa Công, trước cả Luật Môsê. Người coi hôn nhân như hồng phúc không thể đảo ngược của Thiên Chúa, một hồng phúc tạo ra một sợi dây không thể nào bẻ gẫy được và do đó có lệnh truyền tuyệt đối: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, không con người nhân bản nào được phân rẽ” (Mt 19:6; Mk 10:9). 

Sự hợp nhất này là một hồng phúc và là một bổn phận; nó là một ơn thánh và là một cam kết, và do đó, là điều có thể làm được. Bất cứ cuộc kết hợp nào sau khi ly thân đều bị kết án là ngoại tình, vì sợi dây của cuộc hôn nhân thứ nhất vẫn còn giá trị: “bất cứ ai ly dị vợ và cưới người khác là phạm tội ngoại tình chống lại nàng; và nếu nàng ly dị chồng và cưới người khác, nàng cũng phạm tội ngoại tình” (Mc 10:11–12). Ngay trong trường hợp ly thân, người ta cũng phải tránh một cuộc kết hợp mới là cuộc kết hợp sẽ bất hợp pháp: “tuy nhiên, đối với những người đã kết hôn, tôi cho chỉ thị này (tôi, chứ không phải Chúa): vợ không được tách ly khỏi chồng, và nếu tách ly, nàng phải hoặc ở độc thân hoặc phải làm hòa với chồng, và chồng không được ly dị vợ” (1 Cor 7:10–11).

Khi Chúa Giêsu cho rằng ngoại tình đã được Luật Môsê cho phép, điều này chắc gây phẫn nộ nơi những người Do Thái sùng đạo. Ấy thế nhưng, lập trường của Chúa Giêsu về ly dị, nói chung, đi ngược lại thực hành của các dân tộc cổ thời… Thành thử điều dễ hiểu là giáo huấn Tin Mừng đã từng và hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn đáng kể. 

Tin mừng Thánh Mátthêu dường như là tin mừng đầu tiên làm giảm nhẹ lệnh cấm ly dị nghiêm ngặt, bằng cách chêm vào lời lẽ của Chúa Giêsu câu này “trừ trường hợp dâm bôn (porneia)” (Mt 5:32; 19:9). Tuy nhên, câu này có thể giải thích nhiều cách, và người Công Giáo phải tránh các lối giải thích không tương hợp với tín lý Giáo Hội. Vì hạn từ porneia xem ra muốn chỉ một tình huống kéo dài hơn là hành vi ngoại tình (thường diễn tả bằng hạn từ moicheia) có tính giai đoạn, nên có thể giả định rằng luật trừ này có ý chỉ những cuộc kết hợp bất hợp lệ nghĩa là những cuộc hôn nhân bị Luật Môsê ngăn cấm và, do đó, bất thành sự (xem Lv 18:6-18; Cv 15:29). 

Về phía các Giáo Phụ, ta nên nhớ rằng chỉ những gì các ngài cùng nhất trí mới có tính qui định đối với người Công Giáo. Trong trường hợp ly dị, các ngài thừa nhận là hợp pháp việc vợ chồng ly thân với nhau, trong một số trường hợp, thậm chí, đôi khi còn bó buộc nữa (1); nhưng các ngài không bao giờ coi các cuộc kết hợp mới là hợp pháp cả và khi nói về những cuộc kết hợp này, các ngài đều kết án, coi chúng như ngoại tình. Về phương diện này, ngoài một số ít bản giải thích không chắc chắn ra, chỉ có một ngoại lệ chắc chắn đó là một vị mang danh Ambrosiaster. Vị này cho phép người ly thân được tái hôn. 

Còn về Khoản Luật 8 của Công Đồng Chung Nixêa, là khoản luật buộc Phái Novatianô (cấm tha tội trọng) phải “tiếp tục hiệp thông với những người kết hôn hai lần, và với những người chối đạo thời bách hại” (DH 127), ta nên xét xem liệu khoản luật này có ý nói tới những người góa vợ hay những người ly dị tái hôn.

Thực vậy, Phái Novatianô từng áp đặt lên người giáo dân một lệnh cấm chỉ áp dụng cho giáo sĩ (xem 1Tm 3: 2, 12; Tt 1:6), nghĩa là không được tái hôn khi góa vợ, và như thế, tự đặt họ vào thế trực tiếp kình chống Thánh Kinh, vì Thánh Kinh rõ ràng cho phép người giáo dân góa vợ được tái hôn (xem 1Cor 7:8-9, 28-40; Rm 7:2-3). Bơi thế, họ là lạc giáo về tín lý, chứ không chỉ quá cứng rắn trong thực hành mục vụ. Điều này khá rõ ràng, theo nhiều chứng từ khác nhau, trong đó có Thánh Augustinô: “Tình trạng góa vợ của anh em không phải là một kết án đối với cuộc hôn nhân thứ hai, cũng không phải đối với người kết ước hôn nhân. Học thuyết (tiêu cực) này được duy trì đặc biệt bởi các lạc giáo Montanô (khắc khổ và cấm tái hôn) và Novatianô […] Anh em đừng để anh em bị hướng dẫn ra ngoài học thuyết vững vàng bằng bất cứ luận điểm nào, dù là bác học hay không. Anh em đừng quá phóng đại công phúc của tình trạng goá vợ của anh em đến độ kết án người khác (làm) điều ác mà thực ra không phải là điều ác” (Về Sự Thiện của Tình Trạng Góa Vợ 4,6), tức việc tái hôn của những người góa vợ.

Nếu các tài liệu rời rạc mà chúng ta có được từ thiên niên kỷ thứ nhất không giúp ta giải thích được một số văn kiện, tình huống và giai đoạn, thì ngược lại, qua thiên niên kỷ thứ hai, tính bất khả tiêu được minh xác dứt khoát và được định nghĩa một cách rõ ràng trong lương tâm Giáo Hội, bằng các từ ngữ sau đây: hôn nhân bí tích, thành sự và hoàn hợp, biểu thức trọn vẹn của mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, không thể tiêu hủy, hoặc bằng ý muốn của các người phối ngẫu hoặc bằng sự can thiệp của Giáo Hội hay bằng bất cứ thẩm quyền nhân bản nào, mà chỉ bằng một mình sự chết mà thôi. Các thời điểm chính trong việc khai triển nhất quán về tín lý là Công Đồng Florence (DH 1327), Công Đồng Trent (DH 1805; 1807), Thông Điệp Casti Connubii của Đức Piô XI (DH 3712), Công Đồng Vatican II (Gaudium et Spes, 48 và 49), và Tông Huấn Familiaris Consortio (các số 13, 19, và 20) của Thánh GH Gioan Phaolô II.

Công Đồng Trent trực tiếp định nghĩa rằng dây hôn phối không thể bị tiêu hủy vì các lý do: lạc giáo, khó sống với nhau hay cố tình vắng mặt của 1 người phối ngẫu (Khoản Luật 5). Công đồng này cũng định rằng Giáo Hội sẽ không sai lầm khi dạy rằng ngay việc ly dị cũng không thể nại ra để tiêu hủy một cuộc hôn nhân và kết ước một cuộc kết hợp hợp pháp, không có tính ngoại tình mới (Khoản luật 7). 

Với công thức trên, Công Đồng muốn chấp thuận một cách gián tiếp, và phù hợp với Tin Mừng, tín lý và thực hành của Giáo Hội Công Giáo, để tránh cả việc kết án lẫn chấp thuận thực hành của các Giáo Hội Đông Phương. Các Giáo Hội này, trong khi thừa nhận tính bất khả tiêu nội tại của hôn nhân, nhưng lại cho rằng nó có thể bị giám mục tiêu hủy, để cho phép cuộc hôn nhân thứ hai, hoặc thậm chí cả cuộc hôn nhân thứ ba nữa. Tuy nhiên, sau đó, các Đức Giáo Hoàng đã lên tiếng nhiều lần để chỉnh sửa thực hành của Đông Phương (Đức Clêmentê VIII, Đức Urbanô VIII, Đức Bênêđíctô XIV, Đức Piô VII, Đức Grêgôriô XVI, và Chân Phúc Piô IX), cho tới lúc Đức Piô XI cương quyết tuyên bố rằng năng quyền tiêu hủy dây hôn phối “không bao giờ, vì bất cứ lý do nào, ảnh hưởng tới cuộc hôn nhân Kitô Giáo đã thành sự và hoàn hợp, vì hiển nhiên là ở đây, cuộc hôn nhân đã có được sự hoàn toàn trọn vẹn của nó, do đó, bởi ý muốn của Thiên Chúa, cũng có sự vững chắc và bất khả tiêu không thể bị tiêu hủy bời bất cứ thẩm quyền con người nào […] Vì, như Thánh Tông Đồ nói trong thư của ngài gửi người Êphêsô, hôn nhân của các Kitô hữu nhắc nhớ cuộc kết hợp hoàn hảo nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội […], một cuộc kết hợp mà bao lâu Chúa Kitô còn sống và Giáo Hội còn sống qua Người, sẽ không bao giờ có thể tiêu hủy bởi bất cứ sự phân ly nào” (DH 3712).

Trong diễn văn của ngài ngày 21 tháng Giêng năm 2000 với Tòa Án Tối Cao Rôma, Đức Thánh GH Gioan Phaolô II đã rất đúng khi kết luận rằng cuộc hôn nhân thành sự và hoàn hợp không thể bị tiêu hủy ngay cả với sự can thiệp của Đức Giáo Hoàng.

“Cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều không thừa nhận bất cứ năng quyền nào của Giám Mục Rôma trong việc tiêu hủy một cuộc hôn nhân đã thành sự và hoàn hợp; trái lại, thực hành không ngừng của Giáo Hội cho thấy Thánh Truyền biết rõ một thẩm quyền như thế không hề hiện hữu. Các phát biểu mạnh mẽ của các vị giám mục Rôma chỉ là tiếng vang trung thành và giải thích chân chính các xác tín vĩnh viễn của Giáo Hội mà thôi. Bởi thế, điều xem ra khá rõ ràng là: việc không nới rộng quyền của Giám Mục Rôma đối với các cuộc hôn nhân bí tích đã thành sự và hoàn hợp đã được huấn quyền của Giáo Hội truyền dạy như một tín lý phải tuân thủ dứt khoát, ngay cả khi nó không được tuyên bố cách long trọng bằng một hành vi định nghĩa. Thực vậy, tín lý này đã được các vị giám mục Rôma minh nhiên đề xuất bằng những hạn từ tuyệt đối, một cách không thay đổi và trong một thời kỳ đủ dài. Nó đã biến thành của riêng các ngài và được mọi giám mục hiệp thông với Tòa Phêrô giảng dạy, vì ý thức rằng nó phải luôn được các tín hữu tuân thủ và chấp nhận. Trong chiều hướng này, nó đã được tái khẳng định trong Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo. Vả lại, đây là một tín lý đã được thực hành lâu đời của Giáo Hội, được duy trì một cách trung thành và anh dũng trọn vẹn, dù đôi khi phải chịu các áp lực nặng nề từ những kẻ quyền thế của thế gian”. 

Lời tuyên bố quả là rõ ràng: tính bất khả tiêu tuyệt đối của cuộc hôn nhân bí tích đã thành sự và hoàn hợp; dù nó không được tuyên bố bằng một định nghĩa tín lý chính thức, song nó đã đã được huấn quyền thông thường giảng dậy, một huấn quyền vốn không thể sai lầm, và thuộc về đức tin của Giáo Hội Công Giáo và, do đó, không thể nghi vấn được.

Tình yêu, tính bất khả tiêu, tính thành sự

Tính bất khả tiêu vẫn giữ được ý nghĩa và sự khẩn thiết của nó dù là đối với quan điểm nhân vị về hôn nhân, như quan điểm của Công Đồng Vatican II. “Ðấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng. Ðời sống chung này được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là sự ưng thuận cá nhân không thể rút lại. […] Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội, nên sợi dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc các quyết định của con người. Chính Thiên Chúa là Ðấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác nhau […] Tự bản chất, chính định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi qui hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn nhân […]. Như một hiến thân cho nhau của hai con người, sự liên kết mật thiết này cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly” (Gaudium et Spes, 48).

Chắc chắn, trong viễn kiến của Công Đồng, hôn nhân không thể bị thu gọn vào khế ước có tính luật pháp; cũng thế, nó không thể bị thu gọn vào sự hài hòa xúc cảm nhất thời, không đòi hỏi bất cứ dây liên hệ nào. Nó đã được định nghĩa rõ ràng là một hình thức sống chung được lên khuôn bởi tình yêu phu phụ, là tình yêu, do chính bản tính của nó, được sắp đặt cho việc sinh sản và giáo dục con cái, và do đó, bao gồm sự thân mật tính dục, sự tự hiến lẫn cho nhau một cách trung thành và bất khả tiêu. 

Việc sẵn sàng chào đón con cái và việc thân mật tính dục lên đặc điểm cho tình yêu phu phụ một cách tương phản với các hình thức khác của tình yêu. Nó bao gồm tình bạn, sự hợp tác và sống chung với nhiều chiều kích khác nhau nhưng điều hướng và tổ chức mọi sự trong tương quan với việc sinh sản và giáo dục con cái. Không có sự tự hiến chung cho con cái, mối liên hệ hỗ tương giữa hai người phối ngẫu dễ trở thành việc đi tìm và trùng hợp quyền lợi mỏng dòn và sự thỏa mãn vị kỷ. Tuy nhiên, dây hôn phối bất khả tiêu có tính nền tảng, điều mà không cuộc ly dị nào có thể tiêu hủy được, đã được con cái nhân vị hóa. Nghĩa vụ luân lý và tính bất khả tiêu pháp lý xuất hiện sau đó. Vì được kêu gọi kết hợp mãi mãi như cha và mẹ trong ngôi vị người con, các người phối ngẫu được kêu gọi kết hợp nên một trước nhất như là chồng và vợ. Trong viễn tượng này, ta hiểu tại sao giao ước hôn nhân, do sự ưng thuận thiết lập ra, cuối cùng đã nên trọn nhờ mối liên hệ tính dục. “Tình yêu này được biểu lộ và hoàn hảo cách đặc biệt qua những động tác riêng của hôn nhân” (Gaudium et Spes, 49).

Sự hiệp thông vợ chồng “dẫn các người phối ngẫu tới việc tự hiến tự do và hỗ tương, một hồng ơn tự biểu lộ qua tình âu yếm dịu dàng và qua việc làm, một tình yêu như thế thấm nhiễm cả cuộc đời họ” (Gaudium et Spes 49); nó bao gồm các con người và các hoạt động của họ, thân xác và linh hồn họ, trí hiểu, ý chí, và các xúc cảm; trước nhất, nó là hồng ơn của Thiên Chúa, sau là cam kết của con người, là hồng ân bất khả thu hồi của Thiên Chúa, cần được chào đón bằng một dự án sống chung suốt đời. Trong hôn nhân, các tín hữu, những người, nhờ Phép Rửa, được tháp nhập vào Chúa Kitô như những cá nhân, được đặt trong Người như một cặp và được kêu gọi trở thành một biểu tượng cụ thể, một đại biểu và một tham dự vào giao ước phu phụ của Chúa Kitô với Giáo Hội. Giống ấn tín phép rửa và bất cứ hồng ơn nào khác, dây hôn phối có thể bị từ khước nhưng không thể bị tiêu hủy. Nó là một hồng ơn đặt để một bổn phận nhưng cũng ban cho ta khả năng thi hành bổn phận này. Điều này tự nhiên nhắc ta nhớ tới giáo huấn của Thánh GH Gioan Phaolô II về tính thực tiễn của các luật lệ do Thiên Chúa ban hành: “vì cùng với các giới răn, Chúa cũng ban cho ta khả thể tuân giữ chúng” (Veritatis Splendor, 102); “các tín hữu luôn tìm được ơn thánh và sức mạnh để tuân giữ luật thánh của Thiên Chúa, ngay giữa các khó khăn trầm trọng nhất” (Veritatis Splendor, 103). Trong viễn ảnh này, tính bất khả tiêu của hôn nhân như một ơn gọi rõ ràng có thể chu toàn được ở trên đời trong bản chất của nó; hồng ân bất khả thu hồi của Thiên Chúa trở thành sợi dây bất khả tiêu, một sợi dây có thể và phải được tôn trọng.

Viễn kiến coi gia đình như một hiệp thông tình yêu phu phụ, do Thiên Chúa ban và được vợ chồng sống bằng một kế hoạch sống tương ứng với nhau, có những hậu quả đối với tính thành sự hay không thành sự của việc họ cử hành hôn lễ. Để thành sự, điều cần thiết xem ra là thế này: không được rút gọn eros (tình dục) thành chỉ còn là việc thỏa mãn cá nhân, nhưng được hoàn tất bằng việc hiến thân cho nhau. Chỉ với tình yêu hỗ tương dâng hiến này, sự hiệp thông liên ngã thực sự mới được thể hiện mà thôi; không như sự trùng hợp mỏng manh của tư lợi. “Như Thầy đã yêu thương các con, các con cũng phải yêu thương nhau” (Ga 13:34). Để cử hành bí tích thành sự, một bí tích vốn là việc đại diện và tham dự vào tình yêu phu phụ của Chúa Kitô với Giáo Hội, rõ ràng tình yêu dâng hiến là điều cần thiết, ít nhất cũng phải coi nó như một dự án sống về phía các người phối ngẫu, cũng như sẵn sàng chào đón cả việc sinh sản lẫn giáo dục con cái. 

Muốn cho cuộc hôn nhân thành sự, ít nhất phải có một đức tin tiềm ẩn (xem Thánh GH Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, 68). Hiện nay, Phiên Họp Đặc Biệt Lần Thứ Ba của Thượng Hội Đồng bắt đầu suy nghĩ về điểm này (xem Relatio Synodi, 48). Tuy nhiên, Đức HY Antonelli tin rằng trong bối cảnh văn hóa cá nhân chủ nghĩa, lấy mình làm trung tâm, ngày nay, ta cũng phải lưu ý tới ý hướng và khả năng yêu thương và hiến mình nữa khi xem xét khả thể tuyên bố vô hiệu, và ngay cả trước việc này, điều cần thiết là phải cổ vũ một nền giáo dục hết sức nghiêm chỉnh cho người trẻ về sự thật của tình yêu và chuẩn bị hôn nhân thích đáng cho các cặp đính hôn. 

Cho một Giáo Hội truyền giáo

Tại nhiều quốc gia, việc thế tục hóa đang làm nhiều người ồ ạt rời bỏ Giáo Hội. Ta phải ý thức được tầm sâu rộng của cuộc biến đổi lớn lao này để can đảm đương đầu với thách đố khó khăn và nguy hiểm này, trong khi vẫn tin tưởng nhìn về phía trước, không bị dính cứng vào việc tiếc nuối dĩ vãng. Ít năm trước đây, Đức HY Joseph Ratzinger từng viết rằng: “Giáo Hội quần chúng có thể là một điều đáng yêu, nhưng không nhất thiết phải là cách thế hiện hữu duy nhất của Giáo Hội. Giáo Hội của ba thế kỷ đầu rất nhỏ và nhờ sự kiện này không phải là một cộng đồng phân mảnh. Trái lại, nó không khép kín trong chính nó, nhưng cảm thấy một trách nhiệm lớn lao đối với người nghèo, người bệnh, đối với mọi người […]” (Joseph Ratzinger, Trước Nhất Ta Phải Là Các Nhà Truyền Giáo).

Chúa Giêsu, Đấng Cứu Rỗi duy nhất của mọi người, kêu gọi Giáo Hội cộng tác với Người để cứu rỗi các Kitô hữu đang hiệp thông thiêng liêng và hữu hình một cách trọn vẹn, các Kitô hữu chỉ hiệp thông một phần, và tín hữu của các tôn giáo không phải Kitô Giáo, cũng như những người không tín ngưỡng vốn có xu hướng tiềm ẩn đối với Thiên Chúa. Để thi hành sứ mệnh cứu rỗi một cách hữu hiệu, cho dù con số các tín hữu có tầm quan trọng của nó, nhưng tính chân chính của hiệp thông Giáo Hội trong sự thật và yêu thương chắc chắn quan trọng và cần thiết hơn.

Như Công Đồng Vatican II từng dạy: “Vì thế, dân tộc thiên sai ấy, tuy hiện nay chưa bao gồm toàn thể nhân loại và đôi khi tỏ ra như một đàn chiên nhỏ, nhưng lại là một mầm mống vững chắc nhất của hiệp nhất, hy vọng và cứu rỗi cho toàn thể nhân loại. Dân tộc thiên sai ấy được Chúa Kitô thiết lập để thông dự vào sự sống, bác ái và chân lý, được Người sử dụng như khí cụ cứu rỗi cho mọi người, và được sai đi khắp thế giới như ánh sáng trần gian và muối đất (x. Mt 5,13-16)” (Lumen Gentium, 9). Sứ mệnh của Giáo Hội luôn có tính phổ quát, bất kể mạnh yếu ra sao về con số. Giáo Hội cộng tác với Chúa Kitô Cứu Thế trong tư cách một dấu chỉ nhằm tiếp nhận, thông truyền và tỏ bầy sự hiện diện, tình yêu và hành động cứu rỗi của Người trong thế gian, như “bí tích phổ quát của cứu rỗi” (Lumen Gentium, 48).

Sẽ là một hướng dẫn lầm lẫn khi tìm kiếm sự gia tăng các chi thể về số lượng, bằng cách tự tháo gỡ mình khỏi việc đào luyện, hay qua thái độ hăm hở bỏ qua qui chế giáo luật mà ban phát mọi sự cho mọi người, và rơi xuống trình độ mất phẩm giá một cách tổng quát. Ngược lại, khẩn thiết phải có một thừa tác mục vụ ngỏ với mọi người, tuy phải dị biệt hóa, để săn sóc trước hết cho một thiểu số, là những người sẵn sàng hơn, để rồi qua họ vươn tay ra với mọi người khác. “Chúng ta là các nhà truyền giáo, trước nhất, vì những gì chúng ta hiện là như một Giáo Hội, mà sự sống thâm sâu nhất là kết hợp trong tình yêu, trước cả việc ta trở thành các nhà truyền giáo trong lời nói hay hành động” (Thánh GH Gioan Phaolô II, Redemptoris Missio, 34).

Điều cần thiết là chấp nhận mọi người và vươn tay ra với mọi người, nhưng bằng những cách khác nhau; cũng cần phải phát triển một cách đầy xác tín và kiên nhẫn lòng sùng kính bình dân, nhưng điều khẩn thiết hơn nhiều là đào tạo các Kitô hữu và các gia đình Kitô hữu gương mẫu như đã nói trên đây. Muốn chiếu sáng và sản xuất ra hơi nóng, việc đầu tiên phải làm là nhóm lửa. 

Ghi chú

(1) Đây là điều được Đức Phanxicô củng cố, trong bài giáo lý hàng tuần vào ngày thứ Tư, 24 tháng 6, 2015. Theo Sở Thông Tin Tòa Thánh, ngài nói tới những trường hợp trong đó, không thể tránh được việc ly thân hoặc cần thiết về phương diện luân lý “phải chuyển người phối ngẫu yếu đuối hơn, hay trẻ nhỏ, ra khỏi các vết thương do ngạo mạn và bạo lực, do làm mất nhân phẩm và bóc lột, do ghẻ lạnh và dửng dưng gây ra”. Nhiều người dịch chữ “separazione” của Đức Phanxicô là “chia ly”, thiển nghĩ không chính xác. Các báo thế tục còn hiểu chữ này như “ly dị” nữa, khiến họ cho rằng ngài đồng ý cho ly dị, một việc chưa bao giờ có trong Giáo Hội. Thực ra, ly thân là từ chính xác nhất, và điều này, giáo luật có dự liệu (điều 1153), không có gì mới mẻ cả. Vả lại, một số vị giáo phẩm Công Giáo công khai nói rằng ly dị không có tội, nếu hiểu là ly dị dân sự, miễn là đừng tái hôn. Điều này tương đương với ly thân theo giáo luật (ghi chú của người trình bầy).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét