Tường
thuật chuyến ĐTC công du Ecuador, Bolivia và Paraguay
Tường thuật chuyến viếng thăm mục vụ ba nước Ecuador, Bolivia và
Paraguay
**
Trong các sinh hoạt
ngày thứ ba viếng thăm Ecuador còn có
hai cuộc gặp gỡ khác vào ban chiều: đó là cuộc gặp gỡ giới sinh viên học sinh tại Đại học công giáo Ecuador và với các đại diện giới dân sự.
Sau
khi dùng bữa trưa và
nghỉ ngơi tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh lúc sau 16
giờ ĐTC đã đi xe papamobil
tới Đại học giáo hoàng công giáo
Ecuador cách đó 3 cây số.
Hai bên đường đã có rất đông tín hữu chào đón ĐTC.
Đại học giáo hoàng công giáo
Ecuador được thành lập năm 1946 thuộc tổng giáo phận Quito do các cha Dòng
Tên điều khiển. Đại học gồm 14 học viện và phân khoa gồm Kiến trúc, Quản trị, Sư phạm, Khoa học, Triết học, Thần học, Khoa học nhân văn, Truyền thông, Văn chương, Kinh tế, Y tá, Kỹ sư, Luật, Y khoa, Sinh học, Trợ giúp xã hội. Có tất cả 30.000 sinh viên.
Vào
thời thực dân Giáo Hội đã thành lập Đại học San Fulgencio do các
cha dòng Agostino điều
khiển; đại học thánh Gregorio do các
cha dòng Tên điều khiển cho tới khi các vị bị trục xuất; và đại học San Tomas do các cha
dòng Đa Minh điều khiển.
ĐTC
đã được viện trưởng César Fabián Carrasco
Castro tiếp đón trong khuôn viên đại học có chỗ cho 5.000 người. Sau lời chào của ĐC Alfredo José
Espinoza Mateus, GM Loja và là chủ tịch Ủy ban giáo dục và văn hóa của HĐGM Ecuador, các sinh viên học sinh đã tặng qùa cho ĐTC. Tiếp đến mọi người đã nghe chứng từ của một nữ sinh viên, một giáo sư và
viện trưởng đại học.
Ngỏ lời trong dịp này ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa của dụ ngôn người gieo giống và lệnh Thiên Chúa truyền cho con người phải vun trồng và giữ gìn thụ tạo. ĐTC nói:
Thiên
Chúa không chỉ ban cho con người sự sống, nhưng cũng
ban cho con người trái đất, thụ tạo. Ngài không chỉ ban cho con người một người bạn đường và các khả thể vô tận. Nhưng Ngài
cũng
đưa ra một lời mời gọi, và trao ban cho con
người một sứ mệnh nữa. Ngài mời gọi họ tham dự vào công trình tạo dựng của Ngài và nói: hãy vun
trồng! Ta ban cho con các hạt giống, trái đất, nước, mặt trời, Ta ban cho con đôi
bàn tay và tay của anh em con. Nó cũng là
của con. Nó là một món quà, một ơn, một sự cống hiến. Nó không phải là cái gì được chiếm hữu, được mua. Nó đi trước chúng ta và sẽ tiếp nối chúng ta… Thụ tạo là một ơn phải được chia sẻ. Nó là không gian Thiên
Chúa ban cho chúng ta để
xây dựng với chúng ta, để xây dựng một “chúng ta”. Thế giới, lịch sử, thời gian là nơi chúng
ta đi xây dựng
chúng ta với Thiên Chúa, với người khác và với trái đất. Cuộc sống của chúng ta luôn dấu ẩn lời mời gọi này, một lời mời gọi ít nhiều ý thức nhưng tồn tại luôn mãi. Tuy nhiên,
chúng ta ghi nhận một điểm đặc biệt. Trong trình thuật của sách Sáng Thế, cùng với từ “vun trồng” Thiên Chúa nói ngay
một lời khác “giữ gìn”, chăm sóc. Từ này được hiểu nhờ từ kia. Một bàn tay giơ ra cho một bàn tay khác. Ai không
vun trồng thì không chăm sóc,
ai không chăm sóc thì không vun trồng. Chúng ta không chỉ được mời gọi là phần của công trình sáng tạo bằng cách vun trồng nó, làm cho nó lớn lên, phát triển nó, nhưng chúng
ta cũng được
mời gọi chăm sóc, che chở, giữ gìn nó nữa. Ngày nay lời mời gọi này càng mạnh mẽ hơn nữa. Không phải chỉ như là một lời nhắn nhủ, nhưng như là
một đòi buộc nảy sinh từ “sự dữ mà chúng ta đã gây ra,
vì việc sử dụng vô trách nhiệm và lạm dùng các tài nguyên
Thiên Chúa đã đặt để trong trái đất. Chúng ta lớn lên và nghĩ rằng chúng ta là chủ và là kẻ thống trị, được phép cướp bóc nó, vì thế giữa các người nghèo bị bỏ rơi và đối xử tàn tệ nhất có trái đất của chúng ta bị áp bức và tàn phá” (Laudato
sì, 2).
Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Có một tương quan giữa cuộc sống của chúng ta và cuộc sống của mẹ đất, giữa sự hiện hữu của chúng ta và ơn Thiên
Chúa đã ban cho chúng ta. “Môi
sinh nhân bản
và môi sinh thiên nhiên cùng nhau trở nên đồi tệ, và chúng ta không thể đương đầu với sự suy đồi môi sinh một cách thích hợp, nếu không chú ý tới các lý do có tương quan với sự suy đồi nhân bản và xã hội” (ibid., 48). Nhưng chúng
cũng
nâng
đỡ nhau và có thể thay đổi hình dạng. Đó là một tuơng quan giữ gìn một khả thể của sự rộng mở, thay đổi, của sự sống cũng như của tàn phá và chết chóc.
Có
một điều chắc chắn: đó là chúng ta không
thể tiếp tục quay lưng lại với thực tại của mình, với các anh em mình, với mẹ đất. Chúng ta không được phép không biết điều đang xảy ra chung quanh chúng
ta, làm như thể là các tình trạng xác định không hiện hữu hay không liên quan gì
tói thực tại của chúng ta. Một lần nữa câu Thiên Chúa hỏi lại vang lên: “Em ngươi đâu?”.
Tôi
tự hỏi không biết câu trả lời của chúng ta có tiếp tục là “Tôi có phải là người canh giữ em tôi đâu?” (St 4,9).
Trong
bối cảnh đại học này, sẽ rất đẹp nếu chúng ta tự vấn liên quan tới nền giáo dục của chúng ta trước trái đất đang kêu lên tới trời. Các trường học của chúng ta là một vườn ương cây,
một khả thể, là đất phì nhiêu mà chúng ta
phải chăm sóc, kích thích,
và che chở. Đất phì nhiều khát sự sống.
Cùng
anh chị em là các giáo sư tôi
tự hỏi: Anh chị em có thức tỉnh trên các sinh viên học sinh bằng cách trợ giúp họ phát triển một óc phê bình, một tinh thần tự do có khả năng chăm sóc thế giới ngày nay hay không? Một tinh thần có khả năng tìm ra các câu trả lời mới cho nhiều thách đố mà xã hội ngày nay đưa ra hay không?
Anh chị em có khả năng khích lệ họ đừng không biết tới thực tại bao quanh họ hay không? Làm thế nào để bước vào trong các chương trình
khác nhau của
đại học hay trong các lãnh vực khác nhau của công việc giáo dục cuộc sống chung quanh chúng ta
với các đòi hỏi, các vấn nạn và các cật vấn của nó? Chúng ta làm nảy sinh ra và đồng hành với cuộc thảo luận xây dựng này việc đối thoại sinh tử cho một thế giới nhân bản hơn như thế nào?
Tiếp đến ĐTC khẳng định như sau:
Có
một suy tư lôi
cuốn tất cả chúng ta: các gia đình,
học đường và nhà giáo, đó là
làm thế nào để người trẻ đừng đồng hóa bằng biếu đại học với địa vị cao hơn, với tiền bạc và uy tín xã hội. Chúng ta làm thế nào để giúp họ nhận diện việc chuẩn bị này như dấu chỉ của một trách nhiệm lớn hơn đối với các vấn đề ngày nay, tôn trọng và săn sóc người nghèo, tôn trọng việc cứu vãn môi sinh. Và với các các bạn trẻ thân mến, là hiện tại và tương lại của Ecuador, là hạt giống biến đổi của xã hội này, tôi muốn tự hỏi: các bạn có biết thời gian học hành các bạn có không phải chỉ là một quyền lợi mà cũng là một đặc ân không? Biết bao nhiêu bạn bè, quen và không
quen, muốn có một chỗ trong nơi này,
mà
vì
các
hoàn cảnh
khác nhau đã không có được?
Việc học hành của chúng ta giúp liên đới với họ trong mức độ nào?
Các
cộng đoàn giáo dục có một vai trò sinh động, nòng cốt trong việc xây dựng xã hội và nền văn hóa. Phân tích,
miêu tả thực tại thôi không đủ, cần phải trao ban sự sống cho các môi trường, nơi chốn nghiên cứu đích thật, cho các thảo luận làm nảy sinh ra các giải pháp cho các vấn đề hiện hữu đặc biệt ngày nay.
Trước sự toàn cầu hóa của mô thức kỹ thuật hướng tới chỗ tin rằng mỗi chiếm hữu quyền lực là tiến bộ, gia tăng an ninh, hữu ích, hạnh phúc, sức sống, gia trị tràn đầy, làm như thể thực tại, thiện ích và sự thật phát sinh một cách tự phát từ chính quyền lực của kỹ thuật và kinh tế” (Laudato si’, 105),
chúng ta được hỏi một cách cấp thiết mau chóng suy tư, tìm
tòi,
thảo luận về tình trạng của chúng ta hiện nay. Chúng ta muốn và yêu sách cho con
cháu chúng ta loại văn hóa nào đây? Trái
đất này mà chúng ta đã nhận như gia tài,
như một ơn, một món quà, chúng ta muốn để lại nó như thế nào? Chúng ta muốn in các chỉ dẫn nào trên cuộc sống? “Chúng ta đi qua
trái đất này với mục đích nào? Chúng ta đến trên trái đất này với mục tiêu nào? Chúng ta làm
việc và chiến đấu cho mục đích nào? (ibid.,
160). Các sáng kiến
cá nhân luôn luôn tốt
và nền tảng, nhưng chúng
ta phải nhìn thực tại một cách tổng quát, có trật tự và không rời rạc, đưa ra các vấn nạn bao gồm tất cả mọi người. Như là đại học, như là
các
cơ cấu, các giáo sư và
sinh viên cuộc
sống thách đố các bạn trả lời cho câu hỏi này: tại sao chúng ta cần trái đất này? Người anh em con ở đâu? Ước chi Chúa Thánh Thần linh hứng và đồng hành với các bạn và ban cho chúng ta sức mạnh và ánh sáng cần thiết để chu toàn sứ mạng giáo dục này.
Sau
khi từ giã giới trí thức lúc 6 giờ chiều ĐTC đã đi xe đến nhà thờ thánh Phanxicô cách đó
4 cây số để gặp gỡ các đại diện giới dân sự trong lãnh vực văn hóa, kinh tế, doanh thương kỹ nghệ và nông nghiệp, cũng như các
tổ chức thiện nguyện và đại diện của các thổ dân Amazzonia.
Nhà
thờ thánh Phanxicô là nhà
thờ cổ kính nhất trong toàn Châu Mỹ Latinh, được khởi công xây năm 1536, ba
năm sau ngày thành lập
thủ đô Quito, và hoàn thành
năm 1680. Toàn bộ kiến trúc nghệ thuật rất phong phú vì cũng chứa đựng 3.500 tác phẩm nghệ thuật thuộc trường phái Quito và một thư viện vào bậc nhất của các cha Phanxicô.
Sau
lời chào của ĐC Luis Cabrera
Herrera, TGM Cuenca, Chủ
tịch Ủy ban giáo dân của HĐGM Ecuador, đã có phần chia sẻ chứng từ của ba giáo dân: ông
Francisco Jarrin, đại
diện Hiệp hội các doanh thương kitô,
bà
Lidia Marlene Arcos Miranda, doanh thương tỉnh Ambato, và bà Imelda Caicedo Vega, giáo lý
viên 85 tuổi, dậy giáo lý cho dân quê tỉnh Los Rios từ 60 năm qua. Họ đã nói lên các ưu tư, các
khó khăn và thách đố
của cuộc sống đức tin trong môi trường xã hội ngày nay. Dàn nhạc Sunamune gồm các người trẻ tàn tật và bị bệnh khờ cũng đã trình tấu chào mừng ĐTC.
Trong
bài huấn dụ ĐTC đã khích lệ mọi người dấn thân xây dựng một xã hội bao gồm sự hiện diện và tham gia của mọi thành phần xã hội, chiến thắng ích kỷ và nền văn hóa gạt bỏ. Xã hội hãy học nơi gia đình
để không ai bị loại bỏ ra ngoài. Trong gia
đình con người nhận được các giá trị nền tảng của tình yêu thương, tình
huynh đệ
và sự tôn trọng lẫn nhau, được diễn tả ra bằng các giá trị xã hội nòng cốt là sự nhưng không,
tình
liên đới
và sự phụ đới.
Trong
tương quan xã
hội, hay trong lãnh vực chính trị, nhiều khi người ta dựa trên sự đối đầu, trên việc gạt bỏ. Nhưng xã
hội phải là một gia đình, gồm cha mẹ, con cái, anh chị em, trong đó khi gặp khó khăn, người ta tương trợ nhau, trong đó nỗi đau đớn của một người là nỗi đau của tất cả. Trong gia đình tất cả mọi người đều góp phần vào chương trình
chung, tất cả đều làm việc cho lọi ích chung, nhưng không
hủy bỏ cá nhân. Trái lại, họ nâng đỡ và thăng tiến cá nhân. Và ĐTC cầu mong người ta có thể nhìn đối thủ chính trị, và người hàng xóm với đôi mắt mà chúng ta nhìn người thân của mình trong gia đình.
Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC đưa ra câu
hỏi: Chúng ta có yêu thương quê
hương đất nước, cộng đoàn mà chúng ta đang
tìm xây dựng không? Nếu yêu thương thật, thì phải yêu thương bằng việc làm nhiều hơn là
bằng lời nói. Trong lãnh vực xã hội sự nhưng không
không phải
là một bổ túc, nhưng là
một đòi buộc cần thiết của công lý. Cái mà chúng
ta là và có đã được ban cho chúng ta để phục vụ tha nhân. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho nó
sinh hoa trái trong các công việc
lành.
Các
tài nguyên được chỉ định cho tất cả mọi người, vì thế khi một người chiếm làm của riêng, là việc hợp pháp, thì một quyền sai áp luôn luôn đè nặng trên chúng. Hướng tới các anh chị em thổ dân đến từ vùng Amazzonia ĐTC nêu
bật rằng việc khai thác các tài
nguyên thiên nhiên dư
đật tại Ecuador không được tìm lợi nhuận tức khắc. Là người giữ gìn sự phong phú mà chúng ta
đã lãnh nhận phải khiến cho chúng ta dấn thân với toàn hội và với các thế hệ tương lai. Có
những nơi cần phải được săn sóc đặc biệt vì tầm quan trọng khổng lồ của chúng đối với hệ thống sinh thái thế giới. Liên quan tới tình liên đới ĐTC khẳng định như sau:
Từ tình liên đới sống trong gia đình nảy sinh tình liên đới trong xã hội. Nó không hệ tại việc cho những người cần được giúp đỡ, nhưng là
có
trách nhiệm
đối với nhau. Nếu chúng ta trông thấy nơi tha nhân
một người anh em, thì không ai
có thể bị loại bỏ, bị tách rời.
Các
điều khoản và luật lệ cũng như các
dự án của cộng đoàn dân sự phải tìm kiếm sự bao gồm, để tạo thuận tiện cho các không gian đối thoại, gặp gỡ, và như thế để lui vào ký ức đau đớn bất cứ loại đàn áp, kiểm soát vô giới hạn và lấy mất đi sự tự do nào. Hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn đòi
hỏi cống hiến các khả thể thực thụ cho các công dân,
nhất là cho giới trẻ, bằng cách tạo ra công ăn việc làm. Tới đây ĐTC đã ứng khẩu và mạnh mẽ tố cáo nền văn hóa gạt bỏ gây thương tích
cho người trẻ và người già với các hậu quả kinh khủng dẫn đưa tới các vụ tự tử. Tình trạng này thuận lợi cho các kẻ phục vụ sự ích kỷ, thần tiền bạc ở trung tâm của một hệ thống đè bẹp tất cả chúng ta.
Sau
cùng ĐTC đã đề cập tới sự phụ đới và nói : Khi nhận biết những gì là hay đẹp nơi người khác, cả với các hạn hẹp của họ, chúng ta thấy sự phong phú định tính sự khác biệt và giá trị của việc bổ túc. Các con người, các nhóm có quyền thành toàn lộ trình của mình, cả khi điều này có đưa tới các sai lầm đi nữa. Đối thoại là điều cần thiết để đạt sự thật, không thể bị áp đặt, nhưng được tìm kiếm với lòng chân thành và óc
phê bình. Trong việc
tôn trọng sự tự do, xã hội dân sự được mời gọi thăng tiến mọi người và mọi tác nhân xã hội để họ nhận lãnh vai trò của họ và góp phần chuyên môn vào công
ích. Trong một nền dân chủ được tham gia mọi lực lượng xã hội phải là tác nhân. Cả Giáo Hội cũng muốn cộng tác vào việc tìm kiếm công ích, với các hoạt động xã hội, giáo dục của mình bằng cách thăng tiến các gia trị luân lý đạo đức và tinh thần, vì Giáo Hội là dấu chỉ ngôn sứ đem lại ánh sáng và niềm hy vọng cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho những người cần được trợ giúp nhất. Và ĐTC kết luận : Có nhiều người hỏi tại sao tôi hay nói tới các người cần được trợ giúp, những người bị gạt bỏ, bị loại ra bên lề xã hội nhiều như thế. Một cách đơn sơ bởi vì thực tại này và câu trả lời cho thực tại này là trọng tâm của Tin Mừng.
Sau
khi từ giã các đại diện thế giới dân sự, ĐTC đã đi xe đến thăm nhà thờ của dòng Tên cách đó một cây số. Nhóm tu sĩ dòng Tên đầu tiên đến Quito năm 1586. Năm
1602 cha Nicolas Duran Mastrilli, giám đốc tiên khởi của Trường dòng Tên đến Quito mang theo sơ đồ nhà thờ. Nhà thờ này được xây bởi kiến trúc sư Domenico Zampilli cũng
là
kiến trúc sư đã
xây
nhà thờ
Chúa Giêsu của dòng Tên ở Roma. Tiếp đến có hai kiến trúc sư khác
tới tiếp tục việc xây cất, và nhà thờ đã hoàn thành năm 1765.
Tháp chuông bị sập trong trận động đất năm 1859, đuợc xây lại nhưng lại bị sập trong trận động đất năm 1868 và không bao
giờ được tái thiết. Nhà thờ bị hư hại trong trận động đất năm 1987 và việc trùng tu hoàn tất năm 2005.
Trong
nhà thờ này có tượng Đức Mẹ Sầu Bi với trái tim bị 7 lưỡi gươm đâm
thâu. Vào năm 1906 Ecuador tuyên bố tính cách đời của nhà nước, cấm các biến cố tôn giáo và tịch thu các tài sản của Giáo Hội. Ngày 20 tháng 4 cùng
năm xảy ra phép lạ Đức Mẹ Sầu Bi. 35 sinh viên dòng
Tên đã trông thấy mắt Đức Mẹ chuyển động trong nhà cơm trường San Gabriel. Phép lạ được thừa nhận ngày 31 tháng 5 năm
1907. Và kể từ đó trường San Gabriel trở thành trung tâm thánh mẫu. Hằng năm tượng Đức Mẹ được rước trong toàn nước.
Sau
khi viếng thăm nhà thờ ĐTC đã về Toà Sứ Thần Tòa Thánh để dùng bữa tối và nghỉ đêm kết thúc ngày thứ 3 viếng thăm Ecuador.
Ngày
thứ tư mùng
8 tháng 7 ĐTC đã chỉ có hai sinh hoạt : thăm viện dưỡng lão do các nữ tu Thừa Sai Bác Ái trông coi,
và gặp gỡ hàng giáo sĩ tu sĩ chủng sinh tại đền thánh Đức Bà El Quinche. Trung
tâm Đức Bà El Quinche đưọc xây năm 1928 và được tuyên bố là trung tâm thánh mẫu quốc gia năm 1985. Tượng Đức Bà el Quinche bằng gỗ trắc bá cao 60 cm, do ông
Don Diego de Robles thuộc
trường phái Quito tạc năm 1586, theo lời xin của các thổ dân Lumbici. Vì các thổ dân không có tiền trả công, nên nhà điêu khắc nhường tượng lại cho các thổ dân Oyacachi muốn có bức tượng này vì giống hình Đức Mẹ đã nhiều lần hiện ra với họ.
Sau
khi dâng thánh lễ riêng lúc 7 giờ rưỡi và điểm tâm, ĐTC đã từ giã Tòa Sứ Thần Tòa Thánh đi xe đến nhà dưỡng lão tại Tumbaco là một vùng phụ cận cách xa Quito 21 cây số.
Ngài
đã được nữ tu bề trên và 10 nữ tu tiếp đón. ĐTC đã gặp các cụ già trong sân nhà dưỡng lão, bắt tay và hỏi chuyện từng người.
Sau
khi từ biệt các cụ lúc 10 giờ ĐTC đi xe đến đền thánh Đức Bà El Quinche cách đó
27 cây số. Đã có hàng chục ngàn người quy tụ về đây để chào đón ngài. Khi xe
vào thành phố tín hữu đứng hai bên đường đã tung hoa chào mừng ĐTC trong một bầu khí lễ hội tươi vui. Mui chiếc xe papamobil đầy cánh hoa hồng. ĐTC đã được linh mục quản đốc đền thánh tiếp đón tại thềm đền thờ và đưa vào
trong để
ĐTC dâng hoa kính Đức
Mẹ. Ngài đã đứng cầu nguyện một lát trước tượng Đức Mẹ Sầu Bi. Tiếp đến ĐTC đã vào nhà dòng và
viết vào sổ lưu niệm lời cầu sau đây :
« Lạy Me là Đức Trinh Nữ đền thánh Quinche,
xin chăm sóc nhân dân Ecuador. Họ là con cái Mẹ, Mẹ ơi » Ký
tên
Phanxicô Giáo Hoàng.
Tiếp đến ĐTC đã ra khán đài bên
ngoài đền thánh để gặp gỡ hàng giáo sĩ, tu sĩ, chủng sinh. Sau lời chào mừng của ĐC Celmo Lazzari, đặc trách những người sống đời thánh hiến của HĐGM Ecuador, đã có phần chứng từ của cha Silvino Mina, thuộc Toà Giám quản tông toà Esmeraldes và
nữ tu Marisol Sandoval
dòng Agostino.
ĐTC
đã không đọc diễn văn dọn sẵn nhưng ứng khẩu. Ngài cám ơn các
linh mục tu sĩ và chủng sinh đã quảng đại đáp lại lời kêu mời của Chúa dấn thân trong các hoạt động khác nhau lo cho dân
Chúa. Ngài khích lệ
mọi người sống thân tình với Chúa, biết săn sóc sức khoẻ thể lý, nhưng nhất là săn sóc sức khỏe tinh thần và đời sống thiêng liêng, không bị bệnh lão hóa tinh thần, luôn biết tin yêu phó thác, cậy dựa vào ơn thánh
Chúa, ý thức
mình là người phục vụ, và tận dụng các tài khéo Chúa ban
cho công tác rao giảng
Tin Mừng và làm chứng nhân cho tình yêu
Chúa giữa lòng trần gian, tránh bệnh lão hóa tinh thần và khuynh hướng tìm chức tước. Vì không phải là người làm thuê ăn lương, nên
công
tác
mục vụ phải nhưng không. Đừng để người ta trả tiền cho ơn thánh.
Trong
diễn văn dọn sẵn ĐTC phó thác cho trái
tim Mẹ Sầu Bi người già, người bệnh và mọi cuộc gặp gỡ trong chuyến công du của ngài. Ngài cũng để tất cả mọi thành phần dân Chúa trong con tim
của những người sống đời thánh hiến. Dựa trên trình thuật Đức Mẹ dang mình vào đền thánh, ĐTC rút tỉa ra vài suy tư và áp
dụng vào đời sống thánh hiến. Trước hết ơn gọi thánh hiến là một ơn nhưng không
Thiên Chúa ban. Ngài tuyển chọn và sai chúng ta đi. Sự kiện này giải thoát chúng ta khỏi nguy hiểm lấy mình làm điểm tham chiếu, vì chúng ta không thuộc về mình nữa, và ơn gọi xin chúng ta từ bỏ mọi ích kỷ, tìm lợi lộc vật chất hay bù trừ tình cảm. Chúng ta là những người phục vụ, chứ không phải là lính đánh thuê,
không phải đến để đuợc hầu hạ nhưng để phục vụ, hoàn toàn không dính
bén, không gậy, không bị, không chạy theo vinh quang giả tạo và tinh thần thế tục, xa lánh các tham vọng, các lợi lộc thấp hèn ích kỷ, các chú ý tới mình một cách thái quá.
Cũng
như quyền bính của các Tông Đồ các ơn chúng
ta nhận được là để canh tân và xây dựng Giáo Hội. Không khước từ chia sẻ, cho đi và khép kín
trong tiện nghi dễ dãi, biết là suối mát bổ dưỡng, đặc biệt cho những người bị tội lỗi, thất vọng và thù hận đè bẹp.
Điểm thứ hai là sự kiên trì. Cũng như Mẹ Maria đã không quay lại đàng sau, nhưng cương quyết tiến vào đền thánh, người sống đời thánh hiến cũng phải kiên trì trong sứ mệnh, không lang thang tìm
nơi dễ dãi tiện nghi hơn, kiên
trì cả
khi có gặp đêm đen và lạc lối hay nguy hiểm, vì biết rằng dân thánh Chúa đồng hành với chúng ta, những người thân thương và
Giáo Hội
đồng hành và đỡ nâng chúng ta. Cần tiến buớc trong hiệp nhất, tương trợ lẫn nhau và sống tươi vui vì được sống trong nhà Chúa, tham
dự cuộc sống thân tình với Chúa, dấn thân loan báo Tin Mừng và đem ơn cứu độ đến cho mọi ngưòi.
Ý
thức được trách nhiệm của mình đối với các dân tộc Mỹ châu la tinh, vun trồng, linh họat và giáo dục lòng đạo đức bình dân, để tín hữu biết biểu lộ đức tin với ngôn ngữ và kiểu cách riêng của họ, thăng tiến nền văn hóa gặp gỡ để Giáo Hội là căn nhà chung cho mọi người, một Giáo Hội ra đi, một Giáo Hội tới gần và thích ứng để không xa cách con người, một Giáo Hội ra khỏi tiện nghi dễ dãi của mình và có can đảm tới với mọi vùng ngoại biên cần đến ánh sáng Tin Mừng.
ĐTC
đã ban phép lành và từ
giã mọi người để ra phi trường lấy máy bay sang thủ đô La Paz của Bolivia, bắt đầu chặng thứ hai trong chuyến viếng thăm ba nước Eucador, Bolivia và
Paraguay.
Lễ nghi tiễn biệt đã diễn ra tại phi trường rất long trọng. Tổng thống và phu nhân đứng hai bên ĐTC trên bục trải thảm đỏ. Ban nhạc và ban vũ thiếu nhi đã cử hành quốc thiều Vaticang và quốc thiều Ecuador. ĐTC đã bắt tay từ biệt các Giám Mục và nhiều bộ trưởng chính phủ. Khi tiến tới chân máy bay ĐTC đã dừng lại bắt tay và ôm hôn các trẻ em cầm cờ toà thánh đứng hai bên. Các em ùa đến vây quanh ngài và vô
cùng sung sướng. Trước khi lên máy bay ĐTC đã
ôm hôn tổng thống và bắt tay phu nhân rồi cầm lấy chiếc cặp da của ngài. Ngài đã quay lại lần cuối chào từ biệt mọi người trước khi bước vào trong máy bay.
Chiếc boeing 737 của hãng hàng không
Bolivia đã cất cánh lúc sau 12 giờ trưa và đến La Paz sau 3 giờ 15 phút bay. Chúng tôi
sẽ tường thuật lễ nghi tiếp đón ĐTC tại La Paz và thánh lễ ĐTC chủ sự sáng thứ năm 9-7 để khai mạc Đại Hội Thánh Thể Bolivia tại quảng trường Chúa Kitô Cúu Thế tại Santa Cruz trong các
buổi phát ngày mai.
Linh
Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét