Ngày 2 tháng Giêng
Mùa Giáng Sinh
Bài
Ðọc I: 1Jo 2,22-28
"Ước
gì điều các con đã nghe từ ban đầu, vẫn ở lại mãi trong các con"
Bài
trích thơ thứ nhất của Thánh Gioan Tông Ðồ.
Các
con thân mến, ai là kẻ nói dối, nếu chẳng phải là kẻ không nhìn nhận Chúa Giêsu
là Ðức Kitô?
Ai
không nhận Chúa Cha và Chúa Con, chính nó là Phản Kitô, ai không nhận Chúa Con,
thì cũng không được có Chúa Cha. Còn ai tuyên xưng Chúa Con thì cũng được có
Chúa Cha. Còn ai tuyên xưng Chúa Con thì cũng được có Chúa Cha.
Phần
các con, ước gì điều các con đã nghe từ ban đầu, vẫn ở lại mãi trong các con.
Nếu
điều các con đã nghe từ ban đầu vẫn ở lại trong các con, thì các con cũng được ở
lại trong Chúa Con và Chúa Cha nữa. Và này là điều Người đã hứa cho chúng ta,
đó là sự sống đời đời.
Ta
đã viết những điều này cho các con biết về những người lừa dối các con.
Về
phần các con, việc xức dầu mà các con đã nhận lãnh nơi Người vẫn ở lại trong
các con, nên các con không cần ai dạy dỗ, nhưng như việc xức dầu của Người đã dạy
các con mọi sự, và lại là sự thật, chứ không phải sự dối trá, nên như các con
đã được dạy dỗ, hãy ở lại trong Người.
Và
giờ đây, hỡi các con bé nhỏ, hãy ở lại trong Người, để khi Người tỏ hiện, chúng
ta được dạn dĩ, không phải xấu hổ lìa xa Người, lúc Người đến.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 97,1.2-3a, 3cd-4
Ðáp: (3c) Mọi dân
trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Xướng
1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng.
Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. -
Ðáp.
2)
Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân. Người
đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành đối với nhà Israel. - Ðáp.
3)
Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa
chúng ta. Toàn thể địa cầu, hãy hân hoan mừng Chúa, hãy mừng vui, hoan lạc và
đàn ca. - Ðáp.
Alleluia:
Jo 1,14 và 12b
Alleluia,
Alleluia - Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người,
thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Alleluia.
Phúc
Âm: Jo 1,19-28
"Có
một Ðấng sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi"
Bài
trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.
Ðây
là chứng của Gioan, khi những người Do thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và
các Thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?"
Ông
liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Ðấng
Kitô".
Họ
liền hỏi: "Như vậy là thế nào? Ông có phải là Elia chăng?"
Gioan
trả lời: "Tôi không phải là Elia".
"Hay
ông là một đấng tiên tri?"
Gioan
đáp: "Không phải".
Họ
liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng
tôi. Ông tự xưng là ai?"
Gioan
đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi,
như tiên tri Isaia đã loan báo".
Và
những người đã được sai đến đều thuộc nhóm biệt phái.
Họ
hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không là Elia, hay một
tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?"
Gioan
trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà
các ngươi không biết.
Ðấng
ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng
cởi dây giày cho Người".
Việc
này xảy ra tại Betania, bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.
Ðó
là Lời Chúa.
Suy
Niệm:
Lời
Chứng Của Gioan
Con người thường mang tâm trạng
thích được khen, người nhận lời khen cảm thấy tâm hồn thoải mái, vui tươi, phấn
khởi. Ðó là một nghệ thuật để khuyến khích người khác hăng hái tiếp tục công việc
họ đang làm ngày càng khá hơn. Trong gia đình, người chồng khen người vợ biết
trang hoàng căn phòng lịch sự, sáng sủa, đơn sơ sẽ làm cho người vợ thương mến
người chồng hơn, hoặc người chồng được vợ khen là biết chọn màu áo trang nhã,
tiệm may vừa khít trông đẹp, phải chăng tình thương nồng ấm, đậm đà giữa vợ chồng
trong gia đình càng tăng thêm hạnh phúc hơn.
Nếu
một người nhân viên trong sở làm, người giám đốc mỉm cười khen một cách thành
thực là anh đi làm rất đúng giờ có phải là một ích lợi lớn lao cho anh, vì được
ông chủ để ý đến mình và biết đâu anh ta nhờ đó mà siêng năng, chăm chỉ hơn
trong công việc của mình. Cho nên, khen là một điều nên thực hiện khi có thể đối
với nhau. Tuy nhiên, điểm tác hại sâu xa nhất là khen hời, khen quá hóa nịnh là
chuyện không nên. Người ta không có mà chúng ta đưa lên tận mây xanh làm họ mở
mắt không ra, không nhìn thấy khả năng thực sự của mình và làm họ cứ ảo tưởng
nghĩ rằng mình giỏi thật, đó thật là một chuyện nguy hiểm và là chuyện tâm lý
bình thường của con người. Có một điểm nữa là từ đó con người ưa nói quá về
mình. Chúng ta không có nhưng người ta nịnh gán cho mọi thứ tài giỏi hay ho,
chúng ta cũng cứ nhận bừa lấy và trở thành như là của mình để rồi cứ nhận tiếp
những lời khen quá đáng như thế.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Gioan Tẩy Giả đã cho chúng ta một bài học trung thực về
chính cuộc đời của ông. Khi những người Do Thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế
và các thầy Lêvi đến hỏi ông là ai? Ngụ ý của họ là muốn biết Gioan có phải là
Ðức Kitô, Ðấng phải đến chăng? Gioan xác nhận ngay: "Tôi không phải là Ðức
Kitô". Ðức Kitô thì chắc hẳn Gioan không dám tự nhận nhưng ông có thể nhận
mình là Elia được, vì có ai biết được Elia đâu, người ta chỉ nghe truyền thuyết
là Elia không chết, ông ngồi trên xe lửa mà về trời và sau này ông sẽ trở lại.
Nhưng Gioan Tẩy Giả cũng không nhận mình là Elia và ngay cả người ta hỏi:
"Ông có phải là một tiên tri không?" vì Gioan cũng làm nhiều điều lạ,
ông kêu gọi mọi người ăn năn hối cải và người ta đến rất đông để nhận lãnh phép
rửa do ông ban cho. Ông cũng có thể nhận mình là một tiên tri nào đó thì có ai
biết đến, thế nhưng ông vẫn trả lời:"Tôi không phải là một tiên tri"
mà ông tự nhận như sau: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hãy sửa đường
cho ngay thẳng để Chúa đi", như lời tiên tri Isaia đã loan báo.
Một
con người thấp hèn với địa vị khiêm tốn, nào ai trong chúng ta chấp nhận được
tinh thần như Gioan Tẩy Giả. Và còn hơn thế nữa, Gioan đã nhìn nhận con người
kém cỏi của mình so với Ðấng Cứu Thế mà ông đang rao giảng: "Ðấng sẽ đến
sau tôi nhưng tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Ngài". Một câu nói khác
mà Chúa Giêsu đưa ra để cho chúng ta noi gương, Chúa Giêsu đã nói: Khi vào bàn
tiệc hãy ngồi chỗ rốt hết để sau đó người ta mời mình lên nơi cao có phải vinh
dự hơn không?" Còn nếu chúng ta ngồi vào chỗ nhất, chỗ nhì thì sau đó người
ta sẽ lại đến nói với chúng ta: "Xin nhường chỗ cho vị này" có phải
là chúng ta xấu hổ mà ngồi lui xuống dưới chăng.
Khi
người khác nhờ chúng ta một việc gì trong khả năng mà chúng ta có thể làm được
thì chúng ta sẽ giúp họ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn khiêm tốn nói: "Nếu không
có gì trở ngại, tôi sẽ làm giúp cho anh", hay "theo khả năng của tôi,
tôi hy vọng giúp được anh". Nói thế không hẳn là chúng ta thiếu tự tin hay
không sốt sắng sẵn sàng trong những công việc người khác nhờ chúng ta. Nhưng
nói như vậy là chúng ta nói lên sự tế nhị, sự khiêm tốn trong khả năng Thiên
Chúa ban cho mỗi người trong chúng ta.
Lạy
Chúa, xin cho chúng con bắt chước thánh Gioan Tẩy Giả có một tinh thần khiêm
nhu, ôn hòa để qua cuộc sống của chúng con, mọi người nhận ra được khuôn mặt
nhân hậu, từ ái bao la của Chúa. Amen.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 2 tháng 1 BNGS
Bài đọc: I Jn 2:22-28; Jn
1:19-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự thật và sự dối
trá quanh co
Trong
xã hội, rất khó cho chúng ta để nhận biết bản chất đích thực của một người qua
việc đối thọai. Khi phải nói về mình, con người thường có những khuynh hướng
như: mạo nhận danh nghĩa người khác; giả vờ như mình có để người khác phải thán
phục mình; khuếch đại: có ít nói nhiều; nói quanh co để người khác khỏi nhận ra
con người thực của mình. Khi phải tìm hiểu cá nhân đó qua người khác, người
khác thường có khuynh hướng: cắt bớt những công trạng và các đức tính tốt để họ
đừng nổi bật quá; thêm những nhận xét của mình để dìm bớt những điều tốt; gán
cho họ những tật xấu mà họ không có; hay vơ vào những thói xấu của gia đình họ.
Các
Bài Đọc hôm nay dạy chúng ta phải biết sống thực với con người của mình. Trong
Bài đọc I, Thánh Gioan đưa ra lý do tại sao chúng ta phải sống thực là vì chúng
ta đã lãnh nhận dầu Thánh Thần qua Bí-tích Rửa Tội. Thánh Thần giúp chúng ta sống
thực, và giúp nhận ra những sự giả trá trong thế gian. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy
Giả cho chúng ta một mẫu gương phải sống thực qua cách trả lời cho những người
đến điều tra: ngắn gọn: có hoặc không; trực tiếp: không dài giòng quanh co; đơn
giản: không dùng những lời nhiều nghĩa; chính xác: những gì mình là, không phải
những gì người khác gọi, hay khen mình. Khi phải so sánh mình với Chúa Giêsu,
Gioan Tẩy Giả đã khiêm nhường nhìn nhận: “Tôi tuy đến trước, nhưng tôi không xứng
đáng để cởi quai dép cho Ngài.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Kitô Giáo và các tôn giáo khác
1.1/
Phản-Kitô là người không tin Đức Kitô: Nhiều tôn giáo thờ một Thiên Chúa; chẳng hạn,
Do-Thái Giáo, Hồi Giáo, nhưng Kitô Giáo thờ Thiên Chúa và Đức Kitô.
(1)
Các lạc giáo:
Ngay từ thời Thánh Gioan, khi Kitô Giáo bành trướng vào thế giới, có nhiều những
lạc giáo từ chối không tin thiên tính (Do-Thái Giáo) hay nhân tính của Đức Kitô
(Chủ-nghĩa thuần Tri-thức). Thánh Gioan đề phòng các tín hữu của ngài các lạc
giáo này: “Ai là kẻ dối trá, nếu không phải là kẻ chối rằng Đức Giêsu là Đấng
Kitô? Kẻ ấy là tên Phản-Kitô, là kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con.”
(2)
Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và Đức Kitô: Đối phương của Gioan có thể thuyết phục ngài: “Tuy
khác biệt, nhưng chúng ta cùng tin Một Thiên Chúa.” Thánh Gioan thẳng thắn nói
lên niềm tin của ngài: “Ai chối Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha; kẻ tuyên
xưng Chúa Con thì cũng có Chúa Cha.” Theo ngài, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa
Chúa Cha và Chúa Con:
-
Chúa Giêsu mặc khải cho con người biết về Chúa Cha, và nếu Ngài không mặc khải,
con người không thể biết Chúa Cha: “Không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không
ai biết Cha trừ ra Con và những người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11:27, Lk
10:22).
-
Tin Con là tin Cha (Jn 12:44-45); từ chối Con sẽ bị Cha từ chối (Mt 10, 32-33).
-
Nhìn thấy Con là nhìn thấy Cha (Jn 14 :6-9).
1.2/
Hai tiêu chuẩn để nhận ra sự thật: Để chống lại những lạc giáo, Thánh Gioan đưa ra 2
tiêu chuẩn để giúp các tín hữu nhận ra sự thật phải theo và sự dối trá phải tránh:
tiêu chuẩn bên ngòai là những Giáo Huấn của Giáo Hội; và tiêu chuẩn bên trong
là sự soi sáng của Chúa Thánh Thần.
(1)
Điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu: Ngài nói: “Phần anh em, ước chi điều anh em đã nghe
từ lúc khởi đầu ở lại trong anh em. Nếu điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu ở lại
trong anh em, thì chính anh em sẽ ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha. Và đây là
điều mà chính Đức Kitô đã hứa ban cho chúng ta: sự sống đời đời.” Điều nghe từ
đầu đây có lẽ là những dạy dỗ về đạo, trước khi một người được lãnh nhận
Bí-tích Rửa Tội.
(2)
Sự soi sáng của Chúa Thánh Thần: Khi một người được chịu Phép Rửa nhân danh Đức Kitô,
người ấy được xức dầu của Thánh Thần; và được phong chức làm tư tế, tiên tri,
và vương đế. Thánh Gioan quả quyết: “Phần anh em, dầu mà anh em đã lãnh nhận từ
Đức Kitô ở lại trong anh em, và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa; nhưng dầu của
Người dạy dỗ anh em mọi sự - mà dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá -
thì theo như dầu ấy đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong Người.” Trong khi chủ
thuyết “Thuần Tri-thức” cho rằng chỉ có họ mới biết cách giải thóat con người
ra khỏi vật chất để kết hợp với Thiên Chúa; Thánh Gioan dạy các tín hữu: một
khi đã có Thánh Thần của Thiên Chúa, Thần Sự Thật, trong người, các tín hữu chẳng
cần phải được dạy dỗ bởi ai khác nữa.
2/
Phúc Âm:
Lời chứng của Gioan
2.1/
Những gì Gioan không là:
Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do-Thái từ Jerusalem cử một số tư
tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông tuyên bố thẳng thắn,
ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô." Họ lại hỏi ông:
"Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlijah không? " Ông nói:
"Không phải." "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng? " Ông đáp:
"Không." Sở dĩ Gioan Tẩy Giả trả lời như thế là vì ông không quan tâm
đến những điều người khác nói về ông, mà ông chỉ quan tâm đến những gì ông thực
sự là. Nhiều người đã coi Gioan Tẩy Giả như một Tiên-tri, và chính Chúa Giêsu
đã gọi ông là một Tiên-tri quan trọng hơn hết các tiên-tri.
2.2/
Điều Gioan Tẩy Giả là:
Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những
người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?" Ông nói: “Tôi là tiếng
người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ
Isaiah đã nói.” Một khi Gioan nhận ra sứ vụ Thiên Chúa trao cho trong cuộc đời,
ông dành mọi thời gian, và nỗ lực để chu tòan sứ vụ của mình.
Trong
nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisees. Họ hỏi ông: "Vậy tại
sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông
Êlijah hay vị ngôn sứ?" Ông Gioan trả lời: "Tôi đây làm phép rửa
trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ
đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Chỗ khác, Gioan
phân biệt hai Phép Rửa: ông làm Phép Rửa để tha tội, nhưng Đức Kitô làm Phép Rửa
để ban Chúa Thánh Thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta cần biết mình, biết Thiên Chúa, và biết tha nhân.
-
Chúng ta đừng bao giờ mạo nhận những gì chúng ta không có, cũng đừng bao giờ
đánh cắp công ơn của người khác; nhưng phải biết nói, sống, và làm chứng cho sự
thật.
-
Chúng ta phải đề phòng những kẻ Phản-Kitô và những người không sống xứng đáng với
danh hiệu “Kitô hữu” của mình.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT
GIỐNG NẢY MẦM
Ga 1,19-28
A. Hạt giống...
Gioan tẩy giả có một lối sống đặc biệt (x. Mt
3,4), một lời rao giảng đặc biệt (x. Mt 3,2) và một cách thanh tẩy đặc biệt (x.
Mt 3,6-12 : thời đó cũng có nhiều nhóm làm thanh tẩy, nhưng thanh tẩy của
Gioan có những điểm khác là : a/ không chỉ thanh tẩy cho 1 số người muốn
gia nhập nhóm mình nhưng cho mọi người ; b/ không cần làm đi làm lại nhiều
lần như những nhóm kia. Như thế thanh tẩy của Gioan có nghĩa là bày tỏ lòng sám
hối để dọn lòng lãnh nhận thanh tẩy của Đấng Messia trong Thánh Linh và lửa).
Do đó nhiều người thắc mắc không hiểu ông là ai. Họ đến hỏi ông. Nhân dịp này
Gioan làm chứng về bản thân mình. Ta có thể tóm tắt lời chứng này trong công
thức 3 không 2 phải
- Ông không phải là Messia : Nhiều người
tưởng Gioan là Messia. Ông đoán được ý nghĩ đó nên phủ nhận trước.
- không phải là Êlia : Theo Ml 3,1.23-24 thì
Êlia là kẻ dọn đường cho Messia. Nếu Gioan không phải là Messia thì ít ra ông
cũng là Êlia chứ, vì cách ăn mặc của Gioan rất giống với Êlia (x. 2V 1,8 ss Mt
3,4). Gioan khẳng định ông cũng không phải là Êlia.
- cũng không phải là Vị Ngôn Sứ : Theo Đnl
18,18, Thiên Chúa hứa sẽ cho xuất hiện Vị Ngôn Sứ giống như Môsê. Đó không phải
là bất kỳ ngôn sứ nào mà là Vị Ngôn Sứ tiêu biểu (Le Prophète). Dựa vào câu Đnl
trên. dân do thái vào thế kỳ I trước công nguyên rất khao khát mong chờ Vị Ngôn
Sứ ấy đến sau một thời gian dài đã im tiếng ngôn sứ. Gioan cũng bảo rằng ông
không phải là Vị ngôn sứ.
* mà là tiếng hô của Lời và là kẻ dọn đường cho
Đấng Messia : Gioan trích Is 40,3 để nói rằng ông chỉ là “Tiếng người hô
trong sa mạc”, nghĩa là người dọn đường cho Đấng Messia thôi.
Những người biệt phái mới thắc mắc : Nếu
Gioan không phải là Messia, Êlia hay Vị Ngôn Sứ thì tại sao ông làm phép
rửa ? Sở dĩ họ hỏi vậy là vì phép rửa của Gioan có những điểm đặc biệt hơn
của những nhóm thanh tẩy thời đó (đã giải thích ở c 19 trên). Gioan đáp ông chỉ
thanh tẩy bằng nước. Theo một tài liệu tìm thấy ở Qumrân, gọi là “ Manuel de
discipline” thì khi Đấng Messia đến, Ngài sẽ thanh tẩy bằng Thánh Linh. Gioan
cũng ám chỉ điều đó ở phía sau (c 33) “Hễ thấy Thánh Linh ngự xuống và đậu lại
trên ai thì đó là người thanh tẩy bằng Thánh Linh”. Vì thế, câu trả lời của
Gioan chắc ai cũng hiểu : ông chỉ làm một lễ nghi thanh tẩy có tính chuẩn
bị và tạm thời thôi chứ không phải là sự thanh tẩy cánh chung và messia. Nói
cách khác, ông không phải là Messia.
B.... nẩy mầm.
1. Vào một đêm trăng, Thích Ca ngồi giữa các đệ
tử. Ngài lấy ngón tay chỉ mặt trăng và nói : “Kia là mặt trăng. Cứ ngó
theo ngón tay ta thì thấy, nhưng đừng tưởng ngón tay của Ta là mặt trăng”. Tin
Mừng hôm nay cũng đề cập đến một cuộc đối thoại tương tự giữa Gioan Tẩy giả và
những biệt phái... Họ đặt ra 3 hình ảnh về Gioan : Ông có phải là Đức Kitô
không ? Ông có phải là Êlia không ? Ông có phải là tiên tri không ?
Gioan cho mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc “Hãy dọn đường Chúa”. Gioan đã làm
chứng cho Chúa trong sự khiêm tốn. Người kitô hữu cũng phải làm chứng cho Chúa
về nhiều phương diện : không những giơ ngón tay chỉ Chúa Giêsu cho người
khác mà còn phải là chứng nhân bằng chính cuộc sống nữa” (Trích "Mỗi ngày
một tin vui")
2. Gioan Tẩy giả có một lối sống thu hút nên
nhiều người đến với ngài. Nhưng ngài không giữ họ lại cho mình mà dẫn họ tới
Chúa. Vậy mà nhiều người làm ngược hẳn lại : đã không dẫn người ta đến với
Chúa mà còn ngăn cản hoặc giữ lại cho riêng mình. Người làm chứng cho Chúa đúng
nghĩa phải có thể nói như Gioan “Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi”.
3. Gioan Tẩy Giả đã ‘nói tiếng không’ về bản thân
mình, để ‘nói tiếng có’ về CG. “Tôi không phải là…” ‘Có Đấng… đến sau tôi…” -
Xin Chúa cứ lớn dần trong con để con ngày càng nhỏ bé trong tay Chúa.
4. Ông Gioan trả lời : Có một vị ở giữa các
ông mà các ông không hay biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai
dép cho Người” (Ga 1,27)
Đậy đại học, tôi chuẩn bị vào thành phố. Bạn bè
kéo đến chúc mừng, tôi chỉ mỉm cười nghĩ thầm : “Một lời chúc muộn màng,
vì mình đã biết chắc trước khi thi kìa !”
Tôi là thế đó : kiêu căng và tự phụ. Tôi
chưa bao giờ chịu khuất phục một ai trong lớp, suốt 12 năm học. Và bây giờ cũng
thế, thành công như đốt thêm lửa kiêu ngạo trong tôi. Tôi tự cho phép mình bỏ
qua mọi ý kiến và suy nghĩ của bạn bè, thậm chí cả những lời Chúa dạy nữa. Tôi
quyết định lấy mọi việc và tự hào vì luôn có thể giải quyết mọi vấn đề bằng
chính suy tư của mình.
Dần dà tôi trở thành kẻ cô đơn vì bị bạn bè xa
lánh, đúng hơn chính tôi đã xa lánh họ. Lòng tự mãn khiến tôi nên thiển cận,
hẹp hòi, chỉ nghĩ đến mình mà không biết đến ai, kể cả Thiên Chúa nữa.
Lạy Chúa, xin giúp con hiểu rằng mình chỉ là hạt
cát giữa sa mạc mênh mông, là giọt nước góp nên biển cả, một con người nhỏ bé
trong vũ trụ bao la, để thấy Chúa muôn trùng cao cả. (Epphata)
Lm. Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp. Cần Thơ
02/01/14 THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TRƯỚC LỄ HIỂN LINH
Th. Baxiliô Cả, Ghêgôriô Nadien, gm, tiến sĩ HT
Ga 1,19-28
Th. Baxiliô Cả, Ghêgôriô Nadien, gm, tiến sĩ HT
Ga 1,19-28
ĐẤNG MÀ TÔI ĐÃ KHÔNG BIẾT
Ông Gioan trả lời :”Có một vị
đang ở giữa các ông mà các ông không biết.”
(Ga 1,26)
Suy niệm: Chính Gioan đã hai lần thú nhận
chính ông cũng “đã không biết Người” (x. Ga 1,31.33) thế nên chẳng trách dân
chúng không biết “có một Đấng đang ở giữa họ.”Thật ra không phải là không ai
biết gì về con người Giêsu Nadarét mà còn biết rất rõ một Giêsu, con bác thợ
mộc, sống giữa họ, cũng bình thường như họ, như bao người khác. Phần Gioan ắt
hẳn cũng biết ít nhiều về Giêsu người bà con với mình, nhất là biết những sự
kiện lạ lùng về việc sinh ra của Người. Thế nhưng vẫn còn đó bức màn mầu nhiệm
vượt quá trí hiểu của con người. Đứng trước mầu nhiệm Giêsu, Gioan khiêm tốn
nhìn nhận giới hạn nhân loại của mình. Chính nhờ thế, Gioan lại có thể chứng
thực cho toàn dân biết “Đấng
mà họ không biết”, nhờ ơn mạc khải của Đấng
đã sai ông đi làm phép rửa trong nước: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là
Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (Ga 1,33).
Mời Bạn: Có người thẳng thừng từ khước Thiên Chúa và
mầu nhiệm của Ngài. Có những người khác tiếp cận mầu nhiệm theo lối “người trần
mắt thịt”. Lúc này, lúc khác chúng ta đều có thể thuộc vào một trong hai loại
đó, và do đó chúng ta đã không thể nhận ra “Đấng Emmanuen, Thiên Chúa ở giữa chúng
ta.” Cần có lòng khiêm tốn của Gioan
để có thể thấy Chúa đang ở giữa chúng ta, ở trong anh chị em của mình.
Sống Lời Chúa: Làm một việc bác ái phục vụ một người anh em
bé nhỏ với niềm xác tín mình đang phục vụ Chúa.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa Hài Nhi, xin giúp con nhận ra và phục vụ Chúa nơi những người anh em bé
nhỏ, nghèo hèn.
Suy niệm
Những người Do Thái sai
các thầy tư tế và Lêvi đến với Gioan, lúc đó đang làm phép rửa bên kia sông
Giođan, để hỏi ông là ai. Gioan từ chối không nhận những tước hiệu mà nhiều
người lầm tưởng. Ông nhận mình chỉ là người dọn đường cho một Đấng khác đến sau
nhưng cao trọng hơn ông.
Hôm nay, tôi cần nhìn
Gioan để được Lời Chúa nhắc nhớ và mời gọi: biết mình để khiêm tốn xóa mình.
Mong sao, tôi can đảm
vượt qua những bận tâm về mình, để có thể làm việc cho Chúa, cho Nước Chúa.
Mong sao, tôi can đảm
vượt qua những bận tâm về mình, để có thể nghĩ đến và sống cho hạnh phúc của
người khác.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2
THÁNG GIÊNG
Một Mầu Nhiệm Giấu Ẩn
Trong Hai Tâm Hồn
Giáo
Hội cảm nghiệm niềm vui giáng sinh của Chúa trong mầu nhiệm gia đình – mầu nhiệm
Gia Đình Thánh. Đây là một chân lý đầy chất nhân bản. Với sự chào đời của đứa
con, cuộc hôn nhân giữa hai người nam nữ – giữa vợ và chồng – càng trở nên trọn
vẹn hơn trong tư cách là một gia đình.
Đồng
thời, cuộc sinh hạ của Đức Giêsu là một mầu nhiệm cao cả của Thiên Chúa vén mở
ra trước mắt người trần, một mầu nhiệm giấu ẩn trong đức tin và trong cõi lòng
của Maria và Giu-se ở Na-da-rét. Trước bất cứ ai, hai người là những chứng nhân
duy nhất của biến cố Hài Nhi chào đời tại Bê-lem – biến cố chào đời của Con Đấng
Tối Cao!
Nơi
Maria và Giu-se, Thiên Chúa tỏ lộ mầu nhiệm gia đình. Thiên Chúa xây dựng gia
đình này với Maria và Giu-se – và với cuộc chào đời của Giê-su.
Và
chúng ta, khi biết nhìn bằng con mắt đức tin, sẽ nhận ra rằng qua Gia Đình
Thánh này, Thiên Chúa cho thấy Ngài gần gũi chúng ta biết bao. Gia Đình Thánh ấy
cũng nêu bật địa vị của mọi gia đình trong ánh nhìn của Tạo Hóa. Thật vậy, Đức
Kitô đã trao tặng chúng ta Bí Tích Hôn Nhân như một dấu chỉ của địa vị cao cả ấy.
Tông Đồ Phao-lô đã có thể gọi bí tích này là “một mầu nhiệm lớn lao” của mối
quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội (Ep 5, 32).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 02-01
THÁNH BASILIÔ CẢ VÀ THÁNH GRÊGÔRIÔ
NAZIANZÊNÔ, GIÁM MỤC, TIẾN SĨ HỘI THÁNH
1Ga 2, 22-28; Ga 1, 19-28.
LỜI SUY NIỆM: “Một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông tuyên bố thẳng
thắn, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô”.
Tin Mừng của Gioan, Trình thuật khởi đầu “Sứ vụ của
Chúa Giêsu” với hình ảnh các tư tế và các Thầy Lê-vi đến chất vấn về sứ vụ của
Gioan Tẩy Giả. Nhưng Gioan đã thẳng thắn trả lời: “ông chỉ là tiếng hô trong
hoang địa” Đồng thời Gioan giới thiệu cho biết Chúa Giêsu mới chính là Đấng
Kitô.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã chọn chúng con để trở nên con
cái và Tông đồ của Chúa; để rao giảng và làm chứng cho Chúa. Xin Chúa cho mọi
người trong gia đình chúng con, trong mọi công tác tông đồ luôn biết là: giới
thiệu Chúa, chứ không phải để giới thiệu bản thân mình.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
02-01: THÁNH BASILIÔ CẢ
Giám
mục, Tiến Sĩ (329-397)
Thánh
Basiliô, con người kỳ diệu mà mọi thời gọi là thánh Cả, chào đời vào khoảng cuối
năm 329 tại Cêsarêa, thủ đô miền Cappadocia. Ngài thật có phúc vì được sinh ra
trong một gia đình thánh thiện. Cha Ngài là thánh Basilio, mẹ Ngài là thánh nữ
Emelia. Nhưng sinh ra Ngài, cha mẹ Ngài đã chịu bao nỗi lo âu. Một cơn bệnh nặng
tưởng như đã cất mất mạng sống của Ngài. Việc Ngài bình phục được coi như là kết
quả của lời cầu nguyện mà thôi.
Từ
thuở thơ ấu thánh nhân đã đến sống với người bà là thánh nữ Macrina. Tại đây,
Ngài đã hấp thụ được những nguyên tắc sống đạo đức đầu tiên. Ngài nói: tôi
không hề quên được những lời dạy dỗ và gương lành mà người bà thánh thiện đã
ghi vào trong tâm hồn bé thơ của tôi.
Ngay
khi tới buổi đi học, cha Ngài, một con người vừa đạo đức vừa hoạt bát, đã tự đảm
nhiệm việc dạy dỗ Ngài những yếu tố đầu tiên về văn chương. Sau khi cha qua đời,
Ngài được gửi đi Cêsarea rồi Constantinople để học khoa hùng biện. Sau cùng,
Ngài đi Athena, kinh thành ánh sáng của thế giới nói tiếng Hy Lạp thời đó. Tại
đây, Ngài có dịp làm quen với Thánh Gregoriô thành Nazianze. Hai người kết thân
với nhau và tình bạn đầy thánh thiện của họ không hề bị một áng mây mù nào che
phủ. Trong thành phố xa hoa ấy, họ chỉ biết có hai con đường dẫn tới nhà thờ và
tới trường học.
Sau
khi hoàn tất các môn học, Ngài dồn nỗ lực học kinh thánh và các giáo phụ. Ngài
đã kín múc được từ kho tàng phong phú này những hiểu biết và những tâm tình cao
thượng qui hướng con người lên trời.
Lúc
hai mươi bảy tuổi, Ngài trở về quê nhà và biện hộ cho một vài vụ kiện tụng. Tài
lợi khẩu và thành công tưởng đã cột chặt Ngài vào với pháp đình. Nhưng chị Ngài
là thánh nữ Macrina (trẻ) đã nói cho Ngài biết về sự giả trá của những tài năng
của cả loài người, và về những giá trị chân thực mà Ngài nhhư đã bỏ quên. Thế
là thánh nhân quyết từ giã thế gian và đeo đuổi đời sống tu trì. Ngài đã viếng
thăm các tu viện bên Đông phương để tìm kiếm gương mẫu và thầy dạy đường nhân đức.
Một năm sau Ngài trở về Cappadocia, rồi lui về miền Pont và thiết lập nhiều tu
viện. Các qui luật Ngài soạn ra cho các tu viện đã trở thành danh tiếng và ngày
nay vẫn còn được áp dụng tại các tu viện của Giáo hội công giáo theo nghi lễ
Byzantin. Chính thánh Bênêdictô cũng chịu ảnh hưởng của Ngài qua bản dịch tiếng
la Tinh của Ruffinô. Thánh Basiliô chỉ sống năm năm như tu sĩ trong viện. Nhưng
điều Ngài đã làm đã viết là phần thành công trực tiếp và lâu bền nhất trong
công trình đời Ngài.
Năm
370 khi Đức giám mục Eu-sê-bi-ô qua đời, thánh Basiliô được bầu làm giám mục
Cêsaria. Thánh nhân đã lãnh nhận giáo phận trong một hoàn cảnh đầy sóng gió và
đã tỏ ra là một chủ chăn bất khuất trong việc bảo vệ đức tin. Lúc ấy lạc giáo
Ariô đang ở vào thời cực thịnh. Hoàng đế Va-lăng (valens) đúng vào phái lạc
giáo để bách hại Giáo hội. Thánh Grêgoriô đã kể lại cuộc đời thánh Basiliô, có
lẽ đã tô điểm thêm đôi chút, nhưng đã cho thấy được cá tính của thánh nhân như
thế nào. Va-lăng phái Modestô, một tổng trấn nổi tiếng mưu mô và hung ác đến gặp
thánh nhân.
Hắn
nói: - Tại sao ông dám chống lại hoàng đế và không theo đạo của Ngài.
Thánh nhân trả lời: - Bởi vì Thiên Chúa là hoàng thượng của tôi, Ngài bảo vệ tôi.
Thánh nhân trả lời: - Bởi vì Thiên Chúa là hoàng thượng của tôi, Ngài bảo vệ tôi.
Modestô
vặn lại: - Vậy ông coi chúng tôi là thứ gì chứ ?
Thánh
nhân trịnh trọng đáp lời: - Tôi chẳng coi các ông là gì cả, bởi vì các ông đã bắt
chúng tôi phải có những điều phản nghịch lại thánh ý Thiên Chúa:
Modestô
liền dở trò đe dọa: - Ông không biết rằng tôi có thể cho ông nếm mùi sức mạnh của
chúng tôi sao ?
Nhưng
thánh nhân đã khẳng khái trả lời: - Những hậu quả do sức mạnh của các ông chỉ
có thể là tịch biên tài sản, lưu đày, tra tấn hay là sát hại mà thôi. Đối với
việc tịch biên tài sản thì người không có gì như tôi làm gì mà phải sợ. Tôi
càng không sợ phải lưu đày, bởi vì đâu có Chúa thì đấy cũng là quê hương của
tôi. Đối với những tra tấn ông muốn bắt tôi phải chịu, thì quả thật tôi đã quá
yếu đuối và không đủ sức để chịu được một cuộc tra tấn thứ hai. Về cái chết,
làm sao tôi lại phải sợ, vì nó sẽ sớm đưa tôi về với Thiên Chúa hơn".
Vị
tổng trấn ngạc nhiên: - Tôi chưa hề gặp người nào gan dạ như ông.
Và thánh Basiliô bình tĩnh trả lời: - Bởi vì ông chưa nói chuyện với một giám mục nào.
Và thánh Basiliô bình tĩnh trả lời: - Bởi vì ông chưa nói chuyện với một giám mục nào.
Sau
cuộc đàm thoai nẩy lửa này, tình hình lắng dịu một thời gian. Nhưng vì áp lực của
bè rối, hoàng đế Valăng tính bắt giám mục Basiliô đi đày. Nhưng ý định bất
thành vì ngay đêm trước con ông ngã bệnh nặng, được giám mục viếng thăm và cầu
nguyện cho lành, nó cũng đã qua đời vì sự thay lòng đổi dạ của nhà vua. Dầu vậy,
dưới áp lực mạnh mẽ của bè rối, vua cũng quyết ký án lệnh phát lưu Đức giám mục.
Lần này, ông vẫn thất bại vì ba bốn lần cầm lấy viết thì viết bị hư, cầm đến ấn
thì ấn bị bể nát.
Ngoài
sự can trường để bảo vệ đức tin chân chính, thánh Basilio còn là một mục tử nhiệt
hành và giàu lòng bác ái, Ngài đã liên tục đi thăm viếng từng miền trong giáo
phận, Ngài chuyên chăm dạy dỗ đoàn chiên và một số bài giảng của Ngài được lưu
giữ tới ngày nay là những công trình thần học rất đáng giá. Ngoài ta thánh nhân
còn thương yêu đặc biệt những người nghèo khó bệnh tật. Ngài đã thiết lập một
nhà thương, đặt tên là Basiliô (Basiliade) để săn sóc họ.
Thánh
nhân đã được sống để chứng kiến cái chết của Valăng lẫn sự tàn lụi của lạc giáo
Ariô. Nhưng chẳng bao lâu sau Ngài cũng qua đời vì kiệt sức, ngày 1 tháng giêng
năm 379.
****************************
Ngày
02-01: Thánh GREGÔRIÔ NAZIANZÊNÔ
Giám
Mục Tiến Sĩ - (329 - 390)
Thánh
Grêgôriô Nazianzênô là một trong những giáo phụ danh tiếng của giáo hội Hy Lạp
và được mệnh danh là thần học vì giáo thuyết rất sâu sắc của Ngài. Ngài ra đời
khoảng năm 329, trong một gia đình danh giá và đáng mến chuộng. Cha Ngài, cũng
tên là Grêgôriô, lúc ấy còn là lương dân. Nhưng thánh nữ Monna, mẹ Ngài, nhờ
nhân đức siêu vượt, sự dịu hiền, đời sống gương mẫu với kinh nghiệm và nước mắt
đã đưa ông về với Chúa Giêsu.
Thánh
Leông (Léonce) giám mục thành Cêsarêa đã rửa tội cho ông. Vài năm sau, nhờ đời
sống đạo đức trổi vượt, ông đã xứng đáng lãnh chức giám mục, cai quản điạ phận
Nazianze.
Thánh
Grêgôriô ra đời như kết quả lời cầu nguyện của bà mẹ thánh thiện, chỉ mong có
được người con để phục vụ bàn thánh. Khi thánh nhân ra đời, bà coi Ngài như quà
tặng của trời cao. Được đào tạo trong một môi trường thánh thiện như vậy, ngay
từ nhỏ, Ngài đã biết quí trọng những nét đẹp của tội thơ vô tội.
Thánh
nhân được cử đi học hùng biện ở Cêsarêa, rồi Palestina. Sau đó Ngài đã qua
Alexandria và sau cùng tới Athena là nơi coi là nguồn gốc đích thật của khoa
hùng biện, trên đường tới Athena, con tàu thánh nhân đi đã phải một cơn bão dữ
dội, tưởng chừng như sẽ bị đắm chìm trong lòng biển. Lúc ấy thánh nhân chưa được
rửa tội và rất lo âu cho phần rỗi của mình. Ngài tha thiết cầu khẩn Thiên Chúa
thánh cho được sống thêm, để có thể làm con Chúa. Thánh nhân đã được nhậm lời.
Cơn giông bão chấm dứt và Ngài tới được Athena.
Tại
đây thánh Gregorio gặp lại một người bạn cũ của mình là thánh Basiliô. Mối giây
thân tình giữa các Ngài ngày càng trở nên bền chặt hơn. Cho đến ngày nay, người
ta vẫn còn trưng dẫn hai vị nhân này như là khuôn mẫu cho tình bạn trong trắng
và chân thành nhất. Không thể lìa xa nhau, họ còn chú tâm tránh thoát mọi cuộc
kết thân nguy hiểm và chỉ giao tiếp với những bạn bè mà lòng hiếu học luôn đi
đôi với việc thực hành các nhân đức. Không bao giờ người ta thấy họ đi vào các
cuộc giải trí có tính cách trần tục. Trong thành phố xa hoa ấy họ chỉ biết có
hai con đường dẫn tới nhà thờ và các trường học.
Hoàn
tất việc học hành, thánh Grêgôriô trở về sống với cha mình đang làm giám mục
cai quản giáo phận Nazianze và được cha ban phép Rửa tội cho. Một khi đã được
đóng ấn tín thần linh, Ngài coi mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và hiến thân
phung sự Ngài,
Ngài
nói: - "Tôi hiến trọn cho Đấng đã ban cho tôi tất cả. Từ nay chỉ có Ngài
là phần sản nghiệp của tôi".
Tình
thảo hiếu đã giữ lại bên người cha già tám mươi tuổi trong ba năm trời. Ngài
giúp đỡ cha trong mọi công việc và chăm sóc mọi việc trong nhà. Nhưng lòng yêu
thích được ẩn dật đã đưa Ngài tới gặp thánh Basiliô đang theo đuổi nếp sống tu
trì. Ngài đã sống xa thế gian một thời gian và chỉ lo tới sự hoàn thiện của
mình. Nhưng thời gian ẩn dật này mới chỉ đủ cho Ngài nếm thử được sự ngọt ngào
để mà luyến tiếc thôi, người cha già chín mươi tuổi đã gọi Ngài về giúp việc điều
khiển giao phận. Nhận thấy rằng: Giáo hội sẽ được lợi ích nhiều bởi người con
thân yêu của mình, vị thánh giám mục già cả đã truyền chức linh mục cho Ngài
ngày 6 tháng 1 năm 362. Lúc ấy thánh Gregôriô hơn ba muôi lăm tuổi và ấn tích mới
càng tăng thêm nhiệt tình của Ngài.
Thánh
Basiliô lúc ấy đã làm tổng giám mục Cêsalêa, quyết định nâng thánh Gregoriô lên
làm giám mục cai quản điạ phận Sarima. Nhưng vì những chống đối dữ dội, Ngài đã
không hề tới nhậm điạ phận được và dường như Ngài chịu chức giám mục chỉ để
giúp đỡ người cha mà tuổi tác đã không cho phép chu toàn phận sự được nữa. Sau
khi cha qua đời năm 374 thánh nhân trở lại Nazianze săn sóc cho giáo phận,
nhưng không hề muốn làm giám mục của giáo phận này.
Năm
380, tức là khoảng năm năm sau, các tín hữu ở Constantinopkle đã khẩn nài thánh
nhân tới củng cố giáo phận đã bị bè rối Ariô tàn phá của họ, với nhiệt tâm tông
đồ, thánh nhân đã nhận lời. Trước tiên thánh nhân đã không được tiếp đón nồng hậu
lắm. Trong một thành phố xa hoa giàu có vì là thủ đô mới của đế quốc này, người
ta đang ngóng đợi một nhân vật có khuôn mặt sáng sủa giữa một đám rước linh
đình. Nhưng người ta đã vô cùng kinh ngạc khi thấy Ngài chỉ là một ông lão già
yếu, ăn mặc giản dị và lời nói vắn gọn.
Những
người theo lạc giáo Ariô chế giễu phỉ báng Ngài. Dầu vậy, bằng những giáo huấn
vững chắc và hùng hồn, Ngài đã thành công trong việc đưa dân thành này từ chỗ bỏ
cái sai lầm của lạc giáo mà trở về với đức tin công giáo. Sau bốn mươi bị năm bị
tàn phá. Giáo phận không có nhà thờ, Ngài rao giảng trên đường phố hay tại một
ngôi nhà mà Ngài đăt tên là Anastasia.
Hương
thơm nhân đức và sự hiểu biết uyên thâm của Ngài đã lối kéo cảm tình người nghe
càng thêm đông. Từ trong sa mạc, thánh Hiêronymô cũng tìm đến nghe người giảng
thuyết. Tuy nhiên bề ngoài khiêm tốn bình dị và hoàn cảnh khó khăn ấy cũng là một
khó khăn khiến cho địch thủ đã nhiều lần toan tính ám hại Người.
Năm
381, công đồng chung họp tại Constantinople, thánh Grêgôriô được bầu lên làm
giám mục chính tòa của giáo phận này và giữ ghế chủ tịch công đồng. Nhưng ít
lâu sau, một số giám mục đã chất vấn tính cách hợp pháp của chức vụ Ngài. Lợi dụng
những chống đối này, thánh Grêgôriô đã xin từ chức. Sau khi đã làm vui lòng các
nghị phụ công đồng bằng quyết định của mình, thánh nhân đã đe5 đơn lên Hoàng đế
Têodô (Thésdose) Hoàng đế buộc lòng chấp thuận, cho Ngài từ nhiệm, chỉ vì lý do
sứ ckhỏe mà thôi. Trước khi dứt mình khỏi Giáo hội mà Ngài đã dày công tạo lập
với đầy tình yêu quí, Ngài đã nói với mọi tín hữu và với các nghị phụ một diễn
từ đặc sắc. Người ta gọi diễn từ ấy là: những lời giã biệt (Les Adieux).
Lui
về Nazianze, thánh Grêgôriô dành thời gian viết sách. Năm 390 Ngài qua đời và để
lại cho Giáo hội một kho tàng quí báu gồm 45 bài suy luận thần học và điếu văn,
245 bức thư và mấy tập thi ca. Người ta đọc cuộc đời trong những tác phẩm có
giá trị văn chương và tín lý, chính ân đức ấy và sức mạnh tinh thần của Ngài.
Người
ta còn giữ được bản di chúc và bản văn trên bia mộ chính Ngài sáng tác. Bản mộ
thi này là một tóm lược khúc chiết trọn đời Ngài với những dòng kết thúc như
sau: - "Tôi là mục tử không có đoàn chiên, và tôi đã đau khổ không ít bởi
chính các mục tử. Tôi để Chúa Giêsu Kitô lo lắng cho tương lai đời tôi như
chính Người đã lo cho tôi trong quá khứ".
(daminhvn.net)
02
Tháng Giêng
Ðóng Thuế Cho Năm Mới
"Ðóng
Thuế Cho Năm Mới: 15 người thiệt mạng, khoảng 1,500 người bị thương, gần 2,500
lâm cảnh màn trời chiếu đất". Trên đây là hàng tít lớn của hầu hết các nhật
báo xuất bản tại thủ đô Manila Phi Luật Tân, trong số ra ngày mùng 02 tháng
Giêng mỗi năm, tức là số báo đầu tiên trong năm. Dường như đây là công thức
quen thuộc mà bất cứ nhật báo nào cũng đưa ra số báo đầu năm. Ðó cũng là điều
mà dân chúng chờ đợi sau một đêm đón giao thừa trong tiếng nổ liên tục của pháo
và trong khói bay mịt mù.
15
người xấu số trên đây đều là nạn nhân của những vụ đâm chém, bắn giết vì say
sưa quá chén trong đêm giao thừa. 1,500 người bị thương khác là nạn nhân của bất
cẩn trong khi đốt pháo.
Chỉ
riêng ở thủ đô Manila thôi, chưa tính số tiền được đốt đi trong tiếng pháo, số
thiệt hại vì hỏa hoạn và những thiệt hại khác lên đến cả triệu Mỹ kim.
Hôm
nay thì mọi người đều trở lại với sinh hoạt bình thường của mình. Ðọc bảng tin
về những gì đã xảy ra trong Ðêm Giao Thừa và Ðầu Năm, ai cũng bàng hoàng xót xa
cho những người xấu số và có lẽ ai cũng thở ra nhẹ nhõm vì bất trắc đã không xảy
đến cho mình. Người ta nghĩ rằng may mắn vẫn còn đó. Bảng tổng kết Ðầu Năm và lời
kêu gọi đề phòng cho Năm Mới không mấy chốc cũng sẽ đi vào quên lãng. Bánh xe lịch
sử cứ lăn và con người cũng sẽ tiếp tục lập lại những lỗi lầm của quá khứ.
Người
Á Ðông chúng ta thường nói: "cha ăn mặn thì con khát nước". Kinh
Thánh Cựu Ước cũng viết: "cha ông ăn nho xanh thì con cháu phải ê
răng". Người tin ở thuyết quả báo thì cho rằng con cái phải gánh chịu những
hậu quả do lầm lỗi của ông bà để lại.
Trong
một cái nhìn khách quan và sâu xa hơn, chúng ta phải nói rằng lịch sử thường lặp
lại. Lịch sử thường lặp lại, bởi vì nó được cấu tạo bởi những biến cố do con
người chủ động. Mà bởi vì mẫu số chung của con người ở mọi thời đại vẫn là tự
do, cho nên những lầm lẫn giống nhau được lập lại là chuyện bình thường, có
khác chăng là khác ở mức độ và hình thức mà thôi. Ở thời đại nào mà không có
chiến tranh, ở thời đại nào mà không có cảnh người bóc lột người, ở thời đại
nào mà không có tham, sân, si?
Người
Kitô chúng ta hãy nhìn vào bản thân và lịch sử của nhân loại với một cái nhìn
thực tế và lạc quan. Thực tế để thấy rằng sống là một cuộc chiến đấu không ngừng:
chiến đấu giữa thiện và ác, chiến đấu giữa tự do và nô lệ, chiến đấu giữa ân sủng
và tội lỗi. Thực tế để thấy rằng cuộc chiến ấy đang diễn ra trong từng phút
giây của cuộc sống. Nhưng chúng ta cũng hãy có cái nhìn lạc quan, lạc quan và
tin rằng, lầm lỗi thất bại là khởi đầu của những ân ban dồi dào hơn, và trong
cuộc chiến từng ngày đó: Thiên Chúa vẫn luôn có mặt để nâng đỡ chúng ta.
(Lẽ
Sống)
Thứ Năm 2-1
Thánh Basil Cả
(329 - 379)
Thánh Basil đang là một
thầy giáo nổi tiếng thì ngài quyết định theo đuổi đời sống tu trì nghèo hèn của
Phúc Âm. Sau khi tìm hiểu các phương thức tu trì, có thể nói ngài là người sáng
lập đan viện đầu tiên ở Tiểu Á. Ngài nổi tiếng đối với các vị ẩn tu Ðông Phương
cũng như Thánh Benedict nổi tiếng ở Tây Phương, và quy luật ngài viết đã ảnh
hưởng đến đời sống đan viện Ðông Phương mãi cho đến ngày nay.
Sau khi thụ phong linh
mục, ngài phụ tá cho Ðức Tổng Giám Mục của Caesarea (bây giờ là vùng đông nam
Thổ Nhĩ Kỳ) và sau cùng chính ngài trở thành tổng giám mục, bất kể sự chống đối
của các giám mục phó, có lẽ vì ngài đã nhìn thấy những canh tân cần thiết.
Trong nhiệm vụ của một tổng giám mục, ngài siêng năng học hỏi và làm việc liên
lỉ. Ðiều này giúp ngài được gọi là "Vĩ đại" ngay trong thời của ngài
và là Tiến Sĩ Hội Thánh sau khi ngài chết.
Vào thời ấy, một trong
những nguy hại nặng nề cho Giáo Hội là bè rối Arian, mà họ khước từ thiên tính
của Ðức Kitô. Hoàng đế Valens bách hại đạo chính thống, và ép buộc Ðức Basil
phải giữ im lặng và chấp nhận cho những người bè rối được rước lễ. Ðức Basil
giữ vững lập trường, và Valens phải nhượng bộ. Nhưng khó khăn vẫn còn. Khi vị
đại thánh Anthanasius từ trần, trách nhiệm che chở bảo vệ đức tin chống với bè
rối Arian đổ xuống trên Ðức Basil. Ngài cố gắng khủng khiếp để kết hợp và phục
hồi những người Công Giáo theo ngài đang bị tan nát vì sự bạo ngược và vì chia
rẽ nội bộ. Có thể nói sự chiến thắng tà thuyết Arian trong Công Ðồng Nicene và
việc lên án tà thuyết này trong Công Ðồng Constantinople năm 381-382, phần lớn
là do công lao của ngài.
Ngài làm việc không biết
mệt trong công việc mục vu, chống với nạn buôn thần bán thánh, giúp đỡ nạn nhân
của hạn hán và đói kém, cố gắng thay đổi hàng giáo sĩ, nhấn mạnh đến tinh thần
kỷ luật, ngài không sợ lên án những điều xấu xa một khi được nhận thấy, và ra
vạ tuyệt thông những ai dính líu đến nạn mãi dâm ở Cappadocia.
Ðức Basil nổi tiếng là
một nhà diễn thuyết. Các văn bản của ngài, dù thời ấy không nổi tiếng, đã đưa
ngài lên hàng các bậc thầy của Giáo Hội. Bảy mươi hai năm sau khi ngài từ trần,
Công Ðồng Chalcedon đã đề cập đến ngài là "Ðức Basil vĩ đại, người thừa
tác ơn sủng đã dẫn giải chân lý cho toàn thể trái đất."
Lời Bàn
Như người Pháp thường
nói, "Càng thay đổi bao nhiêu, họ càng giữ nguyên như vậy."
Thánh Basil phải đối diện với các khó khăn giống như Kitô Hữu ngày nay. Bổn
phận của một vị thánh là duy trì tinh thần Ðức Kitô trong những vấn đề thật đau
khổ và phức tạp, như cải cách, tổ chức, chiến đấu cho người nghèo, duy trì sự
quân bình và bình an khi bị hiểu lầm.
Lời Trích
Thánh Basil nói: "Thực
phẩm mà bạn không dùng là thực phẩm của người đói; quần áo bạn treo trong tủ là
quần áo của người trần truồng; giầy dép bạn không dùng là giầy dép của người
chân không; tiền bạc bạn cất giữ là tiền bạc của người nghèo; hành động bác ái
mà bạn không thi hành là những bất công mà bạn đã phạm."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét