NHẬN ĐỊNH VỀ PHONG TRÀO “SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI”
Phong trào mệnh danh
là “Sứ điệp từ trời” đã xuất hiện từ tháng 11 năm 2010 tại Châu Âu, và cho đến
nay đã được quảng bá hầu như rộng khắp trên toàn thế giới. Chắc hẳn nhiều người
trong chúng ta đã nghe nói hoặc đã từng đọc qua các “Sứ điệp từ trời”. Điều đó
ít nhất cũng cho thấy tầm ảnh hưởng và tính chất thu hút của phong trào mới
này. Điều đáng nói là có nhiều người đã tin và đang góp phần quảng bá cho các
“Sứ điệp trời”. Riêng tại Việt Nam, phong trào “Sứ điệp từ trời” cũng đang rộ
lên như một hiện tượng đáng quan ngại. Tại nhiều giáo xứ, người ta thấy xuất hiện
các hội cầu nguyện Mân Côi, nhưng thực chất là hội quảng bá các “Sứ điệp từ
trời”. Điểm nổi bật của các hội này là thái độ chống Đức Giáo hoàng, và đây
cũng là một trong các chủ đề thường gặp trong các “Sứ điệp từ trời”. Nhiều tín
hữu đã “lỡ” đọc các “Sứ điệp từ trời” thì cảm thấy hoang mang vì rơi vào cảnh
“tiến thoái lưỡng nan”. Nếu không tiếp tục đọc thì sẽ có nguy cơ bị án phạt như
các sứ điệp đã đe dọa, còn nếu tiếp tục thì không biết các sứ điệp sẽ dẫn mình
tới đâu. Bởi vậy, sau khi đã tìm hiểu các “Sứ điệp từ trời” và tham khảo một số
bài viết được phổ biến trên mạnginternet, chúng tôi muốn viết bài nghiên
cứu này như một sự góp phần soi sáng vấn đề, và cũng để cung cấp ít nhiều tư
liệu cho những vị có thẩm quyền hầu có thể thẩm định vấn đề cách khách quan.
Trong phần trích dẫn
các sứ điệp, đôi khi vì yêu cầu chính xác của văn bản, chúng tôi phải dịch lại
từ nguyên bản tiếng Anh thay vì lấy từ trang <> bằng tiếng Việt.
I. GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
VỀ PHONG TRÀO “SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI”
1. Người sáng lập
phong trào “Sứ điệp từ trời” là ai?
Phong trào “Sứ điệp từ
trời” gắn với một cái tên mà hiện nay đã trở thành nổi tiếng: “Maria Lòng Chúa
Thương Xót”[1].
Đây chính là người sáng lập phong trào. Thoạt đầu, hầu như không ai biết được
được đích xác Maria Lòng Chúa Thương Xót là ai. Trên trang mạng chính thức của
phong trào, nhân vật này đã tự giới thiệu mình là một phụ nữ Châu Âu, theo đạo
Công Giáo, đã có gia đình, và là một doanh nhân. Theo bà, tên gọi “Maria Lòng
Chúa Thương Xót” không phải tên thật, mà chỉ là một biệt danh. Bà cho biết rằng
Chúa Giêsu muốn bà giữ kín danh tánh để bảo đảm sự an toàn cho gia đình, cũng
như để người ta chỉ tập trung vào các sứ điệp mà thôi. Dầu vậy, cũng có người
đã cố tìm hiểu xem bà là ai; và hiện nay người ta đã xác định được khá chắc
chắn rằng bà là một phụ nữ Ái Nhĩ Lan, hiện sống tại thành phố Dublin. Thậm chí
có người còn biết rõ tên tuổi thực của bà.
Theo Maria Lòng Chúa
Thương Xót, Chúa Giêsu đã tỏ cho bà biết rằng bà là vị Sứ Giả thứ bảy, tức vị
Thiên Sứ thứ bảy, được phái đến để mặc khải cho thế gian nội dung của các Ấn
trong sách Khải Huyền. Đây là những Ấn mà chỉ mình Con Chiên Thiên Chúa, Đức
Giêsu Kitô, mới có quyền mở. Chính Ngài sẽ lần lượt mở các Ấn đó; và mỗi lần mở
Ấn nào thì Ngài đều mặc khải cho bà để bà thông đạt lại cho người khác. Cũng vì
vậy, Đức Giêsu đã xác định với bà rằng bà là vị ngôn sứ của thời cuối cùng (Sứ
điệp ngày 13-07-2012).
Kể từ tháng 11 năm
2010, bà Maria Lòng Chúa Thương Xót đã liên tục nhận được các sứ điệp từ trời.
Các sứ điệp này chủ yếu do Chúa Giêsu tỏ cho biết, nhưng cũng có khi do Chúa
Cha hoặc do Đức Trinh Nữ Maria. Tính đến nay đã có hơn 1.100 sứ điệp khác nhau.
Nội dung chính của các sứ điệp xoay quanh việc cảnh cáo thế giới tội lỗi, kêu
gọi ăn năn hối cải, và tiên báo sự gần kề của ngày Chúa trở lại. Theo bà Maria,
các sứ điệp nhằm chuẩn bị cho thế giới sẵn sàng chờ đón ngày Chúa trở lại, sau
khi đã trải qua thời kỳ cảnh cáo và thanh luyện. Cho đến nay, bà vẫn không
ngừng nhận được các sứ điệp mới.
2. Việc quảng bá Phong
trào Sứ điệp từ trời
Nhờ vào các phương
tiện thông tin đại chúng, cho đến nay phong trào Sứ điệp từ trời đã được quảng
bá rộng rãi trên toàn thế giới. Trang FaceBook “Chúa Giêsu đối với nhân loại” (Jesus
to Mankind) của bà Maria Lòng Chúa Thương Xót đã thu hút khá nhiều người
đọc. Tính đến nay, bà đã nhận được hơn 17.000 ý kiến yêu thích. Ngoài ra, bà
còn lập trang mạng <> để quảng bá các sứ điệp của mình. Có một nhóm thiện
nguyện viên người Việt đã dịch trang mạng này sang tiếng Việt và cập nhật liên
tục, với tên gọi <>. Các sứ điệp đã công bố còn được sưu tập lại và xuất
bản thành sách. Cho đến nay đã có ba tập sách (I, II và III) lần lượt được xuất
bản với tựa đề “Sách sự thật” (The Book of Truth).
Nhờ trang mạng bằng
tiếng Việt nói trên, ngay tại Việt Nam, có khá nhiều người, thậm chí cả ở vùng
quê, đã biết đến phong trào này và thường xuyên theo dõi các sứ điệp mới trên
trang mạng của phong trào. Tại nhiều giáo xứ, bắt đầu xuất hiện các nhóm cầu
nguyện mệnh danh là “Hội cầu nguyện Mân Côi” nhưng thực chất là các nhóm quảng
bá các sứ điệp từ trời. Thậm chí các sứ điệp từ trời còn được phổ biến trên một
số tòa giảng. Hiện tượng này một mặt cho thấy tính chất lôi cuốn của phong trào
mới, nhưng mặt khác cũng đồng thời là một hiện tượng đáng báo động cho các cơ
quan có thẩm quyền trong Hội Thánh.
II. PHÂN TÍCH NHỮNG
ĐIỂM SAI LẠC VỀ ĐẠO LÝ TRONG SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI
Như đã nói trên đây,
nội dung chính của sác Sứ điệp từ trời xoay quanh ba chủ đề chính: cảnh cáo thế
giới tội lỗi, kêu gọi ăn năn hối cải, loan báo sự gần kề của biến cố Chúa tái
lâm. Nếu chỉ nhìn thoáng qua thì những nội dung ấy cũng chẳng có gì là mới lạ
và cũng không đi ngược lại với giáo lý chung của Hội Thánh. Tuy nhiên, nếu tìm
hiểu kỹ nội dung cụ thể của các sứ điệp, người ta thấy lộ ra rất nhiều điểm sai
lạc về giáo lý. Điều nguy hiểm ở đây, đó là những điểm sai lạc này trộn lẫn với
những giáo lý chân thực, tạo nên tình trạng “vàng thau lẫn lộn”, khiến những ai
không tinh ý có thể dễ dàng nhiễm phải nọc độc của chúng. Ở đây chúng tôi chỉ
giới hạn trong việc nêu lên những sai lầm tỏ tường và nghiêm trọng mà thôi. Để
dễ nắm bắt vấn đề, chúng tôi phân chia các điểm sai lạc này thành những đề mục
khác nhau tùy theo những khía cạnh liên quan. Tuy nhiên, việc sắp xếp này cũng
chỉ có tính chất tương đối, vì các sai lạc trong khía cạnh này có thể cũng liên
hệ đến khía cạnh khác, do mối liên hệ chặt chẽ của tổng thể các chân lý đức tin
Kitô giáo.
1. Những điểm sai lạc
liên quan đến Mặc Khải
a) Lập trường “duy
Kinh Thánh”(sola scriptura). Đây
là lập trường có nguốn gốc từ Phái Tin Lành do Luther khởi xướng. Cách chung,
lập trường này cho rằng chỉ duy mình Kinh Thánh mới là quy chuẩn của đức tin.
Những gì không trực tiếp bắt nguồn từ Kinh thánh thì không có giá trị ràng buộc
về phương diện đức tin và luân lý. Lập trường này hiển nhiên cũng chối bỏ giá
trị quy phạm của Thánh Truyền cũng như Quyền Giáo huấn của Hội Thánh. Một lập
trường như thế đã được thể hiện dưới những hình thức khác nhau trong các Sứ
điệp từ trời. Chẳng hạn, sứ điệp ngày 25-12-2010 tuyên bố như sau: “Bất
kỳ giáo lý nào không bắt nguồn từ Kinh Thánh mà lại tự cho là có thẩm quyền
công bố chân lý thì đều là dối trá. Đây là tội chống lại Ta [Chúa Giêsu] và là
sự chống báng nặng nề đối với Ta và Chúa Cha Hằng Hữu của Ta”. Quan điểm
này cũng được lặp lại trong sứ điệp ngày 13-09-2011 với những lời như sau:“Đừng
bao giờ cho phép mình chấp nhận bất kỳ sự thật nào khác ngoài những điều có
trong Kinh Thánh”.
Hẳn nhiên, một lập
trường như thế đi ngược lại với giáo lý của Hội Thánh Công Giáo vốn nhìn nhận
Thánh Kinh cùng với Thánh Truyền làm nên một kho tàng đức tin duy nhất. Ngoài
ra, đức tin Công Giáo cũng tin nhận Hội Thánh là thầy dạy chân lý, có thẩm
quyền chính thức để giải thích những gì chứa đựng trong kho tàng Mặc khải được
chính Chúa Kitô ủy thác cho Hội Thánh (xc. GLHTCG, số 80; 85).
b) Coi các mặc khải tư
ngang hàng với Kinh Thánh. Một sai lầm nghiêm trọng khác của các Sứ điệp từ trời, đó là
coi các mặc khải tư như là có giá trị ngang hàng với Kinh Thánh. Thực ra, việc
thẩm định các sứ điệp của bà Maria có phải là mặc khải tư hay không, đó là điều
còn phải xem xét. Tuy nhiên, xem ra bà Maria đã tự nhận những sứ điệp của mình
là mặc khải tư; và thậm chí bà còn coi “cái gọi là mặc khải tư” này ngang hàng
với Kinh Thánh.
Thật vậy, trong một số
sứ điệp được được bà Maria phổ biến, người ta đọc thấy rằng Chúa Giêsu đã
truyền cho bà viết một cuốn sách; cuốn sách này thực ra không phải do bà viết,
nhưng là do chính Chúa viết. Cuốn sách đó có giá trị ngang với Kinh Thánh và là
một phần của Kinh Thánh. Lời khẳng định này được lặp lại nhiều lần trong các sứ
điệp khác nhau với những lời lẽ hơn kém. Chẳng hạn sứ điệp ngày 12-11-2010 nói
như sau: “Con phải dồn hết tâm lực để viết cuốn sách. Cuốn sách này sẽ
giúp cải biến cuộc đời nhiều người, sẽ cứu rỗi các linh hồn; và đây là điều đã
được báo trước. Đúng vậy, cuốn sách là điều đã được tiên báo. Con là người
viết. Ta là Tác giả. Con đừng ngạc nhiên hoặc choáng ngợp, vì đây là một trách
vụ thiêng thánh, và con đã được chọn để làm việc này cùng với Ta. Con sẽ phải
mất ba tháng để hoàn tất. Ta muốn con xuất bản cuốn sách trên toàn thế giới.
Cuốn sách đó phải được phổ biến rộng khắp, đầy sức mạnh, và được hằng triệu
người tìm đọc cũng như sách Kinh Thánh vậy. Này con gái của Ta, con có thể xuất
bản cuốn sách dưới danh nghĩa ‘cuộc đối thoại với vị ngôn sứ bí mật’. Con cứ
việc làm như thế” (có thể xem thêm sứ điệp ngày 09-02-2013).
Người viết ra sứ điệp
trên đây hẳn đã hiểu không đúng về bản chất của Kinh Thánh cũng như vị thế của
mặc khải tư. Kinh Thánh là chính Lời Thiên Chúa được mặc khải cho con người và
được ghi lại dưới tác động linh hứng của Thánh Thần. Do vậy, chính Thiên Chúa
là tác giả thực sự của Kinh Thánh. Về phần bà Maria, việc bà tuyên bố cuốn sách
bà sẽ viết có Thiên Chúa là tác giả thì cũng đồng nghĩa với việc cho rằng cuốn
sách đó được viết ra với ơn linh hứng chẳng khác gì Kinh Thánh vậy. Đây quả là
một sự mạo nhận có tính chất phạm thượng.
Theo giáo lý của Hội
Thánh Công Giáo, mặc khải công đã nên hoàn trọn cách viên mãn cùng với sự xuất
hiện của Đức Giêsu Kitô. Kể từ đây, nhân loại không còn phải trông đợi mặc khải
nào khác. Bởi đó, những gì liên quan đến đức tin được Thiên Chúa tỏ bày sau này
cho các thánh hay một ai đó thì được gọi là mặc khải tư. Sách Giáo lý của Hội
Thánh Công Giáo xác định như sau: “Theo dòng lịch sử, đã xuất hiện những điều
gọi là ‘mặc khải tư’, một số trong đó được thẩm quyền của Hội Thánh công nhận.
Tuy vậy, những mặc khải đó không thuộc kho tàng đức tin. Chức năng của chúng
không phải là “cải thiện” hoặc “bổ sung” mặc khải vĩnh viễn của Đức Kitô, nhưng
để giúp người ta, vào một thời điểm lịch sử nào đó, sống mặc khải của Đức Kitô
cách trọn vẹn hơn” (số 67).
2. Những sai lầm liên
quan đến Đức Kitô
a) Sai lầm về mục đích
của việc nhập thể. Sứ điệp ngày
24-12-2010 đã bộc lộ một quan niệm sai lạc về mục đích của việc Con Thiên Chúa
nhập thể làm người. Bằng một lối diễn tả mơ hồ, sứ điệp này cho rằng việc Con
Thiên Chúa nhập thể làm người và cuối cùng chịu chết trên thập giá chỉ nhằm
khai lòng mở trí, hay thức tỉnh lương tâm của con người để họ nhận biết ơn cứu
độ mà Chúa Cha từ ngàn xưa đã hứa ban cho toàn thể nhân loại. Như vậy, việc
nhập thể và cái chết của Đức Giêsu chỉ có giá trị giáo huấn và gương mẫu chứ
không đem lại hiệu quả là ân sủng tha tội và tái sinh con người vào đời sống mới.
Đây quả là một cái nhìn thiếu sót về công trình cứu độ của Đức Giêsu. Có thể
trưng ra đây những lời tiêu biểu trong sứ điệp này như sau: “Việc Ta
đến trần gian đã được sắp đặt như một cơ hội cuối cùng để thức tỉnh thế gian,
ngõ hầu mọi người nhận ra rằng Thiên Chúa tha thứ mọi tội lỗi. Vai trò của Ta
là để chỉ cho các con con đường lên Trời, nhờ vào giáo huấn và cái chết của Ta
trên thập giá”.
b) Quan niệm sai lạc
về cuộc Quang lâm của Chúa. Các sứ điệp của bà Maria còn quảng bá một quan niệm hết sức
sai lạc về biến cố Quang lâm của Chúa. Các sứ điệp này cho rằng sau khi thời kỳ
cảnh cáo và thanh luyện kết thúc thì sẽ là thời Chúa Kitô tái xuất hiện trên
địa cầu. Tuy nhiên, cuộc tái lâm này chưa phải đánh dấu thời cùng tận của thế
giới để rồi khai mào cảnh “Trời mới đất mới” kéo dài đến thiên thu vạn đại.
Trái lại, theo sứ điệp của bà Maria, thời kỳ khai mào cùng với cuộc Quang lâm
của Chúa cũng chỉ kéo dài 1.000 năm. Đó là thời kỳ mà Chúa Kitô cai quản địa
cầu, và quyền lực Satan bị bứng tận gốc khỏi trần gian. Đây chính là sự mô
phỏng lại lạc thuyết “ngàn năm” vốn đã bị Hội Thánh phi bác từ xưa. Thuyết
“ngàn năm” này được thể hiện rõ ràng trong sứ điệp ngày 20-05-2011, trong đó có
những đoạn như sau:
“Nhiều bối rối tồn tại
trên thế giới liên quan đến biến cố này. Nhiều người tin rằng Cuộc Quang Lâm
của Ta chỉ ra rằng thời tận cùng của thế giới đã đến. Nhưng không phải như vậy,
thay vào đó Cuộc Quang Lâm của Ta có nghĩa nói về thời kỳ cuối khi Satan và
thuộc hạ của hắn, những kẻ đã tạo ra những đau khổ không kể xiết trên thế giới,
sẽ bị trục xuất khỏi Trái Đất trong vòng 1.000 năm.
…
Con gái của Ta, Ta sẽ
cai trị trái đất trong 1.000 năm. Hãy biết chắc rằng giờ đây Ta đang trông coi
các biến cố khi chúng xảy ra trên thế giới. Giờ đây Ta đã chuẩn bị đường lối
cho Vương Quốc Mới của Ta trên trái đất và thời gian đó đã gần đến rồi, gần hơn
rất nhiều so với những gì người ta có thể nhận ra. Hãy hân hoan vì tin tức này
sẽ được tất cả mọi người đón nhận. Đau khổ trên thế giới này sẽ chấm dứt. Một
nguồn tình yêu và vinh quang để sẻ chia cho tất cả con cái của Ta, sẽ trào
dâng”.
Cần lưu ý rằng thuyết
“ngàn năm” này từng bị các vị thánh tiến sĩ thời danh như Augustinô, Tôma
Aquinô lên tiếng phi bác. Huấn quyền của Hội Thánh cũng minh nhiên kết án lạc
thuyết này, như thấy trong Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo: “Sự đánh lừa
của tên Phản Kitô đã được phác họa trên trần gian mỗi khi người ta cho rằng
mình thực hiện được trong lịch sử niềm hy vọng về Đấng Mêssia, một niềm hy vọng
vốn chỉ có thể được hoàn thành vượt quá giới hạn lịch sử, nhờ cuộc phán xét
cánh chung: Hội Thánh đã bác bỏ sự giả mạo này về Vương quốc tương lai, và cả
dưới một hình thức giảm nhẹ của sự giả mạo đó, có tên là thuyết ngàn năm, nhất
là dưới một hình thức chính trị của một chủ thuyết Mêssia đã bị tục hóa ‘đồi
bại tự bản chất’” (số 676).
3. Những điểm sai lạc
liên quan đến Hội Thánh
a) Chối bỏ quyền giáo
huấn của Hội Thánh.
Bằng những cách khác nhau, bà Maria đã chối bỏ thẩm quyền bất khả ngộ của Hội
Thánh xét như thầy dạy chân lý. Như chúng tôi đã phân tích trên đây, qua lập
trường “duy Kinh Thánh”, bà Maria cũng đồng thời hoặc ít nhất là gián tiếp phủ
nhận quyền giáo huấn của Hội Thánh. Sự phủ nhận quyền giáo huấn có tính quy
phạm của Hội Thánh dường như còn được diễn tả cách mặc nhiên qua việc bà chủ
trương theo kiểu cào bằng rằng “…không một ai trong các con xứng đáng
để phán xét hoặc tra xét về người khác. Không ai có quyền hạn hoặc hiểu biết
thiêng liêng để đưa ra bất cứ sự đánh giá nào về đạo đức nơi người khác” (Sứ
điệp ngày 06-04-2011).
Mặt khác, bà Maria còn
đưa ra những lời nhận định sai lạc hoặc những lời cáo buộc thiếu căn cứ về cách
thức Hội Thánh thực thi vai trò giáo huấn. Trong nhiều sứ điệp và cụ thể là sứ
điệp ngày 26-01-2012, bà Maria xem ra muốn ám chỉ rằng Tòa Thánh đang bị một số
phần tử xấu lũng đoạn, cho nên những gì mà các cơ quan thẩm quyền của Tòa Thánh
giảng dạy chỉ là bóp méo sự thật về giáo huấn của Chúa; những canh tân Phụng
vụ, nhất là nghi thức thánh lễ chỉ là phương pháp phượng tự Công Giáo bất xứng,
xúc phạm đến Chúa Giêsu và Chúa Cha. Cũng trong sứ điệp này, bà còn cho rằng
Hội Thánh không dạy sự thật; Hội Thánh đã không bao giờ giảng dạy về tính chất
nghiêm trọng của tội lỗi (xem thêm các sứ điệp ngày 18-02-2013; ngày
30-09-2013). Thực ra, bà Maria nói như thế tức là bà đã không hiểu rằng Hội
Thánh không chỉ là cơ chế hữu hình được vận hành bởi con người, mà trên hết còn
là một thực tại thiêng thánh được Thánh Thần hướng dẫn.
b) Chối bỏ quyền của
Hội Thánh trong việc quản lý và phân phát các mầu nhiệm thánh. Thật vậy, sứ điệp ngày 31-01-2012 đã cho
thấy một quan niệm sai lạc về việc ban các ân xá. Theo sứ điệp này, việc ban ân
toàn xá không phải do Hội Thánh mà là do chính Chúa Giêsu ban cho một số người
được tuyển chọn để kêu gọi người khác hoán cải. Việc nhận ơn toàn xá này đi kèm
với điều kiện phải đọc một kinh đặc biệt trong bảy ngày liền. Kinh này cũng
được xác định rõ trong sứ điệp. Thực ra, những điều nói trong sứ điệp này thực
chất chỉ là một sự mạo danh Chúa Giêsu để tự dành cho mình quyền ban ân xá, chứ
Chúa Giêsu chẳng bao giờ làm điều đó.
Thật vậy, những điều
trong sứ điệp này hoàn toàn trái ngược với ý định của Chúa Giêsu trong việc
thiết lập Hội Thánh như là trung gian của ơn thánh (Mt 16,19; 18,18). Chúa
Giêsu không ủy thác cho một thẩm quyền nào khác ngoài Hội Thánh được ban các ân
xá cũng như quy định các điều kiện đi kèm. Chắc hẳn Chúa Giêsu sẽ không phá đổ
hay làm ngược lại những gì Ngài đã thiết lập. Về điểm này, Sách Giáo lý của Hội
Thánh Công Giáo dạy như sau: “Ân xá là việc tha thứ trước mặt Thiên Chúa khỏi
những hình phạt tạm đáng chịu vì những tội lỗi đã phạm, dù những tội đó đã được
tha thứ. Để hưởng nhờ ân xá, Kitô hữu phải hội đủ những điều kiện được thẩm
quyền của Hội Thánh quy định, vì với tư cách là thừa tác viên của Ơn cứu chuộc,
Hội Thánh có thẩm quyền phân phát và chia sẻ kho tàng công phúc của Đức Kitô và
các thánh” (số 1471).
c) Đưa ra những phán
đoán sai lạc về các Đấng kế vị Thánh Phêrô.Trước khi xảy ra biến cố Đức Giáo hoàng
Bênêđictô XVI tuyên bố từ nhiệm, bà Maria, trong nhiều sứ điệp, đã từng tiên
báo rằng Đức Giáo hoàng sẽ bị hạ bệ bởi một âm mưu đen tối trong Giáo triều
Rôma (chẳng hạn các sứ điệp ngày 18-01-2012; ngày 11-02-2012; ngày 20-03-2012;
ngày 26-05-2012). Nếu các sứ điệp trên đây tiên báo việc Đức Giáo hoàng Bênêđictô
XVI kết thúc sứ vụ đại diện Chúa Kitô là do một thế lực xấu xa cưỡng ép ngài,
thì chúng ta sẽ phải hiểu sao về những lời tuyên bố của ngài về lý do của việc
từ nhiệm? Trong tuyên bố ngày 11-02-2013, ngài đã xác định việc từ nhiệm là do
tuổi cao và sức khỏe kém, và việc từ nhiệm là một quyết định tự do. Như vậy,
phải chăng chúng ta phải tin vào các sứ điệp của bà Maria để kết tội Đức Giáo
hoàng là một kẻ dối trá? Hay phải nói ngược lại là các sứ điệp của bà Maria chỉ
là trò dự đoán đầy tà ý và cảm tính?
Bên cạnh đó, bà Maria
còn phủ nhận sự chính đáng của việc Đức Giáo Hoàng Bênêđictô từ nhiệm cũng như
tính hợp thức của vị Giáo hoàng sẽ kế vị. Trong sứ điệp ngày 22-07-2013 có
những lời lẽ như sau:“Chỉ có một vị chủ chăn của Giáo Hội trên Trái Đất được
Con Mẹ trao quyền, người vẫn cứ phải là Giáo Hoàng cho đến chết. Bất cứ ai khác
là kẻ giành quyền ngồi trên Ngai Tòa Thánh Phêrô đều là kẻ mạo danh”.
Đang khi đó, việc các
vị Giáo hoàng từ nhiệm, mặc dù hiếm nhưng cũng đã từng xảy ra trong lịch sử Hội
Thánh. Cho nên, đó không phải là điều bất khả. Chính bộ Giáo luật 1983, điều
332, §2 dự liệu như sau: “Nếu xảy ra trường hợp Đức Giáo hoàng Rôma từ nhiệm,
việc từ nhiệm phải được tự do và phải được bày tỏ cách hợp thức thì mới hữu
hiệu, nhưng không cần được bất cứ ai chấp nhận”.
Có một điều mà ai đọc
các sứ điệp của bà Maria cũng đều dễ nhận thấy, đó là sự chống báng mạnh mẽ
nhắm vào người kế vị Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, tức là Đức Giáo hoàng đương
kim Phanxicô. Chiều hướng này xem ra cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhóm cầu
nguyện do bà phát động. Trong nhiều sứ điệp khác nhau, bà đã dùng những lời lẽ
chống báng rất gay gắt đối với Đức Phanxicô.
Từ trước khi xảy ra
biến cố Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm, trong sứ điệp ngày 12-04-2012,
bà Maria đã tiên báo một người sẽ được bầu lên thay Đức Bênêđictô. Tuy nhiên,
bà phủ nhận tính hợp pháp của cuộc bầu vị Giáo hoàng mới. Bà gọi cơ mật viện
Hồng y bầu giáo hoàng mới là những người theo bè Tam điểm, là tổ chức độc ác
của Satan. Bà gọi vị Giáo hoàng mới là ngôn sứ giả, là kẻ mạo danh. Điều này
nằm trong cùng một chiều hướng với việc bà cho rằng Đức Bênêđictô XVI là vị
giáo hoàng đích thực cuối cùng trên trần gian. Trong nhiều sứ điệp khác nữa, bà
thường xuyên lặp đi lặp lại cụm từ “ngôn sứ giả” được gán cho người kế vị Đức
Bênêđictô. Cũng có khi bà gán cho vị này những “nhãn hiệu” xấu xa khác, như
“đầu của Con Mãng Xà” (sứ điệp ngày 13-11-2012); “kẻ mạo danh” (sứ điệp ngày
22-07-2013); “cái sừng nhỏ, kẻ huênh hoang tự đắc ngồi trên Tòa Phêrô” (sứ điệp
ngày 18-02-2013); “con của Satan…kẻ mạo danh trên ngai tòa Phêrô…tên phản Kitô”
(sứ điệp ngày 25-02-2013); và còn nhiều điều khác tương tự.
Thái độ chống Giáo
hoàng của bà Maria một mặt cho thấy bà không tin rằng Thánh Thần của Chúa Kitô
vẫn đang hiện diện và hoạt động trong Hội Thánh, không ngừng hướng dẫn Hội
Thánh đạt đến chân lý toàn vẹn của Chúa Kitô. Mặt khác, thái độ đó còn cho thấy
một cái nhìn giản lược về bản chất của Hội Thánh vốn chỉ còn là một cơ chế phàm
trần của những tranh giành phe nhóm, những toan tính kiêu căng, mưu đồ thống
trị… Cần nhớ rằng Hội Thánh tiên vàn là một mầu nhiệm. Hội Thánh dù bao gồm các
tội nhân, nhưng tự bản chất là thánh thiện vì được chính Đức Kitô thánh hóa để
trở thành Hiền Thê không tì ố của Ngài (xc. Cđ. Vat. II, Hiến chế về
Giáo Hội, số 1-8). Thái độ chống Giáo hoàng của bà Maria có thể coi là một
dạng thức của tội ly giáo, khi bà không ngừng rêu rao rằng vị Giáo hoàng đương
nhiệm là ngôn sứ giả, là Giáo hoàng mạo danh… (xc. GLHTCG, số 2089).
4. Những điềm sai lầm
về luân lý
a) Sai lầm trong quan
niệm về luân lý tính dục. Trong sứ điệp
ngày 06-04-2011, bà Maria tỏ ra dung túng cho một lối sống tự do về tình dục.
Nội dung chính của sứ điệp này xoay quanh việc đừng lên án những người khác tôn
giáo, tín ngưỡng hay khác về những sở thích tính dục (sexual preferences). Hẳn
nhiên, cần phân biệt giữa tội lỗi và con người. Chúng ta không có quyền lên án
các tội nhân, cho dù họ phạm những tội nặng nề nhất. Thế nhưng, cách diễn tả mơ
hồ của sứ điệp khiến người đọc có cảm tưởng rằng cũng không nên phê phán sự sai
trái của những xu hướng lệch lạc về tính dục. Điều đáng nói ở đây là cụm từ “sở
thích về tính dục” được lặp đi lặp lại nhiều lần như một sự nhấn mạnh. Cách
dùng cụm từ này thật đáng ngờ! Xem ra nó hàm ý rằng những xu hướng tính dục như
đồng tính chẳng hạn, cũng chỉ nên coi là chuyện sở thích cá nhân
chứ không phải là một sự lệch lạc về luân lý. Thế nhưng, đây lại là điều đi
ngược lại với Giáo lý của Hội Thánh vốn coi các hành vi đồng tính luyến ái tự
bản chất là vô trật tự, và nghịch với luật tự nhiên (xc. GLHTCG, số 2357).
b) Quan niệm sai lạc
về việc áp dụng án tử hình.Bà Maria còn đưa ra
một quan niệm sai lạc về việc áp dụng án tử hình khi bà lên án theo
cách cào bằng vô điều kiện mọi hình thức giết người, chỉ trừ ra hành
động tự vệ. Sứ điệp ngày 26-01-2012 có những lời như sau: “Ngươi không
được giết người có nghĩa là ngươi không được giết người khác. Điều này không có
ý nói về sự tự vệ nhưng về bất kỳ trường hợp nào khác. Không ai được biện minh
cho việc giết người - dù là phá thai, hành hình hay trợ tử. Không người nào
được phép” (sứ điệp ngày 15-07-2011 cũng có những lời tương tự).
Hẳn nhiên, Hội Thánh
luôn dạy rằng phá thai, trợ tử và những hành động giết người cố ý và không có
lý do chính đáng đều là những tội ác nghiêm trọng về luân lý. Tuy nhiên, đối
với án tử hình, mặc dù Hội Thánh luôn kêu gọi các chính quyền thực thi lòng khoan
dung và giảm thiểu hết mức có thể việc áp dụng án tử hình, nhưng Hội Thánh vẫn
luôn công nhận quyền chính đáng của các chính quyền dân sự trong việc áp dụng
án tử hình cho những tội phạm hết sức nguy hiểm cho xã hội mà xét thấy không
còn cách chọn lựa nào khác. Như vậy, việc áp dụng án tử hình không phải luôn
luôn là hành động vô luân, nhưng là điều chính đáng trong một số hoàn cảnh nhất
định. Giáo lý này thuộc về truyền thống lâu đời của Hội Thánh, từng được các vị
thánh Tiến sĩ thời danh giảng dạy, và nhất là được khẳng định trong Sách Giáo
lý của Hội Thánh Công Giáo như sau: “Giáo huấn truyền thống của Hội Thánh, sau
khi đã xác minh đầy đủ căn tính và trách nhiệm của phạm nhân, không loại trừ
việc kết án tử hình, nếu đây là con đường khả thi duy nhất để bảo vệ hữu hiệu
mạng sống con người khỏi bị xâm phạm cách bất công” (số 2267).
c) Quan niệm sai lạc
về ơn tha tội. Trong sứ điệp ngày
09-07-2012, bà Maria còn quảng bá một quan niệm sai lạc về ơn tha tội khi cho
rằng người nào đọc kinh đọc đặc biệt (do bà chỉ dẫn) trong 7 ngày liên tục thì
được ơn xá giải mọi tội lỗi. Điều này hẳn nhiên đi ngược với giáo lý của Hội
Thánh vốn cho rằng ơn tha tội được ban thông thường bằng việc lãnh nhận bí tích
giao hòa, hoặc trong trường hợp khẩn cấp, bằng việc ăn năn tội cách trọn, chứ
không chỉ đơn thuần bằng việc đọc bất kỳ kinh đọc nào (xc. GLHTCG, số 1446;
1452).
Cũng trong sứ điệp nói
trên, bà còn đề xuất một kinh đọc đặc biệt khác để xin ơn tha tội cho những
người chết trong tình trạng mắc tội trọng. Điều này rõ ràng đi ngược lại với
giáo lý của Hội Thánh vốn dạy rằng những ai chết trong tình trạng mắc tội trọng
thì sẽ rơi vào sự hư mất đời đời. Do vậy, tất cả những sự hy sinh, công phúc,
lời cầu nguyện của người sống cũng không làm thay đổi được phần số của những người
đã chết ấy (xc. GLHTCG, số 1035).
5. Những điểm sai lạc
về kỷ luật bí tích
Trong các sứ điệp, bà
Maria còn chủ trương những điều sai lạc liên quan đến cách thức thực hành hoặc
lãnh nhận các bí tích. Hẳn nhiên, Hội Thánh không có quyền thay đổi bản chất
của các bí tích, vì các bí tích là do Chúa Kitô thiết lập. Tuy nhiên, Hội
Thánh, xét như là người quản lý các Bí Tích và thừa tác viên của ơn cứu độ, có
thẩm quyền đưa ra những quy định về hình thức cử hành các bí tích. Những quy
định này vì không đụng chạm đến bản chất của Bí tích, nên có thể được canh tân
khi cần thiết để thích ứng với những hoàn cảnh mới.
Ở đây, chúng tôi muốn
nói đến hai quy định cụ thể của Hội Thánh trong việc lãnh nhận các bí tích. Đó
là việc cho phép tín hữu rước lễ bằng tay và luật buộc xưng các tội trọng một
năm ít là một lần. Việc Hội Thánh cho phép tín hữu rước lễ bằng tay được xác
định rõ ràng trong các văn kiện sau đây: Tông thưEcclesia de Eucharistia của
Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Huấn thị Redemptionis Sacramentumcủa
Bộ Phụng tự và Bí tích. Còn việc xưng các tội trọng một năm ít là một lần thì
được xác định trong Giáo luật 1983, điều 989.
Đáng tiếc là các sứ
điệp của bà Maria đã minh nhiên phủ nhận tính hợp pháp của hai quy định trên
đây của Hội Thánh. Thật vậy, sứ điệp ngày 06-07-2011 nói như sau: “Bí
Tích Thánh Thể Chí Thánh phải được đón nhận trên lưỡivà không được phép đón
nhận một cách ô nhơ bởi bàn tay con người. Tuy nhiên, điều này chính là những
gì các tôi tớ đã được thánh hiến của Ta đã và đang thực hiện. Các lề luật này
đã không được thông qua bởi Ta trong thần khí. Các tôi tớ đã được thánh hiến
của Ta đã bị dẫn dắt trên một con đường không phù hợp với các Giáo Huấn từ các
tông đồ của Ta”.
Còn sứ điệp ngày
09-07-2012 lại khẳng định rằng: “Đối với những người Công Giáo, các con
phải lãnh nhận bí tích Hòa Giải hai tuần một lần nếu các con muốn tiếp tục sống
trong Ân sủng”. Đây vừa là một quan niệm sai lạc về tình trạng ân sủng vì
cho rằng tình trạng ân sủng không tùy thuộc vào tình trạng sạch tội trọng và
lòng mến Chúa, nhưng tùy thuộc vào nhịp độ nhất định của việc thực hành bí
tích. Mặt khác, nó còn chuẩn hóa một lối thực hành bí tích trái với quy định
chung của Hội Thánh.
III. THẨM ĐỊNH VỀ PHONG
TRÀO SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI
1. Phản ứng từ phía
Giáo quyền
Kể từ khi phong trào
“Sứ điệp từ trời” khai sinh và được phổ biến rộng rãi, nhiều vị Giám mục thuộc
các châu lục khác nhau đã lên tiếng cảnh báo về sự nguy hiểm cũng như sự lầm
lạc của phong trào này. Có thể kể ra một số vị tiêu biểu như:
Đức Tổng Giám mục
Denis J Hart, Giáo phận Melbourne, Úc;
Đức Giám mục Fabbro,
Giáo phận London, Ontario, Canada;
Đức Giám mục Stephen
Secka, Giám mục phụ tá Giáo phận Spisska, Slovakia;
Đức Giám
mục Richard. J. Malone, Tổng Giáo phận Buffalo, NY;
Đức Tổng Giám mục Mark
Coleridge, Giáo phận Brisbane, Úc;
Đức Giám mục Greg
O’Kelly SJ , Giáo phận Port Pirie, Nam Úc;
Đức Giám mục Andreas
Laun of Salzburg, Giám mục Phụ tá Giáo phận Áo.[2]
Vì bà “Maria Lòng Chúa
Thương Xót” được cho là người đang sống tại Dublin, nên cuối cùng Đức Tổng Giám
mục Tổng Giáo Phận Dublin, tức vị chủ chăn có thẩm quyền trực tiếp đối với bà, cuối
cùng cũng đã lên tiếng. Mới đây trong một bản Tuyên cáo ra ngày 16-04-2014, Đức
Tổng Giám mục Diarmuid Martin tuyên bố như sau:
Tòa Tổng Giám mục
Dublin đã nhận được nhiều thỉnh nguyện thư xin xác minh về tính chân thực của
những điều tự nhận là thị kiến và sứ điệp do một người tự xưng là “Maria Lòng
Chúa Thương Xót” nhận được, và người này được cho là đang sống tại Tổng Giáo
phận Dublin.
Nay Tổng Giám mục
Diarmuid Martin muốn khẳng định rằng các sứ điệp này cũng như các thị kiến đi
kèm không được Hội Thánh chuẩn nhận, và nhiều điều trong các bản văn đi ngược
lại với thần học Công Giáo.
Vậy, không được phổ
biến hay sử dụng các sứ điệp này trong các hội đoàn thuộc Hội Thánh Công Giáo.[3]
2. Một vài nhận định
chung thay lời kết
Sau khi đã tìm hiểu
phong trào “Sứ điệp từ trời”, chúng tôi nhận thấy rằng các bản văn tự nhận là
“sứ điệp từ trời” không thực sự phản ảnh giáo lý tinh tuyền của Hội Thánh Công
Giáo, nhưng chỉ là một thứ giáo thuyết hỗn tạp được góp nhặt hoặc chịu ảnh
hưởng từ những nguồn mạch khác nhau, vừa là Công Giáo, Tin Lành, và cả khuynh
hướng hành đạo theo nghi lễ cổ điển trước Công đồng Vaticanô II. Mặt khác, các
sứ điệp của bà Maria còn chứa đựng rất nhiều điều bất nhất hoặc mâu thuẫn.
Chẳng hạn, khi thì bà chủ trương phải khoan dung với những người “khác về sở
thích tính dục”, khi khác lại lên án cách gay gắt những cuộc hôn nhân đồng
tính; khi thì bà chủ trương phải cầu nguyện cho những người đã chết trong tình
trạng mắc tội trọng, khi khác bà lại cho rằng hình phạt hỏa ngục là đời đời,
không thay đổi được (sứ điệp ngày 12-01-2014). Trong các sứ điệp, bà Maria đã
từng cảnh báo về một “thứ tôn giáo mới phá hoại Hội Thánh”, do một số phần tử
xấu trong Giáo triều đang tìm cách gầy dựng (chẳng hạn sứ điệp ngày
20-07-2012). Phải chăng lời kết án ấy trước tiên đã ứng nghiệm vào chính cái
giáo thuyết hỗn tạp mà bà đang ra sức phổ biến?
Có nhiều yếu tố khiến
người ta nghi ngờ về tính khả tín của các sứ điệp từ trời do bà Maria phổ biến.
Trước hết là sự ẩn danh của bà. Mặc dù sự ẩn danh này đã được bà giải thích lý
do, nhưng xem ra lý do bà đưa ra không thực sự thuyết phục. Trong phần lớn các
trường hợp, sự ẩn danh thường đi đôi với việc không dám nhận trách nhiệm cũng
như những hệ lụy về những gì mình nói hoặc làm. Một lá thư nặc danh thường
không được coi là có giá trị. Trong lịch sử Hội Thánh, những nhà thần bí, những
người nhận mặc khải tư chân chính không bao giờ ẩn danh, mà trái lại, họ sẵn
lòng chịu thử thách, hiểu lầm, nghi kỵ, thiệt thòi vì những gì họ nói ra, bởi
vì họ thực sự xác tín về những gì mình nói.
Yếu tố thứ hai khiến
người ta nghi ngờ về tính khả tín của các sứ điệp, đó là những lời tiên báo của
bà Maria thường không ứng nghiệm. Cũng có khi những lời tiên báo đó xem ra ứng
nghiệm, nhưng chỉ ứng nghiệm cách nửa vời, như trong trường hợp bà tiên báo về
việc Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm mà chúng tôi đã phân tích trên đây.
Còn những gì bà tiên báo về người kế vị Đức Bênêđictô XVI thì hoàn toàn ngược
lại với những gì người ta đang chứng kiến nơi vị Giáo hoàng đương kim, Đức
Phanxicô. Nếu quả thực các sứ điệp của bà phát xuất từ Thiên Chúa thì hẳn là
không thể tiên báo những điều viển vông như vậy.
Yếu tố sau cùng khiến
người ta có đủ cơ sở để phủ nhận tính khả tín của các sứ điệp do bà Maria quảng
bá, đó là những điểm sai lầm nghiêm trọng về đạo lý chất chứa trong các sứ điệp
của bà. Thông thường Hội Thánh rất cẩn trọng trong việc xác định những mặc khải
tư nào được coi là chân thực; và một trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu
được dựa vào để thẩm định, đó là mặc khải tư ấy không bao hàm những điều sai
lạc đi ngược lại với giáo lý chung của Hội Thánh. Chỉ nguyên tiêu chí này cũng
đủ cho thấy những sứ điệp tự nhận là “từ trời” hay “mặc khải tư” của bà Maria
chỉ là ngụy tạo. Những sứ điệp đó không đến từ Thiên Chúa, mà chỉ là sản phẩm
của con người. Điều tai hại là chính người tạo ra các sứ điệp ấy lại gán cho
chúng một giá trị ràng buộc gần như tuyệt đối mà tự thân chúng không có. Điều
này đã gây hoang mang cho không ít các tín hữu đơn thành: có buộc phải tin các
“sứ điệp từ trời” hay không? Nếu không tin sẽ phải chuốc lấy những tai họa hay
những hình phạt khủng khiếp sẵn sàng ập xuống. Còn nếu tin thì sẽ kéo theo bao
nhiêu hệ lụy thực hành do các sứ điệp đề xướng; và rồi, liệu làm như thế có rơi
vào tội rối đạo hay không? Bằng ấy câu hỏi đặt ra cũng là lời thỉnh nguyện để
các cơ quan thẩm quyền trong Hội Thánh địa phương sớm đưa ra câu trả lời chính
thức để soi sáng cho các tín hữu có được sự lựa chọn đúng đắn trong vấn đề này.
Lm Giuse Lâm Văn Sỹ,
OP.
[1] Tên tiếng Anh là “Maria Divine Mercy”.
Trong trang mạng <>, tên này được dịch sang tiếng Việt là “Maria Tông Đồ
Lòng Chúa Xót Thương”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét