22/06/2014
Lễ Mình Máu Thánh Chúa
Năm A
(phần I)
Bài
Ðọc I: Ðnl 8, 2-3. 14b-16a
"Người
sẽ ban cho các ngươi của ăn mà các ngươi và cha ông các ngươi chưa từng biết tới".
Trích
sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê
nói cùng dân chúng rằng: "Các ngươi hãy nhớ tất cả đoạn đường mà Chúa là
Thiên Chúa các ngươi đã dẫn đưa các ngươi qua sa mạc suốt bốn mươi năm, để rèn
luyện và thử thách các ngươi, để biết các điều bí ẩn trong lòng các ngươi và
xem các ngươi có tuân giữ lề luật của Người hay không? Người đã để các ngươi vất
vả thiếu thốn, và ban cho các ngươi manna làm của ăn mà các ngươi và cha ông
các ngươi chưa từng biết tới, để tỏ cho các ngươi thấy rằng: Con người sống
không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
"Các
ngươi hãy nhớ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, Ðấng đã dẫn đưa các ngươi ra khỏi đất
Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Và Người là Ðấng đã dẫn các ngươi vào nơi hoang địa
mênh mông và kinh khủng có nhiều rắn hổ lửa, bò cạp, rắn lục, và không có một
giọt nước nào; Người đã khiến nước từ tảng đá cứng rắn vọt ra. Trong hoang địa,
Người đã nuôi các ngươi bằng manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20.
Ðáp: Giêrusalem hỡi,
hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
Xướng:
1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi
Sion! vì Người giữ chặt các then cửa ngươi, Người chúc phúc cho con cái ngươi
trong thành nội. - Ðáp.
2)
Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. Người
khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người gieo rắc sương đông như tro bụi trắng.
- Ðáp.
3)
Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người
cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố
cho họ các huấn lệnh của Người. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: 1 Cr 10, 16-17
"Có
một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều, cũng chỉ là một thân thể".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh
em thân mến, chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa chẳng phải là
thông hiệp với máu Chúa Kitô sao? Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là
thông phần vào Mình Chúa đó sao? Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người,
chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm
bánh.
Ðó
là lời Chúa.
Ca
Tiếp Liên
"Lauda
Sion: Hỡi Sion, Hãy Ngợi Khen"
Trước
Alleluia, có thể hát hoặc đọc Ca Tiếp Liên này, tất cả hoặc từ câu 21
("Này đây bánh") cho đến hết.
1.
Hỡi Sion, hãy ngợi khen Ðấng cứu độ ngươi, Ðấng lãnh đạo và mục tử của ngươi /
với những bài vãn và những khúc ca!
2.
Ngươi có sức chừng nào, hãy rán ngợi khen chừng nấy, vì Người vĩ đại hơn mọi lời
khen ngợi, và ngươi cũng không đủ sức ngợi khen Người.
3.
Ðề tài của sự ngợi khen đặc biệt, đó là bánh sống và tác thành sự sống, ngày
hôm nay đã đặt ra cho ngươi.
4.
Ðó là bánh mà trên bàn tiệc thánh, cho đoàn thể mười hai người anh em, Chúa đã
ban tặng chẳng khá nghi ngờ.
5.
Hãy xướng lên lời ca khen ngợi đầy đủ, lời ca hoan hỉ và râm ran, tâm thần hãy
vui mừng rạng rỡ!
6.
Vì đây là ngày trọng thể, ngày kỷ niệm bàn tiệc thánh / lần đầu tiên được thiết
lập ra.
7.
Tại bàn tiệc này của Ðấng Tân Vương, lễ Vượt Qua mới theo luật pháp mới / chấm
dứt lễ Vượt Qua của thời đại cũ.
8.
Lễ nghi cũ nhường chỗ cho sự thực; đêm tối tăm nhường chỗ cho sự sáng sủa.
9.
Ðiều mà Chúa Kitô đã làm trong bữa tiệc ly, thì Người đã ra lệnh cho thực thi
điều đó để nhớ lại Người.
10.
Nhờ lời thánh huấn của Người dạy bảo, chúng ta làm phép cho bánh và rượu / trở
nên lễ vật hy sinh ban ơn cứu độ.
11.
Ðây là tín điều dạy người Kitô hữu rằng / bánh trở nên thịt Chúa, và rượu trở
nên máu Người.
12.
Ðiều bạn không hiểu, không xem thấy, thì đức tin mạnh mẽ xác nhận xảy ra, ngoài
luật lệ thiên nhiên.
13.
Dưới những hình sắc khác nhau, chúng chỉ là biểu hiệu, không còn thực chất, có ẩn
nấp những thực tại cao siêu.
14.
Thịt Chúa là của ăn, máu Người là thức uống, nhưng Chúa Kitô vẫn còn đầy đủ dưới
mỗi sắc hình.
15.
Người không bị kẻ lãnh nhận nghiền nát, không bị bẻ gẫy, không bị phân chia,
nhưng Người được thiên hạ lãnh nhận toàn thân.
16.
Một người lãnh nhận, ngàn người lãnh nhận, những người này cũng lãnh bằng những
người kia, thiên hạ ăn thịt Người mà Người không bị tiêu hao.
17.
Người lương thiện lãnh, kẻ ác nhân cũng lãnh, nhưng số phận họ không đồng đều:
hoặc được sống hay là phải chết.
18.
Kẻ ác nhân phải chết, người lương thiện được sống; hãy coi, cùng một của ăn như
nhau, mà kết quả khác xa biết mấy.
19.
Hình bánh bị vỡ, chớ khá lo âu, nhưng hãy nhớ rằng / trong miếng vỡ cũng như
trong toàn thể / Chúa vẫn hiện diện đầy đủ như nhau.
20.
Bản chất không hề bị bẻ vỡ, duy có biểu hiệu bị phân chia, nhưng không giảm thiểu
tình trạng và dáng vóc của Ðấng ẩn dật bên trong.
21.
Này đây bánh của các thiên thần, biến thành lương thực của khách hành hương; thực
là bánh của những người con cái, không nên ném cho loài khuyển.
22.
Bánh này đã được báo trước bằng hình ảnh, khi người ta sát tế Isaac, chiên của
lễ vượt qua đã được kể ra, khi cha ông chúng ta được tặng manna.
23.
Lạy Chúa Giêsu là mục thủ tốt lành, là bánh thực, xin Người thương xót, chăn
nuôi và bảo vệ chúng con; xin Người ban cho chúng con nhìn thấy / những điều
thiện hảo trong cõi nhân sinh.
24.
Chúa là Ðấng thông biết và có thể làm nên mọi sự, Chúa nuôi dưỡng chúng con
trong đời sống tạm gửi này, trên cõi cao xanh, xin cho chúng con được trở nên
thực khách đồng bàn của Chúa, đồng thừa kế và đồng danh phận / với những công
dân thánh của nước trời. Amen. Alleluia.
Alleluia:
Ga 6, 51-52
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh
này, thì sẽ sống đời đời". - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 6, 51-59
"Thịt
Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời
xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt
Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng:
"Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ
Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không
ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các
ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ
ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống.
Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha
là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy
cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các
ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Từ
Mình Chúa Ðến Chúng Ta
Ngay
từ đầu, cộng đoàn tín hữu ở Yêrusalem đã chuyên cần đến việc bẻ bánh. Và từ
ngày đó Giáo Hội không ngớt cử hành lễ tế tạ ơn và hiệp thông trong Mình và Máu
Chúa Kitô. Nhưng từ thế kỷ thứ XI người ta đã chú trọng nhiều hơn đến khía cạnh
hiện diện của Chúa Kitô nơi hình bánh.
Từ
đó người ta khao khát được chiêm ngắm Chúa ngoài giờ thánh lễ. Và một nữ tu ở
Liège, chân phước Julienne, được nhiều thị kiến thúc giục xin Tòa Thánh lập một
lễ lớn kính trọng thể Mình Máu Thánh Chúa. Bà được thị kiến vào khoảng những
năm 1208-1210; nhưng mãi đến 1317, tức là một thế kỷ sau, Giáo hội mới truyền mọi
nơi phải tổ chức lễ này. Khi ấy nhiều giáo phận đã có thói quen mừng rất lớn. Ðặc
biệt, khởi sự từ bên Ðức, người ta tổ chức kiệu Mình Thánh rất long trọng trong
ngày ấy. Thói quen kiệu ra ngoài đường phố cốt để ai ai cũng được chiêm ngưỡng
và cúng bái; cũng như để tỏ ra vương quyền của Ðức Kitô, và để cho người Tin
Lành biết Giáo Hội Công giáo tin thật Chúa hiện diện trong Thánh Thể. Dĩ nhiên
đó cũng là một hình thức sinh hoạt của giáo xứ.
Như
vậy không phải mọi khía cạnh trong ngày lễ hôm nay đều có giá trị như nhau và cần
phải duy trì tất cả. Ðặc biệt việc chầu Mình Thánh và kiệu Thánh Thể sẽ rất thiếu
sót nếu không được suy nghĩ và gắn liền với việc bẻ bánh, tức là thánh lễ tạ
ơn, là cơ sở của Phụng vụ Thánh Thể. Và để quý trọng lễ nghi cao cả này, phải dựa
vào Lời Chúa.
A.
Từ Manna Ðến Lời Chúa
Bài
sách Thứ luật hôm nay không trực tiếp nói đến chuyện Chúa ban Manna nuôi dân
trong sa mạc. Muốn có bài tường thuật trực tiếp, phải đọc trong sách Xuất hành
(chương 16).
Bấy
giờ dân kêu trách Môsê và Aharôn: Phải chi chúng tôi chết đi bởi tay Yavê trong
đất Aicập, khi còn ngồi bên niêu thịt và được ăn bánh thỏa thuê! Thật các ông
đã đem chúng tôi ra sa mạc này để làm cả lũ chết đói ở đây. Nhưng Yavê đã phán
với Môsê: Này Ta sẽ cho mưa bánh bởi trời xuống cho các ngươi. Và xảy ra là khi
sương mai bốc lên rồi thì này trên mặt sa mạc có một lớp gì dòn mỏng như sương
giá trên đất. Con cái Israel nói với nhau: Manhu, nghĩa là cái gì vậy? Môsê nói
với họ: đó là bánh Yavê đã ban cho các ngươi. Và kể từ ngày đó có chuyện mưa
Manna trong sa mạc.
Câu
chuyện này hôm nay sách Thứ luật nhắc lại với nhiều chuyện khác, đặc biệt là
chuyện rắn lửa bò ra cắn dân và chuyện đập đá ra nước trong sa mạc. Tác giả mượn
uy tín của Môsê, nhắc lại những chuyện trên để dạy dỗ người đồng thời. Bây giờ
họ không còn sống trong sa mạc nữa. Ngược lại nay là thời hậu Lưu đày; người
Dothái đã tái thiết Quê hương và bắt đầu có đời sống phồn thịnh. Họ đang sống
khá giả thì vì sao tác giả còn lấy lại câu chuyện chết đói, chết khát ngày xưa
nơi sa mạc ra mà khuyên nhủ?
Bài
học của ông như thế này. Ngày xưa Yavê lưu dân 40 năm nơi hoang địa là để họ có
kinh nghiệm về sự thiếu thốn và bất lực, mà tin tưởng vào Yavê và trông chờ mọi
sự từ miệng Người phán ra (vì có gì mà lại không do lời quyền năng Người làm
ra?). Kể cả manna và nước uống vọt ra từ đá cũng do Lời Yavê mà có. Bài học ấy,
Môsê bảo dân đừng có quên khi đã vào Hứa Ðịa, là đất chảy sữa và mật. Vì con
người không sống nguyên bởi bánh; mà còn cần nhiều sự khác có lẽ và chắc chắn
còn quan trọng hơn để được hạnh phúc. Mà tất cả đều do Chúa, bởi Lời quyền năng
của Người! Và để được Chúa ban cho, người ta phải giữ lệnh truyền của Người. Vì
thế thật là hữu lý khi nói: con người sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi Lời
từ miệng Chúa phán ra. Và chúng ta luôn luôn phải sống khiêm nhường, đặt mọi
tin tưởng vào Chúa.
Vậy
như dân sống trong sa mạc nhờ manna, thì nay người ta sống nhờ Lời Chúa, tức là
giữ lệnh Người truyền.
B.
Từ Lời Chúa Ðến Mình Chúa
Ðó
là bài học của sách Thứ luật, của Luật pháp, truyền đạt đến thời Chúa Yêsu. Người
không đến để hủy bỏ nhưng để hoàn tất và kiện toàn Luật pháp. Thế nên hôm ấy
dân tuốn đến với Người, không phải vì đã thấy dấu lạ nhưng vì đã được ăn bánh
no (6,26). Người nói ngay: "Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát nhưng
vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống muôn đời". Lập tức họ đã xin Người,
như người phụ nữ Samari khi nghe nói đến nước hằng sống: Thưa Ngài, hãy luôn
luôn cho chúng tôi thứ bánh ấy. Chúa Yêsu đáp: "Bánh sự sống, chính là Ta!
Ai đến với Ta sẽ không hề đói, và kẻ tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
Lẽ
ra họ đã phải hiểu ngay lời của Người. Sách Thứ luật đã nói: con người sống
không nguyên bằng bánh, nhưng bằng mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra. Thế nên
khi bảo họ đừng tìm bánh hư nát nhưng hãy tìm lương thực nuôi sống đời đời, Người
muốn bảo họ hãy tìm Lời hằng sống và Lời ấy chính là Người, là Lời Thiên Chúa
đang nói với họ. Nếu họ tin vào Người thì sẽ không còn đói còn khát.
Nhưng
người Dothái đã không hiểu, và đã không muốn hiểu. Họ đang loay hoay với ý tưởng
bánh nuôi sống con người, bánh nuôi sống đời đời. Mà bánh ấy phải từ trời xuống
như manna... thế mà ông Yêsu này là con của Yuse, làm sao ông có thể bảo mình từ
trời xuống?
Thành
ra cuộc đối thoại đã chuyển sang vấn đề tông tích của Ðức Yêsu, khiến Người khẳng
định ngay: "Bánh hằng sống bởi trời xuống, chính là Ta!". Người muốn
quả quyết mình từ trời đến.
Nhiều
tác giả nghĩ rằng chương 6 của Yoan phải chấm dứt ở đây. Và mục đích của chương
này chỉ là để mạc khải nguồn gốc đích thực của Ðức Yêsu là Ðấng từ trời đến, là
Lời Thiên Chúa đến trong thế gian, là Lời Thiên Chúa nhập thể để ai tin thì được
sống.
Nhưng
vì ghi lại Lời mạc khải sau khi Chúa Yêsu đã về trời và đang thời Giáo hội
chuyên cần với việc bẻ Bánh và việc tham dự vào Bí Tích này thiết yếu cho sự sống
của Giáo hội, nên tác giả đã thêm những câu làm nên bài Tin Mừng của lễ Mình
Thánh Chúa hôm nay. Ðúng hơn, có lẽ chúng ta nên nói trong khi các tác giả Phúc
Âm khác chỉ kể lại thuần túy việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, tác giả
Yoan nhìn thấy đây là "dấu lạ" gợi lên mầu nhiệm Chúa Yêsu là Ngôi Lời
ban sự sống, và là cơ hội để ông viết về Bí tính Thánh Thể, hầu bù vào chỗ ông
sẽ không thuật lại việc Chúa thiết lập Bí tích này, vì ai ai cũng đã biết rồi.
Dù
sao, sau khi đã đọc lại phần trên, chúng ta thấy bài Tin Mừng hôm nay thật sáng
sủa và chúng ta phải hiểu theo chiều hướng đó.
Chúa
Yêsu đã khẳng định Người là bánh hằng sống bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì
được sống đời đời. Lẽ ra người Dothái có thể hiểu theo nghĩa trên kia, nhận Ðức
Kitô là Con Thiên Chúa đến ban sự sống cho loài người nên phải tin ở Người và
vào Lời của Người. Nhưng Người biết họ không tin. Họ sẽ giết Người. Nhưng chính
sự chết của Người sẽ làm cho người ta được sống. Nên Người tiếp theo "Và
bánh Ta sẽ ban ấy là Thịt Mình Ta vì sự sống thế gian".
Người
Dothái không chịu đựng nổi nữa. Tin vào Người đã khổ, bây giờ lại còn phải tin
vào sự chết của Người! Do đó, vì không tin, họ đã rì rầm với nhau để phản đối:
làm sao Ông có thể cho ta ăn thịt mình được?
Chúa
Yêsu lợi dụng ngay sự kiện họ muốn hiểu lời Người một cách cụ thể để nói rõ việc
Người sẽ bị giết, thịt máu phân rẽ và bảo người ta phải tin ở mầu nhiệm Tử nạn
của Người để được sống. Và những lời ấy rất thích hợp để nói về Bí tích Thánh
Thể. Nói cách khác, tác giả Yoan đã nhìn vào cử hành Thánh Thể trong Giáo hội để
nói về sự chết cứu thế của Chúa và cũng để người ta luôn luôn liên kết Thánh Thể
với cuộc Tử nạn cứu độ của Người. Có thể nói cả bài Tin Mừng hôm nay chỉ muốn
giải thích câu Bánh hằng sống, chính là Ta: và Bánh Ta sẽ ban ấy là Thịt Mình
Ta vì sự sống thế gian. Và câu nói ấy có ý bảo người ta phải tin vào cuộc đời của
Chúa Yêsu và sự chết của Người. Tác giả đã dùng cử hành Thánh Thể ở trong Giáo
hội để diễn tả chân lý trên. Và đồng thời cũng muốn dùng chân lý ấy để nói về nội
dung của Thánh Thể. Bí tích này ban Chúa Yêsu trong lễ tế hy sinh của Người cho
chúng ta. Ai tin và nhận lấy thì được sống đời đời.
C.
Từ Mình Chúa Ðến Chúng Ta
Thế
nên mượn lời thư Phaolô hôm nay, Phụng vụ nhắc nhở chúng ta Chén thánh và Bánh
thánh chúng ta cầm lấy nơi bàn thờ là chính Chúa Yêsu trong mầu nhiệm Tử nạn cứu
thế. Chúng ta phải tin Chúa hiện diện dưới hình thức bánh rượu. Nhưng chưa đủ.
Còn phải tin Người là Bánh bởi trời, tức là Lời hằng sống nuôi sống chúng ta.
Hơn nữa ở đây, trong Bí tích này, bánh rượu còn là Thịt Máu Người ban vì sự sống
thế gian, tức là sự chết của Người khiến cho chúng ta được sống đời đời. Ðến với
Thánh Thể chúng ta chỉ được ơn nếu tin như vậy. Và khi thông hiệp với Bí tích
này, chúng ta phải chia sẻ lễ hy sinh của Chúa.
Nhiều
người nghe nói đến mầu nhiệm sự chết của Chúa, chỉ nhìn thấy những nét bề ngoài
là những đớn đau, như người Dothái chỉ nhìn thấy thịt và máu. Họ không đạt tới
các thực tại bên trong. Dưới hình thức thịt máu, có con người Ðức Kitô, có ý
chí hy sinh cứu thế của Người, có ơn cứu độ giao hòa con người với Thiên Chúa
và loài người với nhau. Phaolô nhắc nhở chúng ta, khi chịu Mình và Máu Thánh
Chúa, phải tin vào mầu nhiệm hy tế hòa giải và phải muốn kết hợp với Thiên Chúa
và với đồng loại trong Thân thể Ðức Kitô. Có như vậy Thánh Thể mới là lương thực
nuôi dưỡng sự sống đời đời, vì sống đời đời là sống với Thiên Chúa và các thánh
của Người. Thánh Thể vì thế là bí tích tình yêu vì khiến chúng ta được lưu lại
trong Chúa và Chúa trong chúng ta, để chúng ta làm nên Thân Thể Chúa và nên chi
thể của nhau. Và tất cả những ơn đó đều nhờ Thập giá Ðức Kitô và sự chết của
Người, mà Thánh Thể là Bí tích.
Ngày
lễ Mình Máu Thánh Chúa không những nhắc nhở chúng ta niềm tin vào sự hiện diện
của Chúa nơi Thánh Thể và vào hiệu lực của Bí tích tình yêu duy nhất hóa chúng
ta trong Thân thể Ðức Kitô nhờ việc Người hiến dâng Thịt Máu trong hy lễ hòa giải.
Các bài đọc của Thánh lễ hôm nay còn gợi lên bối cảnh chúng ta phải nhớ mỗi lần
đến với Mình Máu Thánh Chúa. Ðây là Bánh hằng sống bởi trời xuống như manna,
dành cho Dân Chúa đang trên đường sa mạc trần gian. Chúa đòi dân phải cảm thấy
thiếu thốn, bất lực và đặt hết niềm tin vào Người. Và chờ mong được sống nhờ mọi
sự do Lời Chúa phán ra. Chúa muốn chúng ta luôn luôn ý thức thân phận khó nghèo
về hạnh phúc đời đời để trông chờ Nguời ban sự sống vĩnh cửu, khi chúng ta giữ
Lời Người và kết hợp với Người nhờ Bí tích Thánh Thể. Và khi chúng ta thi hành
hai điều này thì nhất định chúng ta sẽ trở thành Kitô hữu hoàn toàn hơn, tức là
sống giống như Người hơn. Và cuộc đời của Người rõ ràng là đã hy sinh cho Thiên
Chúa và tận hiến cho hạnh phúc của mọi người. Chúng ta sẽ đạo đức và phục vụ.
Chúng ta sẽ mến Chúa và yêu người. Chúng ta sẽ làm đẹp đạo và tốt đời.
Ðó
là điều chúng ta phải ao ước mỗi khi đến với Thánh Thể và đặc biệt trong Thánh
Lễ hôm nay.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Mình Máu Thánh Chúa,
Năm A
Bài đọc: Deut 8:2-3, 14b-16a;
1 Cor 10:16-17; Jn 6:51-59.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ích lợi của việc
lãnh nhận Mình và Máu Thánh Đức Kitô
Tuần
trước, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu mầu nhiệm khó hiểu nhất trong Đạo Công
Giáo, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi; tuần này, chúng ta cùng nhau học hỏi mầu nhiệm
khó thứ hai, mầu nhiệm Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Những người Do-thái đương thời
với Chúa Giêsu hỏi nhau: “Làm sao ông này có thể lấy thịt ông cho chúng ta ăn
được?” Có hiểu hay không, bí-tích Thánh Thể vẫn là một thực tại, có nguồn gốc từ
biến cố Thiên Chúa nuôi dân bằng manna suốt 40 năm trường trong sa mạc, và được
mặc khải cách rõ ràng trong chương 6 của Tin Mừng Gioan. Giống như lần trước,
chúng ta sẽ tập trung trong những lợi ích mà bí-tích Thánh Thể mang lại cho con
người.
Trong
bài đọc I, Sách Đệ Nhị Luật cho chúng ta hiểu lợi ích của manna là để con người
có sức mạnh vượt qua những thử thách của Thiên Chúa suốt 40 năm trường trong sa
mạc trước khi vào Đất Hứa. Trong bài đọc II, thánh Phaolô nhấn mạnh đến sự hiệp
nhất với Đức Kitô và với nhau là hiệu quả của bí-tích Thánh Thể, vì mỗi khi người
tín hữu lãnh nhận Mình và Máu Thánh của Đức Kitô, họ trở nên một thân thể với
Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự sống thần linh được ban cho những
ai ăn thịt và uống máu Ngài. Hơn nữa, bí-tích Thánh Thể còn là Bánh mang lại sự
sống trường sinh mà con người ở mọi nơi và mọi thời luôn khao khát nó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Manna trong Sách Xuất Hành là hình bóng của Bí-tích Thánh Thể.
1.1/
Manna là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết: Biến cố Xuất Hành
là một biến cố lớn và không thể quên của người Do-thái. Các nhà lãnh đạo và các
ngôn sứ không ngừng nhắc nhở dân chúng nhớ lại biến cố Vượt Qua, như tác giả
Sách Đệ Nhị Luật nhắc nhở dân chúng về mục đích của biến cố này: “Anh em phải
nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi
suốt 40 năm trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực; như vậy Người thử thách
anh em cho biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người hay
không.”
Sau
khi thoát khỏi Ai-cập, dân Israel hết lương thực và phải chịu đói khát. Họ kêu
lên Thiên Chúa, và Ngài “đã cho anh em ăn manna là của ăn anh em chưa từng biết
và cha ông anh em cũng chưa từng biết.” Manna là bánh bởi trời Thiên Chúa cho
rơi xuống trên mặt đất mỗi sáng. Người Do-thái chưa từng biết đến manna trên mặt
đất này. Trong tiếng Do-thái, manna đến từ “manhu,” có nghĩa là “Cái gì
vậy?” Đây là câu hỏi khi người Do-thái đi lượm manna lần đầu tiên.
1.2/
Manna là của ăn đàng của dân Do-thái suốt 40 năm trong sa mạc: Thánh Vịnh 78:25, bản
Do-thái gọi manna là Bánh của những người mạnh; trong khi bản Bảy Mươi gọi là
Bánh của các thiên thần. Bản dịch Do-thái chính xác hơn, vì manna là Bánh ban sức
mạnh cho người Do-thái, để họ có sức chịu đựng bao nhiêu thử thách xảy đến cho
họ trong sa mạc trong suốt 40 năm trường. Chỉ khi dân Do-thái đặt chân tới đồng
bằng Jericho, vào đúng ngày Lễ Vượt Qua, manna mới chấm dứt, và dân Do-thái bắt
đầu dùng các thức ăn địa phương (Jos 5:12).
Khi
còn lang thang trong sa mạc, ông Moses đã truyền cho dân chúng gom một bình đầy
manna đặt trong Hòm Chứng Ước, cùng với cây gậy của Aaron và hai bia đá có khắc
Thập Giới (Heb 9:4), để kỷ niệm biến cố Thiên Chúa đã làm mưa từ trời cho dân
có bánh ăn trong sa mạc. Manna được giữ trong nơi Cực Thánh, như chúng ta giữ
Mình Thánh Chúa ngày nay, để người Do-thái luôn cảm thấy sự hiện diện của Thiên
Chúa ở giữa họ.
+
Khi người Do-thái nghĩ ông Moses đã làm cho cha ông họ có manna ăn trong sa mạc,
Chúa Giêsu đã sửa sai họ: "Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông
Moses đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn
bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống,
bánh đem lại sự sống cho thế gian" (Jn 6:31-32). Sau cùng, manna cũng được
nhắc trong mặc khải cho hội thánh tại Pergamum, một trong 7 Hội Thánh trong
Sách Khải Huyền: “Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh:
Ai thắng, Ta sẽ ban cho manna đã được giấu kỹ; Ta cũng sẽ ban cho nó một viên sỏi
trắng, trên sỏi đó có khắc một tên mới; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài kẻ
lãnh nhận” (Rev 2:17). Tác giả Sách Khải Huyền nối việc ăn manna với những người
chiến thắng.
2/
Bài đọc II:
Bí-tích Thánh Thể là nguồn mạch hiệp nhất.
2.1/
Thánh Thể là Bánh hiệp nhất mọi người với Đức Kitô: Thánh Phaolô chất vấn
các tín hữu Cotintô: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng
phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải
là dự phần vào Thân Thể Người sao?” Truyền thống của các nước miền Cận Đông
tin: Khi con người dâng lễ vật cho bất cứ thần nào, chính thần ấy nhập vào lễ vật
họ dâng; và khi họ ăn phần dâng cúng được các tư tế trả lại cho họ, các thần sẽ
vào trong thân thể họ và làm cho họ được khỏe mạnh, thông minh và nhân đức như
các thần. Cũng vậy, khi người Kitô hữu nhận lãnh Mình Máu Thánh Chúa, họ trở
nên một phần của thân thể Đức Kitô. Tương tự, một gia đình hay một cộng đoàn
cùng lãnh nhận Mình Thánh Chúa, tất cả đều trở nên những phần tử của thân thể Đức
Kitô. Tất cả đều dự phần vào cuộc sống thần linh của Thiên Chúa.
2.2/
Thánh Thể là Bánh hiệp nhất mọi người với nhau: Không phải các tín hữu chỉ
thông hiệp với Đức Kitô, nhưng họ còn thông hiệp với nhau, “Bởi vì chỉ có một tấm
Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng
ta cũng chỉ là một thân thể.” Theo thần học về thân thể của Đức Kitô, mỗi người
chúng ta trở nên những chi thể của một thân thể là Giáo Hội, với Đức Kitô là Đầu.
Vì thế, mỗi người không còn giữ và làm theo ý riêng mình nữa; nhưng tất cả đều
cùng chung một ý muốn và làm theo thánh ý của Đức Kitô, và như thế, họ cùng hiệp
nhất với nhau. Nếu đã cùng hiệp nhất trong một thân thể của Chúa, các tín hữu
không thể làm bất cứ điều gì chia cắt thân thể của Đức Kitô.
3/
Phúc Âm:
Chúa Giêsu là Bánh ban sự sống thần linh và sự sống đời đời cho con người.
3.1/
Phân tích từ ngữ Hy-lạp: Lời
tuyên bố của Chúa Giêsu sau đây cần được nghiên cứu từng từ ngữ và cách cấu
trúc: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống
muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được
sống."
+
Cụm từ "ego eimi" theo sau bởi một thành ngữ xảy ra 7 lần trong
Gioan, và túc từ theo sau đều mặc khải một sứ vụ đặc biệt của Đức Kitô như: Ta
là Bánh Hằng Sống; Mục Tử Tốt Lành; Cửa Chuồng Chiên; Cây Nho; Sự Sống Lại và Sự
Sống; Ánh Sáng Thế Gian; Đường, Sự Thật, và là Sự Sống.
+
Túc từ "o arton o zon" có thể mang nhiều nghĩa khác nhau tùy theo
cách dịch:
(1)
Có thể dịch là "bánh hằng sống hay bánh trường sinh," có nghĩa bánh
không bao giờ hư nát. Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, có nghĩa Chúa là Bánh Hằng Sống.
(2)
Hay có thể dịch là "bánh mang sự sống thần linh." Khi áp dụng vào
Chúa Giêsu, có nghĩa, Ngài là bánh mang sự sống thần linh cho con người như
trong (Jn 6:33).
(3)
Hay cũng có thể dịch là "bánh đang sống." Khi áp dụng vào Chúa Giêsu,
có nghĩa Ngài là Bánh đang sống.
Theo
văn mạch và nội dung, nghĩa thứ (2) có lẽ thích hợp hơn cả; mặc dù hai nghĩa
kia vẫn đúng với Chúa Giêsu.
+
Cụm từ: "từ trời xuống" nhắc nhở cho con người biến cố Thiên Chúa cho
manna rơi xuống từ trời làm lương thực cho con cái Israel suốt 40 năm trong sa
mạc. Manna là hình ảnh báo trước của bí-tích Thánh Thể. Bánh mang lại sự sống đời
đời có thực và có nguồn gốc từ trời.
+
Bánh Hằng Sống chính là thịt (sárk) của Chúa Giêsu. Ngay từ đầu Tin Mừng,
Gioan đã dùng danh từ này để nói về mầu nhiệm Nhập Thể: Và Ngôi Lời đã mặc lấy
xác phàm (sárk) và đã cư ngụ giữa chúng ta.
+
Phản ứng của người Do-thái: Điều họ tranh luận ở đây không phải về nguồn gốc của
Chúa Giêsu, nhưng là thịt của Ngài: Làm sao một người đang sống có thể lấy thịt
của mình cho kẻ khác ăn? Trừ phi người đó phải chết! Điều khó khăn nữa là người
Do-thái không có thói quen ăn thịt người.
3.2/
Sự cần thiết của bí-tích Thánh Thể: Đức Giêsu nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các
ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống
nơi mình."
+
Công thức "amen amen = thật, tôi bảo thật" báo hiệu trước một chân lý
sẽ được mặc khải trong Tin Mừng Gioan. Chân lý Chúa Giêsu mặc khải ở đây là
"Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống
nơi mình." Nếu Chúa Giêsu không mặc khải chân lý cho con người, sẽ không
có ai biết được.
+
Hai động từ ăn (esthio) và uống (pino) mà Gioan dùng ở đây là hai động từ căn bản
dùng trong việc ăn uống của con người: như ăn bánh và uống nước.
+
Chúa Giêsu phân biệt hai sự sống: thể lý (psyche) và thần linh (zon). Nếu
không ăn thịt và uống máu Chúa, con người vẫn có sự sống thể lý; nhưng không có
sự sống thần linh.
+
Sự sống muôn đời (zon aivonion): Sự sống thần linh sẽ dẫn con người đến sự sống
muôn đời: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ
cho người ấy sống lại vào ngày sau hết." Như Chúa Giêsu khi mang thân xác
con người, mặc dù con người vẫn phải chết cách thể lý, nhưng sẽ được sống lại
vinh hiển, và sẽ không bao giờ phải chết nữa.
+
Thịt và Máu Chúa là lương thực nuôi sống con người: "vì thịt tôi thật
là của ăn, và máu tôi thật là của uống." Hai
danh từ dùng để so sánh: của ăn (brosis) và của uống (posis) là hai danh từ
dùng để chỉ lương thực căn bản của con người.
+
Sự sống thần linh là sự sống của chính Thiên Chúa: "Ai ăn thịt và uống máu
tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy." Chúa Giêsu và người
rước Chúa trở nên một, như thánh Phaolô tuyên bố: "Tôi sống, nhưng không
còn là tôi; mà là chính Đức Kitô sống trong tôi."
+
Sự sống thần linh giúp con người hiểu biết sự khôn ngoan và các mầu nhiệm của Thiên
Chúa mà trí khôn con người không hiểu thấu được. Sự khôn ngoan có được là do
Thánh Thần của Đức Kitô hướng dẫn con người. Sự sống thần linh giúp cho con người
có sức mạnh để đáp ứng lời mời gọi nên trọn lành của Đức Kitô mà sức riêng con
người không thể làm được. Ví dụ, con người có được tình yêu nguyên thủy của
Thiên Chúa để yêu thương kẻ thù, làm ơn và cầu nguyện cho người ghét mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Như manna rơi xuống từ trời để nuôi dưỡng và tăng sinh lực cho dân Do-thái suốt
40 năm trường trong sa mạc, Chúa Giêsu trong bí-tích Thánh Thể cũng là Bánh từ
trời xuống để nuôi dưỡng và tăng sinh lực cho chúng ta trong suốt cuộc đời trên
dương gian.
-
Bí-tích Thánh Thể là căn nguyên của sự hiệp nhất. Nếu mỗi người trong gia đình,
trong cộng đoàn, giáo xứ hay Giáo Hội năng lãnh nhận Bí-tích Thánh Thể, tất cả
sẽ hiệp nhất với Thiên Chúa và với nhau.
-
Bí-tích Thánh Thể làm chúng ta được tham dự cuộc sống thần linh với Thiên Chúa
ngay từ đời này, và chuẩn bị cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc muôn đời với
Thiên Chúa ở đời sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
22/06/14 CHÚA NHẬT TUẦN 12 TN – A
Lễ Mình Máu Chúa Ki-tô
Ga 6,51-58
Lễ Mình Máu Chúa Ki-tô
Ga 6,51-58
Suy niệm: Khát vọng thẳm sâu nơi cõi lòng con người là yêu và được
yêu, cùng
sống mãi trong tình yêu. Chúa Giê-su luôn khát khao và đi bước trước để ngỏ lời
yêu thương, để đổ đầy tình yêu của Ngài vào trái tim chúng ta, để mong mỏi
chúng ta cảm nhận được tình yêu của Ngài, và để chúng ta sống mãi. Tình Yêu
Chung Thủy của Chúa không chỉ hiến dâng tâm hồn mà trọn cả thân mình Ngài nữa.
Chúa tự tỏ bày: thịt và máu của Chúa chính là của ăn tuyệt hảo nhất; con người
ăn vào sẽ không bao giờ còn đói khát nữa. Chúa tự nguyện hiến trao sự sống: là
thịt và máu của Chúa để cho chúng ta lãnh nhận và được sống mãi như Chúa. Chúa
không chỉ tỏ lộ: Chúa là Bánh hằng sống từ trời xuống. Chúa còn kêu mời chúng
ta: hãy ăn Ngài – ‘Thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của
uống’. Sao
Chúa yêu chúng ta nhiều đến thế!
Mời Bạn: Đức
Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô XVI nói: đau khổ lớn nhất của con người không phải là
thiếu thốn vật chất, nhưng là thiếu vắng tình yêu. Chúa Giê-su là đại dương
tình yêu. Mong bạn nhận ra tình yêu của Ngài, để bạn kết nối, tựa mình vào
Ngài, để trái tim bạn rạo rực, vui sướng, hạnh phúc vì được yêu; mong bạn cảm
nhận được điều đó mỗi khi rước lễ!
Sống Lời Chúa: Sẵn
sàng tâm hồn để rước Mình Thánh Chúa mỗi khi có thể.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Thánh Thể Chúa là sự hiện diện đích thực của Chúa đang ở
với chúng con, để yêu chúng con. Xin cho chúng con đầy lòng tin tưởng, sốt mến
mỗi khi rước Mình và Máu Thánh Chúa. Amen.
KẺ ĂN TÔI SẼ SỐNG NHỜ TÔI
Rước lễ là đón lấy sự sống
từ Ðấng đang sống, cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Suy niệm:
“Lúc đó tôi biết thế nào tôi
cũng chết
nhưng tôi muốn con tôi được
sống”
Ðó là lời của bà Susanna sau
khi được cứu
trong trận động đất ở Ácmêni
vào tháng 12-1987.
Trong số hàng ngàn người bị
vùi lấp dưới đống gạch,
có hai mẹ con bà Susanna may
mắn còn sống sót.
Cô con gái bốn tuổi đòi uống
nước.
Tìm đâu ra nước khi hai mẹ
con không có lối ra?
Tình mẫu tử đã gợi lên cho
bà một ý nghĩ táo bạo,
đó là rạch ngón tay mình
chảy máu để cho con mút.
Ðứa bé đã đỡ khát nhờ máu
người mẹ.
Nó đã sống cho đến khi cả
hai mẹ con được cứu.
Câu truyện trên giúp ta hiều
phần nào bí tích Thánh Thể.
Ðức Giêsu đã chết để chúng
ta được sống.
Ngài chấp nhận chịu đổ máu
qua cái chết thập giá,
và Ngài muốn máu Ngài trở
nên thức uống cho chúng ta.
Trong các nhà thờ, vào dịp
lễ Giáng sinh,
thường có những người ngoài
Kitô giáo đến dự lễ.
Cũng có ít người tò mò lên
“ăn bánh thánh”.
Họ ngạc nhiên vì tấm bánh
mỏng manh, nhạt nhẽo.
Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn
nhiều nếu chúng ta bảo họ:
“Ăn tấm bánh đó là ăn thịt
Chúa,
uống chén rượu đó là uống
máu Chúa”.
Thật là kinh khủng, làm sao
có chuyện như vậy?
Ðây là mầu nhiệm đức tin,
không dễ giải thích cho người ngoài.
Tất cả bắt đầu từ ước muốn
lạ lùng của Ðức Giêsu.
Ngài muốn nuôi nhân loại
bằng chính con người Ngài.
Ngài muốn trở thành đồ ăn
thức uống cho nhân loại:
“Các con hãy cầm lấy mà ăn,
đây là Mình Thầy.
Các con hãy cầm lấy mà uống,
đây là Máu Thầy”.
Mình và Máu tượng trưng toàn
thể con người Ðức Giêsu.
Nên khi rước lễ, ta không
chỉ rước thịt mình Ngài,
mà rước lấy cả con người
Ngài dưới dạng tấm bánh.
Rước lễ là gắn bó với một
ngôi vị:
“Ai ăn thịt tôi và uống máu
tôi thì ở lại trong tôi
và tôi ở lại trong
người ấy” (c.56).
Rước lễ không phải là đón
nhận một xác chết,
nhưng là gặp gỡ Ðức Giêsu đã
chết và nay đã phục sinh.
“Như tôi sống nhờ Chúa Cha
thế nào,
kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ
tôi như vậy” (c.57).
Rước lễ là đón lấy sự sống
từ Ðấng đang sống,
cũng là sự sống duy nhất bắt
nguồn từ Chúa Cha.
Hôm nay, Ðức Giêsu phục sinh
có một lối hiện diện mới mẻ.
Ngài không hiện diện dưới
dạng một con người,
nhưng dưới dạng đồ ăn, đồ
uống.
Như thế cả vật chất bất động
cũng được nâng lên,
cả lao công của con người
cũng được thánh hiến.
Vật chất trở thành biểu
tượng cho sự hiện diện thần linh.
Vật chất có chỗ trong thế
giới của Thiên Chúa.
Ước gì thế giới vật chất ở
quanh ta
cũng nên thánh, nhờ được
chia sẻ trong yêu thương.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm,
ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân,
và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi,
để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp,
nơi lớp học tình thương lúc
chiều tà,
nơi những trung tâm phục hồi
nhân phẩm,
nơi bảo sanh viện nâng niu
sự sống của trẻ thơ,
nơi khách sạn năm sao, noi
quán bia đầu ngõ,
nơi các tiệm cho mướn băng
video,
noi tình yêu trong ngần của
đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết,
xin cho
đời con là một ngọn đèn,
xin cho
chúng con là những ngọn đèn màu đỏ,
mời
người ta dừng lại, trầm tư,
và gặp
được Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22
THÁNG SÁU
Thiên
Chúa Mời Gọi Đích Danh Mỗi Người Chúng Ta
Đồng
thời, chúng ta cũng gặp thấy nơi truyền thống một hành trình kiên thủ trong đức
tin. Ở đây, Giáo Hội là bạn đồng hành luôn sát cánh với con người. Giáo Hội
luôn sẵn sàng khi con người yêu cầu những cách thế mới của sự quan phòng của
Thiên Chúa. Các Công Đồng Vatican I và II, mỗi Công Đồng theo cách riêng mình,
là những tiếng nói quí giá của Chúa Thánh Thần mà chúng ta không được phép dửng
dưng. Giáo Hội mời gọi chúng ta suy tư lại về những chân lý sống động mà các
Công Đồng ấy đã nêu ra, cũng như suy tư lại về những tài liệu quan trọng của
truyền thống.
Mọi
câu hỏi nghiêm túc phải nhận được một câu trả lời thấu đáo. Đó là lý do tại sao
chúng ta đang liên hệ tới những khía cạnh khác nhau của sự quan phòng thần linh
trong nhiệm cục sáng tạo và cứu độ. Vì thế , chúng ta hãy dành thời gian để suy
tư về chân lý vĩnh cửu mãi mãi tồn tại ấy. Đây là sự khôn ngoan siêu việt mà
Thiên Chúa yêu thương con người và mời gọi con người tham dự vào trong kế hoạch
cứu độ của Ngài. Con người được mời gọi nhận ra sự săn sóc ân cần của Thiên
Chúa và hợp tác với ơn cứu độ của Ngài.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
22-6
Chúa
Nhật XII Thường Niên
Mình
Và Máu Thánh Chúa Kitô
Đnl
8, 2-3.14b-16a; 1Cr 10, 16-17; Ga 6, 51-58.
LỜI
SUY NIỆM: “Tôi là Bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống
muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được
sống.”
Với
tình yêu của Chúa Giêsu, Người đã nhập thể vào thế gian và đã tự hiến mình cho
thế gian, nhưng Người còn muốn hơn thế nữa, Người muốn nhập thể trong từng con
người một đang sống trong trần gian này, để đem lại cho con người sự sống vĩnh
cửu.
Lạy
Chúa Giêsu, Chính Chúa vì yêu thương chúng con, Chúa muốn cứu chúng con, Chúa
muốn chúng con nên một với Chúa, như Chúa nên một với Chúa Cha. Xin cho mọi
thành viên trong gia đình chúng con luôn chuẩn bị tâm hồn và thân xác với ước
nguyện được rước Chúa vào lòng mỗi khi tham dự Thánh lễ.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
22-06: Thánh GIOAN FISHER
Giám
Mục (1469 - 1535)
Thánh
Gioan Fisher sinh tại Beverly, Yorkshire là con của một thương gia giàu có. Cha
Ngài đã qua đời năm 1477. Khoảng năm 1482, Ngài được Mẹ gởi tới đại học
Cambriage và đã trở thành một học giả nổi danh. Năm 1941, Ngài thụ phong linh mục.
Sau mười năm học thần học. Năm 1501, và sau này Ngài được coi như một trong các
nhà thần học hàng đầu của Âu Châu.
Đại
học sớm nhận ra khả năng quản trị của Ngài, lần lượt Ngài đã giữ chức vụ giám
thị, phó chưởng ấn, rồi chưởng ấn. Năm 1514, Ngài được chọn làm chưởng ấn suốt
đời.
Ngài
được đặt làm giám mục Rochester năm 1504 và Ngài đã là một mục tử chân chính,
lo khích lệ các linh mục bằng sự quan tâm tới cuộc sống của các Ngài. Là một
nhà giảng thuyết thời danh, Ngài làm hết sức để có thể cung ứng cho Giáo hội
các linh mục đầy đủ khả năng giảng dạy dân chúng.
Do
ảnh hưởng của Ngài mà Erasnius được đưa vào giảng dạy tiếng Hy lạp ở đại học
Cambrige Erasmus. Tôma More cũng đã trở thành bạn thân của Gioan Fisher. Năm
1516, có bản văn ghi chép về cả ba nhân vật này ở Rochester.
Ngài
Tôma More làm Tổng quản lý đại học Cambrige. Từ năm 1525 đến những năm sau đó
Tôma và Gioan Fisher hợp tác với nhau để đáp ứng người chống lại lạc thuyết của
Lutherô. Đức giám mục Gioan Fisher đã viết cuốn Confutatio (1523) bằng tiếng
Latinh. Đó là cuốn sách của thần học gia viết cho các thần học gia. Người tín hữu
(More) viết cuốn Dialogue concerning Heresies (1528) cho giới bình dân.
Năm
1527, năm định mệnh cho nước Anh vì là lúc, Henri VIII đi bước đầu, tới việc
tiêu hủy hôn nhân của ông với Catarina miền Atagon. Năm 1501 bà thành hôn với
Arthur, anh của vua. Nhưng được sáu tháng thì Athur từ trần. Năm 1509, đức Giáo
hoàng cho phép vua được thành hôn với người vợ goá của anh mình. Về sau, vì
không có con trai để nối dõi, ông tìm cách phá hủy hôn nhân này vịn cớ là phép
chuẩn của Đức Giáo hòang không thành. Đức Hồng y Wolsey hỏi ý kiến Đức cha
Gioan Fisher. Sau khi nghiên cứu đầy đủ đức giám mục kết luận là phép chuẩn của
Đức Giáo hoàng thành. Ngài giữ vững lập trường này mãi. Henry coi sự chống đối
này là như một hành vi bội phản.
Năm
1534 có luật thừa kế. Luật này tuyên bố rằng hôn phối với Catatina là vô hiệu
và hôn nhân với Anna Boleyn là hợp pháp. Quyền kế vị thuộc về con bà ta. Mọi
người phải thề nhận trọn đạo luật này. Đức giám mục Gioan Fisher từ chối. Tôma
More cũng vậy, bởi vì đạo luật bao hàm việc coi phép chuẩn của đức giáo hoàng
là bất thành.
Ngày
17 tháng 4 năm 1534, đức giám mục Gioan Fisher và Sir Tômas More bị xử tại
Tower và bị giam biệt ra. Ngày 20 tháng 5 năm 1535 đức giám mục Gioan Fisher được
phong làm hồng y . Điều này làm nhà vua giận dữ và vội vã lập toà án chống lại
đức tân hồng y.
Ngày
17 tháng 4 năm 1535, Ngài bị xử là bội phản. Ngày 17 tháng 6 năm 1535, Ngài bị
xử là bôi phản. Ngày 22, Ngài bị chém đầu, thân xác trần trụi của Ngài bi bỏ lại
pháp trường cho đến khi được chôn cất vội vã không một nghi thức tang lễ trang
Hallows. Đầu Ngài bị treo ở Lôndôn Bridge cho tới ngày 6 tháng 7 rồi bị ném xuống
sông Thames ... nhường chỗ cho đầu bạn Ngài là Tomas More.
Ngày
22-06: Thánh TOMA MORE
(1478
- 1535)
Thánh
Toma More sinh tại Luân Đôn ngày 06 tháng 2 năm 1478 trong một gia đình mà
chính Ngài đã nói: "Không danh giá nhưng lại lương thiện". Lên 12 tuổi,
Ngài giúp việc Đức Hồng Y Morton tổng giám mục giáo phận Canterbury. Hai
nămsau, Ngài được gởi học tại Ozford. Để cho Ngài chăm chú học hành, cha Ngài
đã giới hạn việc cung cấp tiền bạc đến nỗi Ngài không có tiền để sửa đổi giày.
Vào tuổi 15, Ngài bỏ Ozford tới Luân Đôn.
Ba
năm sau, tức năm 1493, Ngài gặp Eramus trong khi ông thăm viếng nước Anh lần đầu
tiên. Vừa học, vừa trắc nghiệm ơn kêu gọi tu trì trong bốn năm sống tại Luân
Đôn.
Cuối
cùng More quyết định rằng: Ngài không có ơn gọi sống bậc tu trì. Ngài bước vào
hôn nhân một cách đặc biệt, Ngài chọn cô em gái thứ xinh đẹp và dễ thương.
Nhưng rồi thấy rằng người chị sẽ đau khổ và xấu hổ nếu cô em lập gia đình trước.
Vì thế Ngài cưới cô chị. Họ sống với nhau được 4 năm thì bà vợ qua đời. Một năm
sau Tôma More tái hôn với người khác mà không có con. Người vợ mới hay nóng giận,
nhưng gia đình thật êm thắm.
Ba
người con gái cũng như người con trai của Ngài đều được giáo dục rất cẩn thận.
"Trong gia đình này không có ai làm biếng cả..."
Thực
tế các cô con gái Ngài thông minh đến nỗi được mời tới trước mặt vua để tranh
luận về triết học. Bầu khí gia đình hạnh phúc còn là nơi tụ tập của nhiều loại
người, từ những người yếu đau già cả tới những kẻ thông thái. Erasmus cũng là một
người bạn thân của gia đình này. Lần kia, khi được tin kho lúa bị thiêu rụi
Tôma có viết thư cho vợ: "Có lẽ chúng ta có lý do để cảm tạ Chúa vì sự mất
mát này hơn là về những cái chúng ta tích lũy được".
Và
Ngài cũng lo lắng cho hàng xóm.- "Anh không muốn còn đầy muỗm nếu một
trong số họ chịu thiệt thòi vì tai nạn xảy đến cho chúng ta".
Toma
More cũng viết cuốn Utophia, nói về một hòn đảo hạnh phúc đầy tưởng tượng. Ngài
cũng viết cuốn "Dialogue concerning Heresies" (Đối thoại về các lạc
thuyết). Danh tiếng của Ngài như một luật sư đã lôi kéo được sự chú ý của vua
Henry III. Vua thúc ép Ngài phục vụ triều đình. More bằng lòng và trở nên giàu
có. Được phong làm hiệp sĩ và năm 1523 được đặt làm phát ngôn viên của thư viện
thứ dân.
Tuy
nhiên năm 1527, nhà vua muốn chấm dứt đời sống hôn nhân với hoàng hậu Catarina
và cưới Anna Boleyn. Toma More trách cứ nhà vua và bị thải hồi. Một ngày kia bá
tước Norfolk thấy rằng: Ngài sẽ bị nguy hiểm nếu chống lại nhà vua. Nhưng bình
tĩnh Ngài trả lời: - Thưa Đức ông, tất cả có thể thôi sao ? Thực sự có điều này
khác biệt giữa Ngài và tôi là: Hôm nay tôi chết, nhưng Ngài cũng sẽ chết ngày
mai.
Ngày
12 tháng 4 năm 1534, Toma More được mời để tuyên thệ nhận Anna More Boleyn và từ
bỏ uy quyền của đức giáo hoàng, Ngài từ khước. 14 tháng tù ở là những ngày
tháng cầu nguyện chẳng khác gì nơi tu viện. Trước toà án Ngài nói: - Vương quốc
Anh không thể bất phục tòa thánh như một người con không thể bất phục cha mình.
Khi
nghe tuyên án tử hình Ngài nói: - Thánh Phaolô đồng loã với cái chết của
Stêphanô lại chẳng hợp nhất với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu sao ? Vậy, tôi sẽ
cầu nguyện tha thiết cho các lãnh Chúa đã kết án tôi, để ít ra chúng ta sẽ gặp
nhau trên trời sau này. Tôi cũng cầu xin Chúa toàn năng bảo vệ đức tin và gởi tới
cho Ngài một lời khuyên tốt đẹp.
Bình
thản, Ngài lên đường tới pháp trường, khi bước lên đoạn đầu đài, Ngài còn khôi
hài nói: - Lúc xuống, chỉ mình tôi thủ lợi.
Ngài
ôm người đao phủ và bảo: - Can đảm lên đừng sợ. Cổ tôi ngắn quá hãy cẩn thận vì
danh dự của anh ở đó.
Tự
bịt mắt, Ngài nằm lên đoạn đầu đài, vén râu lên Ngài nói: - Nó không phạm tội
phản bội. Thánh Toma More đã chịu chết như vậy ngày 6 tháng 7 năm 1535 với tất
cả trịnh trọng, vui tươi và đơn thành.
Ngày
22-06: Thánh PAULINÔ NÔLANÔ
(355
- 431)
Thánh
Paulinô sinh tại Bordeax khoảng năm 355. Cha Ngài là một pháp quan. Ngài được
thụ huấn với nhà hùng biện và thi sĩ Ausônô. Ngài được thừa hưởng rất nhiều đất
đai ở Gaule và Italia. Năm 378, Ngài trở nên danh tiếng trước pháp đình và được
đặt làm chánh án. Khi sang Tây Ban Nha thăm các lãnh địa của gia đình Ngài kết
hôn với Therasia, một thiếu nữ Tây Ban Nha và được hưởng thêm nhiều đất đai như
của hồi môn. Khoảng năm 389, Ngài lãnh phép rửa tội ở Bordeauz và bắt đầu một
cuộc đổi mới. Trước sự chán nản của Ausôniô và cơn thịnh nộ của gia đình, Ngài
và vợ cũng không ngần ngại sống tiết độ: lần lượt bán đất đai và phân phát lợi
nhuận cho dân nghèo. Chính Ngài chỉ mặc áo quần nghèo khó và ăn chay kham khổ.
Một
biến cố đau lòng dẫn Ngài tới sự thánh thiện lớn lao hơn đó là cái chết của đứa
con trai Ngài, Paulinô và Therasia toàn hiến cho Thiên Chúa. Họ giải phóng nô lệ,
bán hết của cải và phân phát cho người nghèo. Còn Paulinô từ giã nghị trường và
năm 394 hay là 395 chịu chức linh mục tại Barcelôna. Nhưng vì được kính phục ở
Tây Ban Nha, nên ít lâu s au, Ngài đã ẩn mình sang Nôla miền nam nước Ý. Còn một
ít đất đai ở đây, Ngài bán để xây một thánh đường dâng kính thánh Fêlixita.
Cuộc
sống khắc khổ của Ngài bị chê cười. Thánh Anmbrôsiô ghi nhận: - "Có nhiều
người theo thị hiếu của họ đã không ngạc nhiên gì khi chịu những thay đổi rất kỳ
dị. Vậy mà khi có một Kitô hữu quan tâm tới sự trọn lành mà thay đổi thói quen
của mình thì họ la lối giận dữ".
Thánh
Paulinô thường nói: - Phật lòng người để được lòng Chúa quả là một cuộc chạm
trán hồng phúc.
Thánh
Augustuinô cũng viết vào thời này: - Hãy đến Campania xem con người dòng dõi
quý quyền tài ba và giầu có; hãy xem lòng đại độ mà người tôi tớ Chúa Kitô đã tự
thoát để chiếm hữu Thiên Chúa. Hãy xem Ngài đã từ khước sự kiêu hãnh để ôm ấp sự
khiêm tốn của thập giá thế nào.
Để
trả lời những người thán phục đời nghèo khó tự nguyện của mình, thánh Paulinô
viết:
- "Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu rỗi đời đời bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc đổi đất lấy trời.
- "Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu rỗi đời đời bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc đổi đất lấy trời.
Ngài
kêu gọi mọi người rộng tay bố thí: - "Sự nghèo khó của anh em bạn là một vốn
liếng cho bạn, nếu bạn lo lắng chi người nghèo khó túng thiếu.
Và
Ngài giải thích thêm: - Một người phải qua sông sẽ bơi tới bờ bên kia nếu biết
rũ bỏ áo quần và dùng mọi năng lực để chống lại dòng nước chảy.
Dầu
vậy còn phải biết tự chế nữa: - Hy sinh bề ngoài chẳng đáng kể. Hy sinh mà Chúa
đòi chính là sự hy sinh trong lòng .
Thán
phục, nhiều người muốn bắt chước thánh nhân. Nhà Paulinô trở thành một tu viện.
Ngài viết một cách đầy thú vị: - Chúng tôi tiến tới một đời sống tốt đẹp hơn và
khi lột bỏ gánh nặng trần gian, chúng tôi thấy như được gieo vào lòng một cái gì
thần linh và được mọc cánh như các thiên thần.
Năm
409, Paulinô được đặt làm giám mục Nôla. Cuộc xâm lược của người Goth gieo kinh
hoàng cho nước Ý. Họ cướp phá Rôma và bây giờ tàn phá Nola. Thánh Paulinô lấy
tiền của Giáo hội để mua chuộc các tù nhân, nâng đỡ những người bất hạnh. Rơi
vào hoàn cảnh khốn cùng, Ngài chỉ còn biết cầu nguyện: - Lạy Chúa, xin đừng để
con bị dày vò bởi tiền bạc vì chưa biết rõ của cải con hiện ở đâu.
Thánh
Gregoriô Cả còn gán cho thánh nhân một hành vi bác ái đầy quả cảm là bán mình để
chuộc lại đứa con bị tù đày của một bà góa. Nhưng có lẽ Ngài đã lầm với Đức
Paulinô III, giám mục Nôla thời chinh phục của người Vandales.
Cái
chết năm 431 của thánh Paulinô được nhân chứng Uraniô kể lại. Từ giường chết,
Ngài đã cử hành thánh lễ với hai giám mục đến thăm. 32 bài thơ và 51 lá thư của
Ngài vẫn còn tới ngày hôm nay.
(daminhvn.net)
22
Tháng Sáu
Romeo Và Juliet
Một
trong các vở tuồng bất hủ trên sân khấu kịch nghệ quốc tế phải kể là vở kịch
mang tựa đề "Romeo và Juliet" của nhà văn hào trứ danh người Anh, ông
William Shakespeare. Vở kịch này được sáng tác vào năm 1595, nhưng mãi cho đến
nay, khi vở kịch được phổ nhạc, được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn, khán giả vẫn
nối đuôi nhau chờ mua vé để vào theo dõi một câu chuyện tình cảm động giữa hai
thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, nhưng đường tình duyên bị trắc trở không
thể tiến đến hôn nhân, vì chàng và nàng thuộc về hai gia đình có mối thù truyền
kiếp với nhau trong bối cảnh xã hội mang nặng đầu óc nuôi oán, báo thù tại
Italia thời trung cổ.
Sau
khi nàng Juliet đem câu chuyện tình ngang trái tỏ lộ cùng một vị linh mục và
cho ngài biết ý định sẽ cùng với Romeo thoát ly gia đình để tìm đến một phương
trời xa lạ xây tổ uyên ương, vị linh mục đề nghị nàng dùng phương thế uống một
thứ thuốc mê để giả chết. Sau đó ngài sẽ cứu sống nàng và giao cho Romeo đem
nàng đi. Kế hoạch này được giữ bí mật đến nỗi chính chàng Romeo cũng không hay
biết. Khi thấy người yêu đã vì mình dùng độc dược quyên sinh, chàng Romeo cũng
dùng gươm tự sát để đáp lại mối tình tuyệt vọng của người yêu. Khi thuốc mê đã
hết hiệu nghiệm, nàng Juliet tỉnh dậy thấy người yêu đang thoi thóp bên vũng máu
đào: tình yêu kêu gọi tình yêu, nàng cũng dùng gươm lết liễu phận bạc để cùng
chết với chàng.
Hình
như những câu chuyện tình thương tâm trong tuồng kịch hay tiểu thuyết nào cũng
kết thúc bằng trắc trở, chia ly, chết chóc. Dù bi ai, nhưng các câu chuyện ấy
cũng nói lên một phần nào sự thật. Ðó có lẽ là lý do tại sao trong các thiệp hồng
báo tin hôn lễ, các đôi trai gái tính chuyện trăm năm thường chọn và cho in
câu: "Tình yêu mạnh hơn sự chết".
Trong
các cuộc giao tế thường ngày giữa người với người hoặc trong mối quan hệ láng
giềng, bạn bè, kể cả cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình hay giữa tình
thân, vợ chồng, chúng ta cần có những dấu chỉ biểu lộ ra bên ngoài để diễn tả
tâm tình yêu mến chất chứa bên trong: Từ những dấu chỉ đơn sơ, thi vị "yêu
nhau cởi áo cho nhau" đến chỗ hy sinh cả cuộc đời tận tụy, làm lụng vất vả,
gánh chịu những nhọc nhằn, chịu đựng tha thứ cho nhau "Một câu nhịn, chín
câu lành" đối với những người thân thương trong gia đình.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét