15/06/2014
Chúa Nhật sau Lễ Hiện
Xuống
Lễ Chúa Ba Ngôi Năm A
(phần I)
Bài
Ðọc I: Xh 34, 4b-6. 8-9
"Thiên
Chúa là Ðấng thống trị, từ bi và nhân hậu".
Trích
sách Xuất Hành.
Ngày
ấy, từ sáng sớm, Môsê chỗi dậy và lên núi Sinai, như Chúa đã truyền dạy cho
ông, ông mang theo hai bia đá. Khi Thiên Chúa ngự trên đám mây, Môsê đứng trước
mặt Chúa và kêu cầu danh Chúa.
Chúa
đi qua trước mặt ông và hô: "Ðức Chúa! Ðức Chúa! Thiên Chúa thương xót và
từ nhân, bao dung, đầy nhân nghĩa và tín thành". Môsê vội vã sấp mình xuống
đất thờ lạy và thưa rằng: "Lạy Chúa, nếu con có ơn nghĩa trước nhan thánh
Chúa, thì xin Chúa hãy đi cùng với chúng con, (vì dân này là dân cứng đầu), xin
xoá mọi gian ác và tội lỗi chúng con, xin nhận chúng con làm cơ nghiệp của
Chúa".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Ðn 3, 52. 53. 54. 55. 56
Ðáp: Chúa đáng ca
ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).
Xướng:
1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi,
tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi,
tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Ðáp.
2)
Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh
muôn đời. - Ðáp.
3)
Chúc tụng Chúa ngự trên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
- Ðáp.
4)
Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca
ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
5)
Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: 2 Cr 13, 11-13
"Ân
sủng của Ðức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh
Thần".
Trích
thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh
em thân mến, anh em hãy vui lên, hãy nên trọn lành, hãy khuyến khích nhau, hãy
đồng tâm nhất trí, và hoà thuận với nhau, thì Thiên Chúa, nguồn sự bình an và
tình yêu, sẽ ở với anh em. Anh em hãy chào nhau bằng cái hôn thánh thiện. Tất cả
các thánh ở đây gởi lời chào anh em. Nguyện xin ân sủng Ðức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng
tất cả anh em. Amen.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia:
Kh 1, 8
Alleluia,
alleluia! - Sáng danh Ðức Chúa Cha, và Ðức Chúa Con, và Ðức Chúa Thánh Thần;
sáng danh Thiên Chúa Ðấng đang có, đã có và sẽ đến. - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 3, 16-18
"Thiên
Chúa đã sai Chúa Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư
mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần
để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai
tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi,
vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Thiên
Chúa Ba Ngôi Nhân Ái
Sau
khi đã cử hành hết các mầu nhiệm trong cuộc đời của Chúa Cứu Thế, từ khi Người
sinh ra cho đến khi Người chịu chết-sống lại-lên trời; và nhất là sau khi đã được
đầy Thánh Thần đến soi sáng, dạy bảo, nâng đỡ và hướng dẫn, hôm nay Giáo hội cử
hành mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong niềm hân hoan trìu mến. Có thể nói được
rằng khi chưa hiểu rõ Ðức Yêsu Kitô và khi chưa được Thần linh hóa nhờ việc đón
nhận Thánh Thần, người ta chưa "biết" được Thiên Chúa. Thế nên lễ
Thiên Chúa Ba Ngôi cử hành hôm nay đã được chuẩn bị bằng các lễ cử hành trước
đây. Và mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm cao cả nhất, mà Ðức Yêsu Kitô
không những đã phải để cả cuộc đời trần gian của Người mà còn đã phải chết, sống
lại, lên trời và sai Thánh Thần xuống mới mạc khải hết được cho chúng ta biết về
mầu nhiệm sâu xa nơi Thiên Chúa.
Do
đó, muốn am hiểu, yêu mến Thiên Chúa Ba Ngôi chúng ta không thể cậy vào sức suy
nghĩ của loài người, nhưng phải tựa vào mạc khải của Ðức Kitô và ơn soi sáng của
Thánh Thần. Chúng ta sẽ thấy thật không có dân nào có Chúa mình ở gần như Thiên
Chúa chúng ta rất gần gũi với Dân Người. Và điều này chúng ta thấy đã được mạc
khải ngay từ thời Cựu Ước.
A.
Thời Cựu Ước
Bài
sách Xuất hành hôm nay cho ta thấy từ sáng sớm, Môsê đã chỗi dậy và lên núi
Sinai. Chúng ta phải cảm phục ông. Một mình ông có những tư tưởng thâm thúy về
Thiên Chúa. Những đoạn sách Xuất hành trước cho biết toàn thể con cái Israel đã
suy nghĩ vớ vẩn về Ðấng mà họ muốn tôn thờ. Ngay cả Aharôn, người phát ngôn
viên của Môsê, cũng không cưỡng lại được những ý nghĩ sai lầm của thời đại về
Thiên Chúa. Ðang khi một mình Môsê ở trên núi, toàn thể con cái Israel đã phạm
tội, đã "đánh đĩ", nếu chúng ta muốn dùng danh từ chuyên môn trong
khoa học về các tôn giáo thời xa xưa. Họ quên Ðấng Thiên Chúa Vô hình đã dẫn
đưa họ ra khỏi Aicập. Họ muốn có Chúa của họ một cách cụ thể, mà mắt có thể thấy
và tay có thể rờ. Nói một cách cụ thể, họ đòi Thiên Chúa phải ở trong tầm tay của
họ, để theo lời họ nói "đi trước họ", mở lối đi thẳng tắp khiến đường
đời của họ được trơn tru và không cần phấn đấu. Họ muốn có một mảnh bùa hộ mạng
trên đường đời đầy nguy hiểm. Nên họ xin Aharôn đúc cho một tượng bò. Rồi họ nhảy
nhót mừng rỡ khánh thành tượng bò ấy.
Ở
trên núi xuống, Môsê thấy toàn dân đang quay cuồng. Ông phẫn nộ. Và sẵn hai bia
đá trong tay, ông liệng thẳng vào tượng bò. Toàn dân kinh hoàng. Nhưng rồi họ
cũng hiểu cơn giận của ông. Ông quảng đại. Ông tha thứ. Nhưng còn đâu hai bia
đá với lệnh truyền của Chúa? Phải thưa lại với Người làm sau bây giờ? Run sợ,
nhưng tin tưởng và tín thác, Môsê đã tiến lên gặp Chúa. Ông đã gặp được tình
thương nơi Ðấng Công chính và Thánh thiện. Ngài không bớt đòi hỏi, vì mọi đòi hỏi
của Ngài chỉ xây dựng hạnh phúc của con người mà thôi. Nhưng Ðấng rất đòi hỏi ,
Ðấng đã tự xưng là "Chúa hay ghen", cũng là Ðấng đầy tình thương.
Ngài hứa với Môsê, hôm sau ông trở lại lên núi, Ngài sẽ viết cho hai bia đá
khác. Chính vì vậy mà hôm nay ngay từ sáng sớm, Môsê đã chỗi dậy và lên núi,
mang theo hai bia đá.
Và
sách Xuất hành kể tiếp: Yavê đã xuống với Môsê, hô Danh Ngài cho ông biết: Yavê
là Thiên Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung và đầy nhân nghĩa, tín thành. Giữ
nghĩa cho đến ngàn đời, chịu đựng lỗi lầm, quá phạm và tội khiên nhưng không
coi tội dường thể vô can.
Bằng
những lời như thế, tác giả sách Xuất hành tỏ ra đã hiểu rõ lòng Chúa trong Cựu
Ước, nếu không phải là chính Chúa đã để cho loài người được biết Ngài là Ðấng
nào. Ngài thánh thiện, công minh tuyệt đối, "không coi tội dường thể vô
can". Nhưng đối với loài người tội lỗi, Ngài lại "chạnh thương, huệ
ái, bao dung, đầy nhân nghĩa, chịu đựng lỗi lầm, quá phạm và tội khiên".
Hiểu
rõ Thiên Chúa như vậy, bao thế hệ người công chính sống giữa dân tội lỗi
"cứng đầu" vẫn một mực tin ở Ngài và chắc chắn Ngài chẳng bỏ rơi cơ
nghiệp Ngài đã chọn. Ðối với họ, Thiên Chúa là Ðấng ngàn trùng chí thánh, không
coi tội dường như thể vô can; nhưng đồng thời lại là Ðấng đầy lòng nhân nghĩa,
không muốn tội nhân phải chết, một muốn họ trở lại mà được sống. Thế nên họ chờ
mong ơn cứu chuộc. Họ trông chờ Ðấng Cứu Thế, vì Chúa đã mạc khải cho họ biết
Ngài là Ðấng như vậy và Ngài vẫn tự xưng là Ðấng Thánh của Israel. Ngài thánh
thiện nhưng vẫn thương Israel tội lỗi. Ngài phải thi hành một kế hoạch nào đó
giải quyết mối căng thẳng giữa thánh thiện và tình thương, giữa công chính và
nhân nghĩa, giữa Thiên Chúa và con người. Và giải pháp ấy đã có, khi Ðức Kitô
xuất hiện và như lời Người nói với Nicôđêmô hôm nay.
B.
Thời Tân Ước
Luật
sĩ này tìm đến thăm Người vào lúc ban đêm. Ông ở trong đêm tối và đi đường tối
tăm để đến gặp Chúa. Sách Tin Mừng Yoan thích nói đến u tối và ánh sáng, nên
chúng ta phải để ý đến chi tiết này hầu hiểu được ý của tác giả. Nicôđêmô có thể
nói, tượng trưng cho con người Dothái sống bám vào Luật pháp. Ông là luật sĩ.
Ông chỉ biết có luật. Nên sánh với Ðức Yêsu là "ánh sáng đến trong thế
gian", ông còn ở trong đêm tối và còn đi trong bóng tối.
Tuy
nhiên ông biết Luật pháp. Và Luật pháp cùng với Tiên tri đều nói về Con Người.
Ta phải giả thiết rằng ông biết sách Xuất hành, biết tư tưởng của sách ấy về
Thiên Chúa, biết Ngài là Ðấng Thánh của Israel như chúng ta vừa trình bày, tức
là biết Thiên Chúa rất công chính nhưng đầy lòng nhân nghĩa muốn thi thố ơn cứu
chuộc loài người tội lỗi. Thì nay Ðức Yêsu mạc khải cho ông tiếp diễn kế hoạch
của Thiên Chúa. Người nói: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban
Con Một Người để... ai tin... thì được sống đời đời".
Ðó
là mạc khải mới mẻ. Trước đây, dân Israel chỉ biết "một" Thiên Chúa.
Cũng có lần họ thưa Ngài là Cha, nhưng nghĩ chỉ là Cha của họ, Cha đối với tạo
vật đã sinh ra chúng. Và khi xưng với Ngài là con, họ cũng chỉ hiểu theo tương
quan Tạo hóa-tạo vật. Cùng lắm họ đã nghĩ đến tương quan Giao ước và tưởng
Thiên Chúa là Cha theo nghĩa Ngài đã tuyển chọn Dân, tức là đã sinh ra Dân.
Nhưng
hôm nay, Ðức Yêsu tuyên bố với Nicôđêmô một điều mới hẳn: Thiên Chúa yêu thương
loài người nên sai Con Một Người xuống thế. Như vậy, Thiên Chúa là Cha ngay nơi
bản tính của mình, ngay trong lòng mình vì Người có một người Con. Và như thế,
Người là Cha theo một nghĩa rất đặc biệt. Vì có gì ở nơi Thiên Chúa mà lại
không đặc biệt, nghĩa là khác với mọi quan niệm chúng ta thường dùng! Chẳng vậy
mà có lần Ðức Yêsu nói: các ngươi là những người xấu còn biết cho con cái mình
những điều tốt lành, huống nữa là Cha trên trời. Và câu ấy đã không làm ai bực
mình vì mọi người đều công nhận Thiên Chúa vô cùng tốt lành, tốt lành quá sức
chúng ta tưởng tượng; do đó Người cũng là Cha ngoài quan niệm thông thường của
chúng ta, vì Người có Con Một cùng một bản tính với mình. Và Người Con ấy, nay
Người gửi xuống với loài người vì yêu thương chúng ta.
Chắc
chắn hôm ấy Nicôđêmô đã không hiểu gì; nếu không, ông đã phải quỳ mọp xuống thờ
lạy Con Một Thiên Chúa sinh ra làm người. Ông không tin người đang nói với mình
đây là Con Thiên Chúa, nên ông không được sự sống đời đời. Và ông đã ra về
trong đêm tối. Ông vẫn là Luật sĩ của đạo cũ; tiếp tục suy nghĩ và đi trong đường
lối của Luật pháp, mặc dầu Ðức Yêsu đã mạc khải hết cho ông.
Không
những Người nói cho ông biết Thiên Chúa là Cha, đã ban Con Một Ngài để ai tin ở
Con của Ngài thì được sống đời đời; Người còn nói cho ông hiểu bản chất của Chúa
Con cũng y hệt bản chất của Chúa Cha. Nếu Luật pháp và Tiên tri đã dạy Thiên
Chúa là Ðấng Thánh của Israel, vừa chí công vừa chí ái, và chỉ muốn cứu độ trần
gian, thì Ngài cũng không sai Con của Ngài xuống thế để luận phạt thế gian,
nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ. Cựu Ước đã nhiều lần tuyên
xưng Thiên Chúa là Cứu Chúa vì lẽ Ngài luôn luôn cứu dân và chỉ muốn cứu dân,
thì nay Con của Ngài xuống thế cũng chỉ muốn ôm ấp một mục đích ấy, là cứu dân
khỏi tội, là thể hiện tình nhân nghĩa của Thiên Chúa, để nhân loại được thánh
như Thiên Chúa là Ðấng Thánh.
Thế
nên khi được biết Thiên Chúa là Cha theo nghĩa đặc biệt là Ngài có một người
Con Một cùng bản tính với Ngài, nhân loại không thấy mất mát gì, cho dù sẽ phải
dè dặt hơn khi xưng Ngài là Cha. Nhân loại còn được hân hoan vinh dự bội phần,
vì được Thiên Chúa thương yêu dường ấy, ban cả Con Một Ngài làm ân ban cho
chúng ta để nhờ người Con này mà chúng ta được sống đời đời. Việc Con Một Thiên
Chúa đến với chúng ta và ở giữa chúng ta chứng tỏ tình thương lạ lùng của Thiên
Chúa đối với loài người. Không những chúng ta có thể nói: nhìn thấy Con Thiên
Chúa là nhìn thấy tình nhân nghĩa của Thiên Chúa. Hơn nữa chúng ta còn phải
tin: Người là một với Thiên Chúa Cha vì Người đến không phải để luận phạt mà để
cứu chuộc. Tuy nhiên cũng giống nơi Chúa Cha, không phải chỉ có nhân nghĩa mà
còn có công chính, Chúa Con đến để cứu sống những ai tin; còn kẻ không tin vào
Danh Người thì đã tự luận phạt mình.
Hiểu
về Chúa Cha và Chúa Con như vậy; Phụng vụ hôm nay rất đồng ý với Thánh Phaolô
và mượn mấy lời thư của người mà khuyên bảo chúng ta.
C.
Hãy Vui Lên
Chúng
ta đã quá quen với những lời khuyên này. Nhưng đây là tâm tình của một Phaolô
thông hiểu các mầu nhiệm thần học và không biết gì khác ngoài Ðức Yêsu Kitô chịu
đóng đinh. Phaolô gặp Người lần đầu tiên trên con đường Ðama. Và ơn đầu tiên
Người ban cho Phaolô là "được thấy và được đầy Thánh Thần" (Cv 9,17).
Trước đây, ông chỉ biết Cựu Ước hay nói đến Thần trí. Và ông tin rằng Thần trí
đã xuống trên Môsê và các tiên tri. Nhưng bản thân ông thì chưa kinh nghiệm.
Nay sau khi được Hananya đặt tay, ông đã thấy và kinh nghiệm thật sự Thần trí
đã xuống trên ông, thay đổi ông hoàn toàn, khiến lập tức ông đã rao giảng trong
các hội đường về Ðức Yêsu; chính Người là Con Thiên Chúa. Từ đó, càng làm việc,
ông càng thấy rõ hiệu năng của việc đặt tay. Thánh Thần đổi mới con người ta
khiến họ từ bỏ những công việc xấu xa của nếp sống cũ và có nhiều thể hiện của
nếp sống mới là: mến yêu, vui mừng, bình an, bao dung, khoan hậu, nhân lành,
tín nghĩa, hiền từ, tiết độ, mà Phaolô gọi là hoa quả của Thánh Thần. Ðặc biệt
ông thấy trong các giáo đoàn đều có rất nhiều đặc sủng: người thì được quyền
làm phép lạ, kẻ khác được ơn nói tiên tri, kẻ khác lại được ơn biện biệt các Thần
khí, người thì được nói các thứ ngôn ngữ, người lại được ơn diễn giải các ngôn
ngữ. Hết mọi điều đó, Phaolô thấy, cũng chỉ một Thần khí độc nhất tác thành ra
cả, phân chia cho mỗi người tùy theo ý Ngài.
Phải
nhớ như trên mới hiểu được những lời súc tích của thư Phaolô hôm nay, đặc biệt
là câu kết. Tác giả viết: Nguyện xin ân sủng Ðức Yêsu Kitô Chúa chúng ta và
tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh
em. Tác giả không nói đến Chúa Cha trước, nhưng bắt đầu nài xin ân sủng của Ðức
Yêsu Kitô, vì lẽ chúng ta phải nhờ Ngài mà đến cùng Chúa Cha và được ơn Chúa
Thánh Thần. Chính Phaolô đã được ơn của Ðức Yêsu Kitô trước. Và mọi tín hữu đều
phải bắt đầu tin và chịu phép Rửa nhân Danh Ðức Kitô. Có đi qua sự chết và sự sống
lại của Ngài, người ta mới ra khỏi thế hệ tà vạy, trở thành người được ân sủng
đẹp mắt Thiên Chúa. Lúc ấy được ơn của Ðức Yêsu Kitô cứu chuộc và được sát nhập
vào Thân Thể của Ngài, người ta mới trở nên nghĩa tử, được tình yêu của Chúa
Cha, được Thiên Chúa là Cha theo một ý nghĩa đặc biệt. Mọi căng thẳng trước đây
giữa sự công chính và nhân nghĩa trong tương quan giữa Thiên Chúa và loài người
không còn nữa, vì người ta đã được cứu chuộc nhờ ân sủng của Ðức Yêsu Kitô. Thế
nên rất nhiều khi Phaolô không nói tình yêu của Chúa Cha, nhưng dùng chữ bình
an của Chúa Cha. Họa hiếm người mới dùng cả hai chữ bình an và tình yêu để nói
về Chúa Cha như trong thư này, mục đích để nhấn mạnh đến mối tình giao hòa giữa
Thiên Chúa và loài người do ân sủng của Ðức Yêsu Kitô mang lại. Còn Chúa Thánh
Thần là ân ban dư dật, phân phối mọi hoa quả của ơn Cứu Ðộ, nên Phaolô cầu xin
cho mọi người được ơn thông hiệp của Ngài, tức là được Ngài thông ban cho các sự
phong phú tốt lành. Thế nên Phaolô khuyên bảo mọi người hãy vui lên vì Thiên
Chúa là Thiên Chúa Ba Ngôi và cả Ba Ngôi đều nhân nghĩa. Chúa Cha thương yêu
loài người đến nỗi đã ban Con Một Ngài; Chúa Con đã chết cho chúng ta khi chúng
ta còn là tội nhân; và Chúa Thánh Thần đã đến để tác thành mọi sự trong mọi người.
Nhìn Ba Ngôi thương yêu chúng ta dường ấy, làm sao chúng ta không cố gắng nên
trọn lành và hòa thuận với nhau? Bởi lẽ chúng ta hết thảy đã được gọi trở thành
các chi thể trong một Thân Thể Ðức Kitô, để ở trong Ngài chúng ta được có Thánh
Thần và được kêu Abba, Lạy Cha!
Thánh
lễ này thực hiện những điều ấy để chúng ta thấy Thiên Chúa Ba Ngôi nhân ái, hầu
khi dự lễ rồi, mọi người sẽ chia sẻ lòng nhân ái để tương thân tương ái trong đời
sống.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật Lễ Ba Ngôi,
Năm A
Bài đọc: Exo 34:4b-6, 8-9; 2
Cor 13:11-13; Jn 3:16-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự biểu lộ tình yêu
của Ba Ngôi Thiên Chúa
Mầu
nhiệm Ba Ngôi là một trong những mầu nhiệm khó cắt nghĩa nhất. Nếu Thiên Chúa
không mặc khải, con người sẽ không bao giờ hiểu được mầu nhiệm này. Tuy nhiên,
con người có hiểu hay không, mầu nhiệm này vẫn hiện hữu. Mầu nhiệm Ba Ngôi
không phải là phát minh từ sự tranh luận của các nhà thần học hay thần bí,
nhưng là một thực tại vì đã được mặc khải bởi chính Đức Kitô, Người Con Một của
Thiên Chúa, và đã tiềm ẩn nhiều nơi trong Cựu Ước (Gen 1:1-2:3; 18:1-15; Psa
110; Bài đọc I). Vì thế, thay vì chú trọng vào thần luận về Ba Ngôi Thiên Chúa,
các bài đọc hôm nay chú trọng đến việc biểu lộ tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa
dành cho con người.
Trong
bài đọc I, thay vì trừng phạt và để mặc dân chết trong sa mạc - vì trong khi
ông Moses lên núi Sinai đàm đạo với Thiên Chúa để Ngài ban hành Thập Giới cho
con người biết cách sống hạnh phúc, thì ở dưới chân núi, con người gom vàng đưa
cho ông Aaron đúc con bò vàng để thờ - Thiên Chúa chọn con đường yêu thương và
tha thứ. Ngài nhận lời ông Moses để cùng đồng hành với dân chúng, không chỉ tới
khi vào Đất Hứa, mà còn ban Đấng Immanuel để ở với dân suốt đời. Trong bài đọc
II, thánh Phaolô dùng mẫu gương của Ba Ngôi để chúc lành và để khuyến khích các
tín hữu sau khi đã cảm nghiệm được tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, họ biết bắt
chước mẫu gương của Ba Ngôi để sống yêu thương, tha thứ, và hiệp nhất trong cuộc
đời. Trong Phúc Âm, thánh Gioan diễn tả tình yêu của Thiên Chúa cách chính xác
và ngắn gọn: Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để những ai
tin vào Con Ngài được hưởng cuộc sống đời đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
"Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân
nghĩa và thành tín.”
1.1/
Dân Do-thái phản bội nhưng Thiên Chúa vẫn trung thành thương yêu: Đang khi Thiên Chúa
gọi Moses lên núi Sinai để ban cho dân chúng Thập Giới, thì ở dưới chân núi,
dân Do-thái gom vàng đưa cho ông Aaron đúc cho họ một tượng bò vàng để họ thờ lạy
nó (Exo 32:1-6). Thiên Chúa nhìn thấy tất cả nên truyền cho Moses xuống núi, vì
lòng dân đã ra hư hỏng rồi. Khi Moses chứng kiến cảnh dân chúng sấp mình thờ lạy
bò vàng, ông nổi giận và dùng hai bia đá có in Thập Giới của Đức Chúa đập nát
con bò vàng, tán nhuyễn, cho vào nước và bắt dân chúng uống (Exo 32:19-20).
Lẽ
ra Thiên Chúa phải phạt dân chết vì tội lỗi của họ; nhưng vì tình thương Ngài
không nỡ để dân phải chết trong sa mạc, Ngài truyền cho Moses làm lại hai bia
đá và lên núi gặp Ngài. Đó là lý do có trình thuật hôm nay. Hai bia đá lần đầu
do chính Thiên Chúa viết và ban cho Moses; hai bia đá lần sau do tay Moses làm
lại. Nội dung không thay đổi, vì ông Moses đã được Đức Chúa cắt nghĩa cho biết.
“Sáng sớm ông thức dậy và lên núi Sinai theo lệnh của Đức Chúa, tay mang hai
bia đá. Đức Chúa ngự xuống trong đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh
Người là Đức Chúa.”
Chính
Đức Chúa mặc khải cho ông Moses biết 5 đặc tính quan trọng của Người:
(1)
Nhân hậu (rakhum) và từ bi (khanun): Vì Thiên Chúa nhân
hậu, nên Ngài không xử với con người như con người đáng tội; nhưng Ngài thông cảm
cho những yếu đuối của con người và xét xử họ theo lượng từ bi của Ngài.
(2)
Chậm giận (êrek apayim): Thiên Chúa không phạt con người tức khắc khi con người
lầm lỗi; nhưng Ngài luôn khuyên bảo và cảnh cáo trước khi sửa phạt con người.
Trình thuật “thờ bò vàng” là một ví dụ biểu lộ đặc tính này của Thiên Chúa.
(3)
Giàu nhân nghĩa (hesed) và thành tín (emet): Hesed và emet thường
hay đi đôi với nhau khi chỉ về Thiên Chúa (2 Sam 2:6; 15:20; Psa 25:10; 61:8;
89:14), và có thể được dịch là “ân tình và tín nghĩa.” Thiên Chúa luôn đối xử tốt
lành và tử tế với con người. Ngài luôn trung thành với những gì Ngài đã hứa với
con người cho dù con người phản bội. Vì thế, Thiên Chúa phải “luôn nghĩ cách”
làm sao để cứu chuộc con người khi họ phản bội Ngài. Điều này được chứng minh
qua các giao ước Ngài thiết lập với con người.
1.2/
Ông Moses vội vàng phục xuống đất thờ lạy và thưa: "Lạy Chúa, nếu
quả thật con được nghĩa với Chúa, thì xin Chúa cùng đi với chúng con.” Thiên
Chúa nhận lời ông Moses và tiếp tục cùng đi với dân chúng cho đến khi vào Đất Hứa.
Lời cầu xin của ông Moses “xin Chúa cùng đi với chúng con” mang một ý nghĩa đặc
biệt: Thiên Chúa không chỉ đồng hành với dân cho tới khi vào Đất Hứa, nhưng
Ngài còn hứa ban cho dân một Đấng Immanuel, tiếng Do-thái có nghĩa Thiên Chúa ở
cùng chúng ta (Isa 7:14).
Đức
Kitô chính là Đấng Immanuel này. Ngài là Thiên Chúa mặc lấy thân xác con người
để ở với con người. Thiên Chúa tiếp tục tha thứ những tội lỗi của dân qua Đấng
Immanuel, vì Ngài đã hiến mình chuộc tội cho con người. Nhờ Đấng Immanuel,
Thiên Chúa nhận con người đã được chuộc tội làm cơ nghiệp riêng của Ngài.
2/
Bài đọc II:
Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha, và
ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.
2.1/
Mầu nhiệm Ba Ngôi theo thánh Phaolô: Giáo Hội lấy công thức chúc lành đầu thánh lễ từ
trong Thư Corintô II 13:13 của trình thuật hôm nay. Đây là lần duy nhất trong
toàn thể Thư Phaolô, chính thức cũng như tranh luận, nói về sự liên hệ giữa Ba
Ngôi Thiên Chúa; mặc dù Phaolô đã nhiều lần phân tích vai trò của Chúa Cha, của
Chúa Con, và của Chúa Thánh Thần trong nhiều nơi khác. Chúng ta hãy tìm hiểu ý
nghĩa của lời chúc lành:
(1)
Ân sủng của Đức Kitô: Những
ân sủng này đến từ công nghiệp của Đức Kitô qua cuộc Thương Khó, cái chết, và sự
phục sinh vinh hiển của Ngài. Những ân sủng của Đức Kitô được ban tặng qua các
bí-tích mà Ngài đã thiết lập.
(2)
Tình yêu của Chúa Cha: Phaolô
có thể kể ra nhiều đặc tính của Chúa Cha, nhưng không có một đặc tính nào thích
hợp cho bằng tình yêu. Thánh Gioan cũng xác định điều này khi định nghĩa “Thiên
Chúa là tình yêu” (I Jn 4:8). Vì tình yêu, Thiên Chúa đã làm mọi sự cho con người.
(3)
Ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần: Thánh Thần là nguyên ủy sự hiệp nhất giữa Cha và
Con. Thánh Thần cũng là nguyên ủy sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa và
với nhau. Nhiều học giả cho câu 13 này được thêm vào sau này, nhưng thực sự có
trong bản Vaticanus (4th AD). Cho dù thêm vào sau đi nữa, nhưng chắc chắn phải
là một trong những nguồn mà công đồng Nicea (325 AD) dùng để tuyên bố tín điều
Chúa Ba Ngôi.
2.2/
Các tín hữu phải bắt chước Ba Ngôi Thiên Chúa: Trong Thư Corintô II, cộng đoàn
tín hữu tại Corintô phải đương đầu với rất nhiều vấn nạn với Phaolô cũng như với
nhau. Sau khi đã giải quyết các vấn nạn, Phaolô khuyên các tín hữu 3 điều:
(1)
Hãy vui mừng và cố gắng trở nên hoàn thiện: Nếu biết nhìn một cách tích cực, các vấn nạn xảy ra
là để giúp các tín hữu biết cách giải quyết và càng ngày càng trở nên hoàn hảo
hơn; vì thế, họ hãy vui mừng vì có cơ hội để luyện tập.
(2)
Hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà: Vấn đề hiệp nhất trong cộng đoàn Corintô là điều
quan tâm chính yếu của thánh Phaolô. Để gìn giữ sự hiệp nhất, họ phải có lòng
yêu thương nhau để cùng nhau giải quyết các vấn nạn trong cộng đoàn. Nếu họ cố
gắng giải quyết như thế, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng họ.
(3)
Hãy hôn chào nhau cách thánh thiện: Khi phải đương đầu với các vấn nạn trong cộng đoàn,
người tín hữu thường có khuynh hướng khinh thường và khai trừ nhau. Thánh
Phaolô khuyên các tín hữu “hãy hôn chào nhau cách thánh thiện,” để cùng nhau giải
quyết các vấn đề.
3/
Phúc Âm:
Thiên Chúa quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một.
3.1/
Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người biểu lộ qua sự kiện Ngài trao Người Con
Một trong tay con người (Jn 3:16). Thiên Chúa chưa ai xem thấy bao giờ; nhưng mỗi khi
nhìn lên Thập Giá, con người hiểu được tình yêu của Thiên Chúa dành cho họ. Đây
là một câu nói thời danh của Tin Mừng Gioan mà chúng ta phải ghi khắc trong tâm
khảm. Trên các sân thể thao của người Mỹ hay trưng câu này. Cầu thủ football lừng
danh của đại học Florida, Tim Tebow, vẽ câu này trên mắt khi thi đấu.
Mục
đích của việc Thiên Chúa cho Người Con là: “để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Thánh Phaolô giải thích thêm về tình yêu
Thiên Chúa khi Ngài nói: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha,
nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào
Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rom 8:32).
3.2/
Con người tự kết án chính mình: Thiên Chúa chỉ quan tâm đến việc cứu độ. Khi cho Người
Con Một, Ngài không quan tâm đến việc lên án con người. Con người kết án chính
mình, vì: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin,
thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”
Khi
đối diện với Đức Kitô, con người bắt buộc phải lựa chọn: tin hay không tin nơi
Ngài? Tình yêu của Thiên Chúa không còn trừu tượng nữa, để con người có lý do
biện hộ họ không nhìn thấy Thiên Chúa, làm sao họ cảm nghiệm được tình yêu của
Ngài? Nhưng tình yêu của Thiên Chúa đã được biểu lộ cách cụ thể qua Người Con Một,
sẵn sàng hiến thân chịu chết cho con người. Nếu con người từ chối tin vào Đức
Kitô, họ cũng từ chối tình yêu Thiên Chúa dành cho họ; và như thế, họ từ chối
được sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta có một địa vị cao cả trước Ba Ngôi Thiên Chúa, đến nỗi cả ba đều đã vì
yêu thương mà hy sinh tất cả cho chúng ta.
-
Sau khi đã cảm nghiệm được tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta cũng biết
bắt chước các Ngài để hy sinh cho tha nhân, để họ cũng được lãnh nhận ơn cứu độ.
-
Một trong những biểu lộ cụ thể nhất của sự liên hệ giữa Ba Ngôi Thiên Chúa là sự
liên hệ giữa cha, mẹ, và con cái trong gia đình. Chúng ta hãy học gương Ba Ngôi
Thiên Chúa để luôn biết vâng lời, yêu thương, và hy sinh cho nhau, để gia đình
chúng ta luôn được hiệp nhất và hạnh phúc đời này; đồng thời xứng đáng được sống
đời đời với Ba Ngôi trên Thiên Đàng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
15/06/14 CHÚA NHẬT TUẦN 11 TN – A
Lễ Chúa Ba Ngôi
Ga 3,16-18
Lễ Chúa Ba Ngôi
Ga 3,16-18
Suy niệm: Ngày nay cả thế giới đều biết tiếng “bổ đề
Langlands”, bài toán đã làm bó tay các nhà toán học hàng đầu thế giới suốt hơn
30 năm qua, cuối cùng đã được giáo sư Ngô Bảo Châu chứng minh vào năm 2009. Dù
vậy hầu chắc cứ mười người trên thế giới thì có tới chín người bây giờ vẫn
không hiểu “cái bổ đề” ấy là gì! Nhưng dù không hiểu thì không ai dám chối cãi
sự hiện hữu cũng như tính đúng đắn của nó. Trong lĩnh vực tự nhiên đã thế,
trong lĩnh vực thần linh lại càng đúng hơn. Đức Giê-su cho chúng ta biết Thiên
Chúa là duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Với
trí khôn con người, chúng ta không thể nào hiểu thấu được, nhưng chúng ta có
thể tin điều đó nhờ vào thế giá của Đức Giê-su, là chính Con Thiên Chúa, Đấng
mạc khải cho chúng ta.
Mời Bạn: Một
mầu nhiệm thuộc về Thiên Chúa mà con người có thể thấu hiểu như một giáo sư đại
học hiểu về một bài toán lớp Một, lớp Hai thì đó không còn là mầu nhiệm nữa.
Trái lại đứng trước mầu nhiệm của Thiên Chúa, con người chỉ biết khiêm tốn
thinh lặng và chắp tay cúi đầu chiêm ngưỡng sự kỳ diệu của Ngài. Thế mà chúng
ta lại được thông hiệp vào mầu nhiệm sâu thẳm ấy khi chúng ta được thánh hoá
trong bí tích Rửa Tội “nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”!
Chia sẻ: Bạn
có cảm thấy hạnh phúc khi được hiệp thông với sự sống thần linh của Thiên Chúa
không?
Sống Lời Chúa: Khiêm
tốn cầu xin Chúa ban thêm lòng Tin Cậy Mến để sống trọn tình con thảo với Ngài.
Cầu nguyện: Đọc Kinh Sáng Danh.
Thiên
Chúa yêu thế gian (15.6.2014 – Chúa nhật lễ Chúa Ba Ngôi năm A)
Suy Niệm
Có một điều thường khiến các bạn trẻ băn khoăn,
đó là làm sao nhận ra một tình yêu chân thực,
làm sao không bị chóa mắt bởi những ảo ảnh,
không bị lừa dối bởi những ngọt ngào, để rồi vỡ mộng.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta một số tiêu chuẩn,
khi mời ta nhìn vào tình yêu của Thiên Chúa.
đó là làm sao nhận ra một tình yêu chân thực,
làm sao không bị chóa mắt bởi những ảo ảnh,
không bị lừa dối bởi những ngọt ngào, để rồi vỡ mộng.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta một số tiêu chuẩn,
khi mời ta nhìn vào tình yêu của Thiên Chúa.
Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao:
“Thiên Chúa đã yêu thế gian
đến nỗi đã trao ban Con Một của Người…”
Không phải chỉ là trao một quà tặng,
hay một cái gì ở ngoài mình,
nhưng là trao đi một điều thiết thân và quý báu.
Ðiều quý báu nhất của Thiên Chúa Cha
là người Con Một của Ngài, Ðức Giêsu Kitô.
Khi trao cho chúng ta Ðấng bị treo trên thập giá,
Thiên Chúa đã trao cho ta chính bản thân Ngài.
Ngài chấp nhận Con Ngài phải chết
để nhân loại được sống.
Tình yêu chân thực chẳng hề biết giữ lại cho mình.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian
đến nỗi đã trao ban Con Một của Người…”
Không phải chỉ là trao một quà tặng,
hay một cái gì ở ngoài mình,
nhưng là trao đi một điều thiết thân và quý báu.
Ðiều quý báu nhất của Thiên Chúa Cha
là người Con Một của Ngài, Ðức Giêsu Kitô.
Khi trao cho chúng ta Ðấng bị treo trên thập giá,
Thiên Chúa đã trao cho ta chính bản thân Ngài.
Ngài chấp nhận Con Ngài phải chết
để nhân loại được sống.
Tình yêu chân thực chẳng hề biết giữ lại cho mình.
Tình yêu chân thực là tình yêu chia sẻ,
tình yêu mong hạnh phúc cho người mình yêu:
“…để bất cứ ai tin vào Người Con ấy
thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
Sự sống muôn đời đã bắt đầu từ đời này.
Ðược sống là được đưa vào thế giới thần linh,
được chia sẻ hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thiên Chúa không muốn cho ai phải trầm luân.
Nếu có ai hư mất hay bị luận phạt
thì không phải là vì Thiên Chúa độc ác,
nhưng chỉ vì Ngài tôn trọng tự do con người.
Con người có thể tin hay từ chối,
mở ra hay khép lại trước sự sống được trao ban.
tình yêu mong hạnh phúc cho người mình yêu:
“…để bất cứ ai tin vào Người Con ấy
thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
Sự sống muôn đời đã bắt đầu từ đời này.
Ðược sống là được đưa vào thế giới thần linh,
được chia sẻ hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thiên Chúa không muốn cho ai phải trầm luân.
Nếu có ai hư mất hay bị luận phạt
thì không phải là vì Thiên Chúa độc ác,
nhưng chỉ vì Ngài tôn trọng tự do con người.
Con người có thể tin hay từ chối,
mở ra hay khép lại trước sự sống được trao ban.
Thánh Gioan đã dám định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu.
Một Tình Yêu chia sẻ chan hoà giữa Ba Ngôi:
Cha trao tất cả cho Con, Con dâng tất cả cho Cha.
Thánh Thần là sự thông hiệp giữa Cha và Con.
Một Tình Yêu tràn ngập cả vũ trụ:
Thiên Chúa là Tình Yêu sáng tạo
khi Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài;
Ngài là Tình Yêu cứu độ
khi Ngài muốn thứ tha cho ta qua Ðức Giêsu;
Ngài là Tình Yêu thánh hóa
khi Ngài muốn ban cho ta sức sống mới trong Thánh Thần.
Một Tình Yêu chia sẻ chan hoà giữa Ba Ngôi:
Cha trao tất cả cho Con, Con dâng tất cả cho Cha.
Thánh Thần là sự thông hiệp giữa Cha và Con.
Một Tình Yêu tràn ngập cả vũ trụ:
Thiên Chúa là Tình Yêu sáng tạo
khi Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài;
Ngài là Tình Yêu cứu độ
khi Ngài muốn thứ tha cho ta qua Ðức Giêsu;
Ngài là Tình Yêu thánh hóa
khi Ngài muốn ban cho ta sức sống mới trong Thánh Thần.
Chúng ta sẽ mãi mãi xa lạ với Thiên Chúa
nếu chúng ta xa lạ với tình yêu.
“Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8).
Ai không ở lại trong tình yêu
thì cũng không ở lại trong Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16).
Ước gì đời ta được tưới gội bởi Tình yêu,
để mọi việc chúng ta làm
đều bắt nguồn từ Tình yêu và quy hướng về Tình yêu.
Ước gì chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa Tình yêu
bằng một đời sống hiến trao và chia sẻ.
nếu chúng ta xa lạ với tình yêu.
“Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8).
Ai không ở lại trong tình yêu
thì cũng không ở lại trong Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16).
Ước gì đời ta được tưới gội bởi Tình yêu,
để mọi việc chúng ta làm
đều bắt nguồn từ Tình yêu và quy hướng về Tình yêu.
Ước gì chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa Tình yêu
bằng một đời sống hiến trao và chia sẻ.
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới
đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng.
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng.
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con.
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con.
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng
Tâm Hồn Lên
15 THÁNG SÁU
Thiên Chúa Cai Quản Mọi
Sự Một Cách Tốt Đẹp
“Tôi tin kính một Thiên
Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất”. Lời tuyên tín đầu tiên này của
Kinh Tin Kính sẽ không bao giờ ngừng tuôn đổ sự phong phú phi thường của nó cho
chúng ta. Thiên Chúa là Cha và là Đấng tạo thành “mọi sự hữu hình và vô hình”.
Ngài cai quản muôn loài bằng sự quan phòng thần linh của Ngài.
Với những suy tư về công
cuộc sáng tạo, đã đến lúc chúng ta bắt đầu một loạt các giáo huấn về chủ đề sự
quan phòng của Thiên Chúa. Sự quan phòng này nằm trong chính cốt lõi đức tin
Kitô giáo và trong đáy lòng của mọi người được mời gọi đến với đức tin. Thiên
Chúa là Cha khôn ngoan và toàn năng của chúng ta. Ngài hiện diện và hành động
trong thế giới. Xuyên qua sự quan phòng thần linh của Ngài, Thiên Chúa lo liệu
sao cho mọi tạo vật có thể sống trọn vẹn trong sự hiện diện của Ngài. Một cách
đặc biệt, Ngài lo liệu cho chúng ta và các nhu cầu của chúng ta, bởi vì chúng
ta được dựng nên theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài. Thiên Chúa – là Cha
chúng ta – mong muốn rằng hành trình của chúng ta được hướng dẫn bởi chân lý
tình yêu của Ngài, trong khi chúng ta tiến về mục tiêu là sự sống vĩnh cửu
trong Ngài.
- suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
Lời
Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 15-6
Chúa Nhật XI Thường Niên,
Lễ Chúa Ba Ngôi
Xh 34, 4b-6.8-9; 2Cr 13,
11-13; Ga 3, 16-18.
LỜI SUY NIỆM: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban
Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn
đời.”
Đây là một trong những
lời mạc khải của Chúa Giêsu với ông Nicôđêmô, cũng là Lời Chúa Giêsu đang nói
với mỗi người trong chúng ta. Chúng ta nghe để tin, và tin để nghe. Với trí óc
thấp kém con người chúng ta , chúng ta không thể hiểu thấu Mầu Nhiệm Tình Yêu
của Thiên Chúa đối với con người, đặc biệt từng con người trong chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, nhờ ơn
Chúa, chúng con đã trở thành con cái Chúa trong phép Rửa Tội. Xin cho mọi thành
viên trong gia đình chúng con luôn tạ ơn tình yêu của Chúa và cho chúng con
luôn trưởng thành trong đức tin.
Mạnh Phương
15 Tháng Sáu
Thiên
Chúa Không Thất Vọng Về Con Người
Văn hào Nga Dostoievski,
với những tác phẩm nổi tiếng như Tội ác và Hình phạt, anh em nhà Karamazov, là
người đã trải qua một cuộc đời đầy sóng gió. Sau một thời gian dài bị giam cầm
vì lý do chính trị, ông bị kết án tử hình. Nhưng, như một phép lạ, vào giữa lúc
sắp sửa bị hành quyết, ông bỗng nhận được lệnh tha. Người viết tiểu sử của ông
kể lại như sau:
Thời gian trong tù đã in
đậm nét trên quãng đời còn lại của ông. Từ trên chiếc máy chém nhìn xuống đám
người đang đứng dưới chân mình, ông chỉ còn thấy họ là những người bị áp bức,
những người nô lệ đáng thương. Dù họ có phạm tội ác tày trời đi nữa, tâm hồn họ
vẫn là tâm hồn của những con người vô tội, do đó đáng được sự tha thứ.
Khi bước xuống khỏi máy
chém, Karamazov thấy mọi sự như vô nghĩa. Ðiều duy nhất còn có ý nghĩa đối với
ông chính là tình yêu, và cho dù trong suốt 30 năm sau, cuộc đời của ông đắm
chìm trong bùn nhơ của tội lỗi, của khốn khổ, của ô nhục, ông luôn nhìn mọi sự
qua lăng kính của yêu thương. Một lần bị đưa lên máy chém ấy cho ông hiểu rằng
con người đau khổ, tất cả mọi người đều đáng cảm thông, thương mến. Ðó là sứ
điệp mà Karamazov công bố suốt cuộc đời của ông.
Cả cuộc đời của ông là
một cố gắng không ngừng để diễn đạt câu nói: "Hỡi người anh em, không có
gì có thể ngăn cản tôi yêu thương bạn".
Nếu có những lúc chúng ta
cảm thấy thất vọng về con người đốn mạt của chúng ta, nếu có những lúc chúng ta
không còn tin tưởng ở tình người nữa, chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu. Chúng
ta thấy ngay ánh mắt nhân từ, cảm thông của Ngài.
Khi Zakêu, thủ lãnh của
phường thu thuế, leo lên cây cao để thấy Ngài, Chúa Giêsu đã ôn tồn nói với
ông: "Hôm nay, tôi đến thăm nhà ông".
Khi người đàn bà bị bắt
quả tang phạm tội ngoại tình được dẫn ra trước mặt Ngài, Chúa Giêsu nhỏ nhẹ nói
với bà: "Chị hãy về đi, tôi không kết án chị".
Khi Maria Madalêna đến
quỳ dưới chân Ngài, Chúa Giêsu đã không hắt hủi cô.
Khi Phêrô phản bội Ngài,
Chúa Giêsu nhìn ông với tất cả trìu mến, thông cảm.
Khi tên trộm cừu bị treo
trên thập giá hướng về Ngài, Chúa Giêsu đã hứa với anh: "Hôm nay, anh sẽ ở
cùng Ta trên Thiên Ðàng".
Ngài đã ngồi cùng bàn với
phường thu thuế, bọn đĩ điếm, kẻ tội lỗi. Ngài tha thứ những kẻ đóng đinh Ngài
vào thập giá.
Qua cách cư xử của Chúa
Giêsu, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Ngài yêu thương con người, bởi vì
Ngài không thể chối bỏ hình ảnh của Ngài nơi con người. Chính ánh lửa ấy khiến
cho Thiên Chúa vẫn luôn nhận ra được hình ảnh của mình nơi con người, để không
bao giờ thất vọng về con người.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét