22/08/2014
Thứ Sáu sau Chúa Nhật
20 Quanh Năm
Đức Maria Nữ Vương. Lễ nhớ.
* Vì cả thân xác cũng đã được biến đổi,
Đức Maria trong vinh quang mông triệu đã trở nên thành công tối hậu của công
trình cứu chuộc. Nhưng Đức Maria vô cùng diễm lệ đồng thời cũng rất quyền thế
bởi vì Người là Thánh Mẫu của Đấng mà “triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
Chính vì thế, từ bao thế kỷ, các tín hữu đã kính chào Mẹ là Đức Nữ Vương, Đấng
Trung Gian tối cao của ân sủng.
Đức Maria Nữ Vương
Việc tôn sùng Trái Tim Vẹn Sạch Ðức Mẹ đã có từ lâu đời. Ðến
thế kỷ XIX, Ðức Piô VII đã công khai cho phép một số địa phận được đặc biệt
mừng kính lễ này. Ðến thời Ðức Piô IX, ngài đã thiết lập một lời nguyện và một
lễ kính riêng biệt. Ðức Piô XII rất ước mong được mừng trọng thể trong toàn
Giáo Hội. Năm 1942, giữa lúc thế giới đang tràn ngập trong khói lửa binh đao,
chính Ðức Piô XII đã long trọng dâng cả nhân loại cho Trái Tim Vẹn Sạch Ðức Mẹ.
Hai năm sau (1944), ngài buộc mừng kính trọng thể trong toàn Giáo Hội.
"Thân lạy Nữ Vương, Lạy Mẹ từ bi, Mẹ là sự sống, sự ngọt
ngào và hy vọng của chúng con". Từ lâu, lời chúc tụng ấy đã nhẹ lan trên
làn môi các tín hữu khi màn đêm buông xuống. Vào thời trung cổ, người ta thường
hiểu Nữ Vương là một người quyền thế: như Esther đã cứu dân chúng khỏi họa diệt
vong, nữ vương đã giữ tất cả mọi quyền hành bên Ðức Vua và là Ðấng bầu cử linh
thiêng nhất. Ở thế kỷ XX, những lời hát khen ấy hướng về vẻ đẹp diệu kỳ và sự
thành công mỹ mãn của cuộc sống. Mẹ Maria vừa đẹp đẽ vừa uy quyền. Mẹ là sự
thành công của ơn cứu độ, là hoa trái tốt đẹp nhất của cây Thánh Giá: "Một
người người nữ đầu đội thiên triều kết bằng những vì sao, rạng ngời như dấu
hiệu đảm bảo niềm hy vọng và sự an ủi cho toàn dân Chúa trong cuộc lữ
hành". Mẹ là Esther mới: Mẹ của Con Thiên Chúa, của vua hòa bình và vương
quốc sẽ muôn đời thống trị. Mẹ đứng bên cạnh Chúa để ban cho những người con
yêu dấu ánh vinh quang mà Chúa đã phán hứa.
BÀI
ĐỌC I: Is 9, 2-4. 6-7 (Hl 1-6)
"Chúa
ban Con của Người cho chúng ta".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Dân
tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên
trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại,
há chẳng làm vĩ đại niềm vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng
vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm,
khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người nó, cái gông
nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra,
như trong ngày chiến thắng Mađian. [Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến
thắng, mọi chiếc áo nhuộm đẫm máu đào, sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa.]
Bởi
lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi, và một người con đã được ban tặng
chúng tôi. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người
là "Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua
Thái Bình".
Người
sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai
vàng của Đavít và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự
công minh chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của
Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó. Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 112, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8
Đáp:
Nguyện danh Chúa được chúc tụng, từ bây giờ và cho đến muôn đời (c. 2).
Xướng:
1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa.
Nguyện danh Chúa được chúc tụng, từ bây giờ và cho đến muôn đời. - Đáp.
2)
Từ mặt trời mọc lên tới khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen.
Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời là vinh quang của
Chúa. - Đáp.
3)
Ai được như Thiên Chúa chúng tôi, Người ngự trên nơi cao thẳm, và Người để mắt
nhìn coi, khắp cả trên trời dưới đất?- Đáp.
4)
Người nâng cao kẻ túng thiếu từ chỗ bụi tro, và cất nhắc bạn cơ bần từ nơi phẩn
thổ, hầu cho họ ngồi với những bậc quân vương, với những bậc quân vương của dân
Người. - Đáp.
ALLELUIA:
Alleluia,
alleluia! - Kính chào Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc
phúc giữa các người phụ nữ. - Alleluia.
PHÚC
ÂM: Lc 1, 26-38
"Này
Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một Con trai".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét,
đến với một Trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ
Đavít, Trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà Trinh nữ và chào rằng:
"Kính
chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ
nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần
liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai,
sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là
Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người
sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận". Nhưng
Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết
đến người nam?"
Thiên
thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao
trùm Bà. Vì thế, Đấng Bà sinh ra sẽ là Đấng Thánh, và đưọc gọi là Con Thiên
Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và
nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có
việc gì mà Chúa không làm được".
Maria
liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền".
Và thiên thần cáo biệt Bà. Đó là lời Chúa.
Hoặc:
Lc 1, 39-47
"Phúc
cho Bà là kẻ đã tin".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày
ấy, Maria chỗi dậy, vội vả ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà
vào nhà ông Giacaria và chào bà Êlisabeth. Và khi bà Êlisabeth nghe lời chào của
Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Êlisabeth được đầy Chúa Thánh
Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ và
con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì
này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc
cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Bà
Maria nói rằng: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ
trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi". Đó là lời Chúa.
Suy niệm : Trinh Nữ Vương
Hiện
nay, tại một số ít quốc gia trên thế giới như Anh Quốc, Hòa Lan, Thụy Ðiển,
Thái Lan, chức nữ hoàng và quốc vương vẫn còn tồn tại, nhưng họ chỉ đóng vai
trò tượng trưng, chứ không có thực quyền.
Giữa
trào lưu có sự thay đổi quan trọng này trong hình thức chính trị và trong đời sống
xã hội, những câu kinh: "Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con được
sống, được vui, được cậy..." lượt dịch bài bình ca bất hủ bằng tiếng La
Tinh: "Salve Regina..." vẫn còn được bao cửa miệng và tâm hồn dâng
lên Mẹ Maria, diễn tả tấm lòng tôn kính, mến yêu của đoàn con cái đối với mẹ
không mảy may bị lạnh nhạt, mặc cho thế sự đổi thay.
Trong
tông huấn mang tựa đề: "Lòmg sùng kính Ðức Mẹ Maria", Ðức cố Giáo
Hoàng Phaolô VI đã định nghĩa về Ðức Maria Trinh Nữ Vương mà Giáo Hội mừng kính
hôm nay đại khái như sau: "Lễ này là tiếp diễn lễ Ðức Mẹ Hồn Xác lên trời.
Thực vậy, vào lễ Ðức Mẹ Hồn Xác lên trời, chúng ta say đắm và hân hoan mừng
kính Mẹ Maria như là hoa quả đầu mùa của công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu, đã
chiến thắng hai kẻ thù của nhân loại, đó là: tội lỗi và sự chết. Hôm nay, trong
lễ Ðức Maria Trinh Nữ Vương, chúng ta chiêm ngắm Ðức Mẹ bên cạnh Vua Cao Cả trời
đất, như là Nữ Vương và là người bầu cử cho chúng ta như một người mẹ nhân hiền".
Lời
giải thích của Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI trên đây giúp chúng ta hiểu đúng vai
trò của Mẹ Maria theo tinh thần của cộng đồng Vatican II. Ðó là liên kết vai
trò của Ðức Trinh Nữ Maria với Chúa Giêsu và công cuộc cứu rỗi của Ngài.
Theo
dòng trào lưu đổi thay của quan niệm về tự do, dân chủ, vai trò Nữ Vương của Mẹ
Maria vẫn đứng vững trong tâm trí và con tim của trăm triệu con cái Mẹ, vì Mẹ
ngự bên cạnh Chúa Giêsu Vua. Một vị vua dùng thập giá làm ngai vàng, mão gai
làm triều thiên và muôn thuở cạnh sườn ngài bị đâm thủng, để nguồn suối của
tình yêu Thiên Chúa luôn chảy tràn, giải lao cho nhân loại đang khao khát tình
yêu chân thật, làm động lực để biến xã hội loài người thành Nước Trời, với Chúa
Giêsu là Vua. Mẹ Maria đứng cạnh ngai vàng thập giá, trái tim bị gươm đâm thâu,
để dòng máu tình yêu của Mẹ hòa chảy, hầu đồng lao cộng khổ và đồng thống trị với
con Mẹ trong Nước Trời.
(Trích
trong ‘Lẽ Sống’ của R. Veritas)
SUY
NIỆM 2: Tôi là nữ tì của Chúa
Maria,
một thôn nữ của ngôi làng Nadarét nhỏ bé thuộc vùng Galilê.
Cô
đã đính hôn, và cứ sự thường, Cô sẽ kết hôn với ông Giuse.
Cuộc
sống của Cô bề ngoài chẳng có gì khác thường.
Nhưng
bên trong, Cô là một kiệt tác của Thiên Chúa.
Đơn
giản vì Cô được tuyển chọn giữa mọi phụ nữ trên địa cầu
để
trở nên Mẹ của Con Thiên Chúa, Mẹ của chính Ngôi Lời nhập thể.
Thiên
Chúa đã làm những điều tốt đẹp nhất cho Cô
để
Cô xứng đáng với đặc ân mà chẳng ai dám nghĩ tới.
Thiên
Chúa muốn Con Một của Ngài làm người trăm phần trăm,
nên
Ngài cần một người mẹ trần thế cho Người Con ấy.
Maria
được chọn và được chuẩn bị hết sức chu đáo cho trọng trách này.
Nhưng
Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyết định của Cô.
Maria
có chấp nhận cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa không?
Một
Thiên Chúa tôn trọng tự do là một Thiên Chúa biết mời gọi, hỏi ý.
Thiên
Chúa cần sự gật đầu ưng thuận của một cô thiếu nữ xứ Paléttin
để
Con của Ngài được làm người ở trên trái đất.
Thiên
Chúa khiêm tốn không muốn đặt Cô trước sự đã rồi.
Ngài
muốn Con của Ngài được Cô đón nhận vào cả hồn lẫn xác.
Bài
Tin Mừng hôm nay kể chuyện sứ thần Gabrien truyền tin cho Maria.
Đúng
hơn đây là chuyện Thiên Chúa siêu việt hỏi ý một thụ tạo nhỏ bé.
Lời
chào của sứ thần làm Cô rất bối rối, không hiểu và sợ hãi (cc. 29-30).
Maria
được chào là Đấng đầy ân sủng,
nghĩa
là người được Thiên Chúa đặc biệt mến yêu.
Ngài
vẫn luôn ở cùng Cô ngay từ khi Cô còn trong lòng mẹ.
Sứ
thần báo tin Cô sẽ thụ thai một con trai.
Người
Con này là Con Đấng Tối Cao, là Vị Vua thuộc dòng Đavít (c. 33).
Hẳn
Maria biết ngay là mình được mời gọi làm Mẹ Đấng Mêsia,
một
danh dự mà bao thiếu nữ Do thái mong đợi.
Nhưng
Maria vẫn chưa hiểu làm sao Cô có thể thụ thai
khi
Cô chưa làm lễ thành hôn và về chung sống với chồng (c. 34).
Sứ
thần cho biết việc Cô thụ thai là chuyện độc nhất vô nhị.
Cô
có con là vì “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Cô
và
quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên Cô” (c. 35).
Người
chồng tương lai của Cô không dự phần vào việc thụ thai này.
Con
của Cô sẽ được gọi là Con Thiên Chúa theo nghĩa viên mãn nhất.
Maria
đã nói tiếng Xin Vâng với đề nghị của Thiên Chúa (c. 38).
Cô
đã thụ thai từ khi nói tiếng Xin Vâng đầy tín thác ấy.
Ngôi
Hai Thiên Chúa đã hiện diện trong lòng Cô, trong đời Cô.
Chúng
ta cũng được Thiên Chúa mời gọi và hỏi ý như Maria xưa.
Ngài
cũng cần từng người chúng ta để cứu độ cả nhân loại.
Nếu
chúng ta chịu cưu mang Đức Giêsu, sinh hạ và làm cho Ngài lớn lên,
thì
chúng ta được chia sẻ chức làm mẹ của Mẹ Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy
Mẹ Maria,
khi
đọc Phúc Âm,
lúc
nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ
đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ
đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ
tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ
đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và
cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ
lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm
thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ
con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng
con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong
mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng
phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có
những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin
Mẹ dạy chúng con
đừng
sợ lên đường mỗi ngày,
đừng
sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù
phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin
giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để
chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa
con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Lm Nguyễn Cao Siêu
Bài
Ðọc I: (Năm II) Ed 37, 1-14
"Hỡi
các bộ xương khô, hãy nghe lời Chúa. Ta sẽ dẫn các ngươi ra khỏi mồ, và dẫn dắt
các ngươi vào nhà Israel".
Trích
sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong
những ngày ấy, tay Chúa đặt trên tôi, và dẫn tôi đi trong thần trí của Chúa:
Người để tôi giữa cánh đồng đầy hài cốt; Người đem tôi đi vòng quanh những hài
cốt ấy, có rất nhiều bộ xương khô nằm la liệt trên cánh đồng. Và Chúa phán cùng
tôi rằng: "Hỡi con người, ngươi nghĩ các xương này sẽ có thể được sống
chăng?" Tôi thưa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa đã biết". Người
liền phán cùng tôi: "Ngươi hãy nói tiên tri về các bộ xương này, và bảo
chúng rằng: 'Hỡi các bộ xương khô, hãy nghe lời Chúa. Chúa là Thiên Chúa phán
cùng các bộ xương như thế này: Ðây Ta sẽ khiến hồn nhập vào các ngươi và các
ngươi sẽ được sống. Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc ra trên các
ngươi, và cho da bọc các ngươi: Ta sẽ ban hồn cho các ngươi, các ngươi sẽ được
sống và biết rằng Ta là Chúa' ". Tôi đã nói tiên tri như Chúa đã truyền
cho tôi.
Ðang
lúc tôi nói tiên tri, thì có tiếng ồn ào, và tôi thấy chuyển động: các bộ xương
họp lại với nhau, xương ăn khớp với nhau. Tôi quan sát, và này đây, gân và thịt
mọc trên các bộ xương: có da bọc lại, nhưng chưa có hồn. Và Chúa phán cùng tôi
rằng: "Ngươi hãy nói tiên tri về hồn, hỡi con người, hãy nói tiên tri và bảo
hồn rằng: 'Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Hỡi hồn, hãy từ bốn phương tiến
đến', và thổi hơi trên những kẻ bị giết này, để chúng sống lại". Tôi đã
nói tiên tri như Chúa đã truyền cho tôi. Hồn liền nhập vào chúng và chúng được
sống. Chúng đứng thẳng lên làm thành một đạo quân cực kỳ đông đảo.
Và
Chúa phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, các bộ xương này là toàn thể nhà
Israel. Chúng nói rằng: 'Xương chúng tôi đã khô đét, chúng tôi mất hết hy vọng,
chúng tôi đã bị tiêu diệt'. Bởi đó, ngươi hãy nói tiên tri cho chúng rằng:
'Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Hỡi dân Ta, này Ta sẽ mở các cửa mồ các
ngươi, Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi mồ, và dẫn dắt các ngươi vào đất Israel. Hỡi
dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các
ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống;
Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, các ngươi biết rằng: Ta là Chúa,
chính Ta đã phán và sẽ thi hành' ".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 106, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Hãy chúc tụng
Chúa, vì đức từ bi Người còn muôn thuở (c. 1).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hãy xướng lên, hỡi những người được Chúa thục mạng cho, những người Chúa đã
thục mạng khỏi tay quân thù: những người Chúa đã họp lại từ muôn đất nước; từ
đông sang tây và từ bắc chí nam. - Ðáp.
2)
Xưa họ lạc lõng trong chốn cô liêu hoang địa, không biết đường đi tới thành trì
có thể định cư. Lúc bấy giờ họ đói khát, và sinh lực trong người họ hao mòn. -
Ðáp.
3)
Họ kêu cầu cùng Chúa trong lúc khốn cùng, Người đã cứu họ thoát cảnh gian
truân. Người dẫn họ đi trên con đường thẳng, để họ tới được thành trì có thể định
cư. - Ðáp.
4)
Những người đó hãy cảm ơn Chúa vì lòng nhân hậu, và những điều kỳ diệu của Người
đối với con người ta. Bởi Người đã cho người đói khát được no đủ, người cơ hàn
được tràn trề thiện hảo. - Ðáp.
Alleluia:
Mt 11, 25
Alleluia,
alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những
mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 22, 34-40
"Ngươi
hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình
ngươi".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc
câm miệng, thì họp nhau lại. Ðoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử
Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Chúa
Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi
hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng
nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ
khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại
trong hai giới răn đó".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Giới
Răn Yêu Thương
Tuần
báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó
là "Sư máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực
thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo
nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư
máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười
giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng
cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại
Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự,
duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Yêu
thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn
là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa
tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin
Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc
mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất
là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì
không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như
không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là
nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu.
Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn
chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu
đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được
thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả
tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh
thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ
ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu
thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Ðạo. Ði Ðạo,
sống Ðạo, giữ Ðạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con
người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời
sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công
thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình
yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu
thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Ðấng nó không thấy".
Nguyện
xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt
lõi của Ðạo là Yêu Thương.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 20
TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Eze 37:1-14; Mt
22:34-40
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mến Chúa, yêu người.
“Mến
Chúa, yêu người” là hai giới răn quan trọng nhất và là nền tảng của Đạo. Vì vi
phạm hai giới răn này mà người Do-thái đã bị lưu đày xa quê hương; nhưng cũng
chính vì hai giới răn này như thần khí đã giúp họ có cơ hội trở về dựng lại Đền
Thờ và quê hương của họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Thị kiến những bộ xương khô.
Điều
đầu tiên chúng ta cần nhấn mạnh: thị kiến này có ý nói tới ngày giải phóng của
những người Do-thái khỏi cảnh nô lệ lưu đày, và được trở về để tái thiết lại Đền
Thờ và quê hương. Sau này, nhiều nhà chú giải áp dụng thị kiến vào thời Cánh
Chung khi Thiên Chúa sẽ làm cho tất cả các kẻ chết được sống lại trước khi phán
xét họ.
Không
điều gì là không thể đối với Đức Chúa: Sống trong cảnh lưu đày, người Do-thái hầu
như ngã lòng trông cậy, mất hết tin tưởng ở tương lai. Họ nghĩ là sẽ không bao
giờ có ngày hồi hương vì Thiên Chúa đã bỏ quên họ. Qua những gì tiên tri thấy
được hôm nay, Thiên Chúa sẽ cho dân có ngày về. Những người Do-thái nơi lưu đày
được ví như những bộ xương khô, đã chết cả về phần xác (khổ cực vì lưu đày) lẫn
phần hồn (không còn hy vọng gì để sống). Khi Thiên Chúa hỏi tiên tri: "Hỡi
con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?" Tiên tri vững tin
Thiên Chúa uy quyền làm chuyện đó nên ông thưa: "Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng,
chính Ngài mới biết điều đó."
Chúa
muốn dùng con người làm những chuyện ấy nên Ngài nói với ông: "Ngươi hãy
tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy
nghe lời Đức Chúa. Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ
được sống. Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ
trải da bọc lấy các ngươi. Ta sẽ đặt thần khí vào trong các ngươi và các ngươi
sẽ được sống. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa." Tôi
đã tuyên sấm như tôi được lệnh. Vậy có tiếng động khi tôi đang tuyên sấm; có sự
rung chuyển và các xương xích lại gần, ăn khớp với nhau. Tôi nhìn thì thấy trên
chúng đã có gân; thịt đã mọc lên và da đã trải ra ở bên trên, nhưng thần khí
chưa có ở nơi chúng.
Giống
như biến cố Chúa dựng nên con người trong Sách Khởi Nguyên: sau khi Chúa lấy
bùn đất tạo nên con người, Chúa thổi sinh khí và làm cho con người trở nên sinh
vật sống động (Gen 2:7). Thị kiến Ezekiel nhìn thấy cũng vậy: tuy đã có thân thể
nhưng vẫn chưa có thần khí nên chưa “sống” được. Người lại bảo tôi: "Ngươi
hãy tuyên sấm gọi thần khí; tuyên sấm đi, hỡi con người! Ngươi hãy nói với thần
khí: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời, hỡi thần khí,
hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh." Tôi
tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết;
chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể.
Thiên
Chúa cho tiên tri biết ý nghĩa của thị kiến: Các xương đó chính là toàn thể nhà
Israel. Này chúng vẫn nói: "Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng
tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời!" Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là
Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi
dân Ta. Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi
sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ
nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm. Judah và Israel thành một
vương quốc thống nhất.
2/
Phúc Âm:
Giới răn quan trọng nhất.
Pharisees
là những người giữ cả luật thành văn và luật bất thành văn (truyền thống tổ
tiên). Nhiều người trong họ là những người thông luật (scribes). Họ có rất nhiều
luật, vì thế, họ có thể không biết đâu là điều răn quan trọng nhất. Phúc Âm
Marcô 12:28-34 cũng tường thuật biến cố này, nhưng với giọng điệu thành thật vì
muốn biết; trong khi Matthêu với giọng điệu để thử thách Chúa: Khi nghe tin Đức
Giêsu đã làm cho nhóm Sadducees phải câm miệng, thì những người Pharisees họp
nhau lại. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng:
"Thưa Thầy, trong sách Luật Moses, điều răn nào là điều răn trọng nhất?"
Câu
trả lời của Chúa Giêsu, tuy chỉ vỏn vẹn trong ba hàng, nhưng Ngài nói đã tóm tắt
tất cả Luật Moses và lời dạy của các sách Ngôn-sứ: "Ngươi phải yêu mến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là
điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống
điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật
Moses và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy."
Xem
xét cẩn thận hai điều răn này, chúng ta nhận ra những điểm sau đây: (1) Cả hai
điều răn đều dùng động từ yêu “ágapan.” Đây là cốt lõi của đạo, đạo của
Thiên Chúa là đạo yêu thương: yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân. Động từ này được
dùng cách riêng trong Tân Ước mà thôi. Phải yêu thương tha nhân bằng tình yêu của
Thiên Chúa. (2) Ba điều đầu tiên của Thập Giới liên quan đến Thiên Chúa được
Chúa Giêsu tóm gọn lại trong điều răn thứ nhất ở đây. Bảy điều sau của Thập Giới
liên quan đến tha nhân cũng được Chúa Giêsu tóm gọn lại trong giới răn thứ hai
“ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (3) Trong Cựu Ước cũng đã có 2
điều răn này: Điều răn kính mến Chúa (Deut 6:5) còn được gọi là Shema, giới luật
căn bản và quan trọng nhất của người Do-thái. Điều răn thứ hai (Lev 19:18) đòi
yêu người như chính mình. Chúa Giêsu đã nhặt ra và tổng hợp lại thành hai điều
răn quan trọng nhất của đạo.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Không có điều gì không thể đối với Thiên Chúa: Nếu Chúa đã phân tán người
Do-thái làm nô lệ khắp nơi, Ngài cũng có thể tìm cách cho họ trở về. Nếu Chúa
đã thổi sinh khí để dựng nên con người, Ngài cũng có thể thổi sinh khí làm con
người sống lại.
-
Không có điều gì là không thể đối với con người nếu chúng ta biết giữ cẩn thận
ai điều răn quan trọng Chúa truyền hôm nay; vì những gì chúng ta không thể làm
được, Chúa sẽ giúp chúng ta làm như Ngài đã giúp tiên tri Ezekiel hôm nay.
-
Có quá nhiều luật lệ làm con người lẫn lộn: không phân biệt được đâu là điều
chính đâu là điều phụ; không biết được điều gì quan trọng, điều gì không quan
trọng. Câu trả lời của Chúa Giêsu hôm nay giúp chúng ta nhận thức rõ: “Mến
Chúa, yêu người” là hai giới răn quan trọng nhất và là nền tảng của Đạo. Khi có
xung đột giữa các chọn lựa trong đời sống, hai giới răn quan trọng này sẽ giúp
chúng ta biết lựa chọn làm sao cho đúng thứ tự ưu tiên của cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM - MÙA QUANH NĂM - TUẦN 20
Thứ Sáu :
Mt 22,34-40
A. Hạt giống...
Trả lời cho một luật sĩ hỏi “Giới răn nào trọng
nhất ?”, Chúa Giêsu đưa ra hai giới răn mến Chúa và yêu người.
Đặc biệt, Ngài nói “Giới răn thứ hai cũng giống
giới răn thứ nhất”, và “Toàn thể lề luật và các sách tiên tri đều tóm lại trong
hai giới răn đó”.
B.... nẩy mầm.
1. Những luật sĩ do thái rất thuộc luật và giữ
luật rất kỹ, nhưng họ không biết đến cốt lõi của mọi khoản luật là yêu thương.
Có thể chúng ta cũng thế : hằng ngày chăm chỉ giữ luật Giáo Hội và luật cộng
đoàn, nhưng không có tình mến Chúa và yêu người. Nếu thế thì tất cả đều vô ích.
2. Có người nói yêu người khó hơn mến Chúa. Dĩ
nhiên, vì con người không dễ thương bằng Chúa. Thế nhưng Chúa Giêsu đã coi giới
răn thứ hai cũng bằng giới răn thứ nhất.
3. “Nếu ai nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại
ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em
mà họ trông thấy thì không tể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là
điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Ngài : ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu
thương anh em mình” (1 Ga 4,20-21)
4. Có một tác giả tưởng tượng câu chuyện sau :
Trên đường đi đến miền đất Chúa hứa, Abraham dựng
một cái lều để nghỉ chân. Vừa ra khỏi lều, ngài thấy một người hành khất xin
giúp đỡ. Động lòng thương, ngài mời người đó vào và làm tiệc thiết đãi. Trước
khi ăn tiệc, ngài mời người hành khất cùng dâng lời chúc tụng cảm tạ Chúa.
Nhưng vừa nghe thấy tiếng “Chúa”, người ăn mày liền nói lộng ngôn xúc phạm đến
Chúa. Abraham nổi giận đuổi người đó ra khỏi lều. Đêm đó, khi Abraham quì cầu
nguyện, ngài nghe có tiếng Chúa nói như sau : “Này Abraham, ngươi có biết người
ăn mày đó đã nhục mạ Ta 50 năm qua không ? Thế mà mỗi ngày Ta vẫn ban lương
thực cho nó. Ngươi không yêu thương cho nó một bữa ăn sao ?”.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mặc khải là một người
cha yêu thương mọi con cái, ngay cả những đứa con bất hiếu ngỗ nghịch. Đồng
thời Ngài mời gọi chúng ta hãy nên trọn lành như Cha trên trời, nghĩa là yêu
thương mọi người không loại trừ người nào. Đó là tất cả giáo huấn của Chúa
Giêsu : Ngài đến để nói với con người rằng Thiên Chúa yêu thương con người và
con người cũng hãy yêu thương nhau. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy,
là : ngươi phải yêu thương lân cận như chính mình” (Mt 22,39)
Thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu được giao phó
trông coi một chị nữ tu lớn tuổi. Chị này nổi tiếng là khó tính trong nhà dòng.
Đến giờ ăn, Têrêxa phải dìu chị đi xuống nhà ăn. Một thiếu sót nhỏ cũng đủ cho
Têrêxa bị trách móc. Chị ấy bực bội, không bằng lòng, nhưng Têrêxa vẫn luôn tỏ
ra vui tươi hồn nhiên và chịu đựng tất cả vì thánh nữ yêu mến Chúa ; và vì tình
yêu Chúa, thánh nữ yêu mến người nữ tu đáng thương này.
Tình yêu đối với Chúa phải được tỏ hiện qua dấu
hiệu bên ngoài là tình yêu đối với tha nhân. Và chúng ta phải chứng tỏ tình yêu
đối với tha nhân không những bằng lời nói nhưng còn bằng hành động, bằng sự
nhẫn nhục, tha thứ và cảm thông.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết yêu
thương tha nhân, nhất là những người thân, sống trong gia đình chúng con.
(Hosanna)
LM. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
22/08/14 THỨ SÁU TUẦN 20 TN
Đức Ma-ri-a, Trinh Nữ Vương
Lc 1,26-38
Đức Ma-ri-a, Trinh Nữ Vương
Lc 1,26-38
Suy niệm: Nhờ được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu
Thế, Đức Ma-ri-a đã được Chúa ban vô vàn ơn phúc, từ ơn vô nhiễm nguyên tội
ngay từ lúc đầu thai đến ơn hồn xác lên trời sau khi hoàn thành cuộc sống dương
thế. Thế nhưng triều thiên dành cho Mẹ trong vinh quang thiên quốc lại là danh
hiệu “Trinh Nữ Vương”, vị nữ hoàng của đức khiết tịnh, nhân đức mà Mẹ vẫn chăm
chú giữ gìn trong suốt cuộc đời mình. Quả vậy, khi được sứ thần truyền tin mình
sẽ sinh hạ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã thưa: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì
tôi khong biết đến việc vợ chồng?” Khi Mẹ “xin
vâng” như
lời sứ thần truyền, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Con Thiên Chúa đầu thai và
sinh ra từ nơi cung lòng Mẹ; điều đó không làm mất đi mà trái lại còn
thánh hiến sự khiết tịnh của Mẹ như ánh sáng xuyên thấu thuỷ tinh càng làm cho
thuỷ tinh thêm rạng rỡ (x. Hiến Chế GH 57; GLCG 499). Khi tung hô Đức Ma-ri-a
là Trinh Nữ Vương, Giáo hội tuyên xưng rằng, nơi Mẹ, đức Khiết Tịnh đã lên ngôi.
Mời Bạn: Trong
xã hội hôm nay, cuộc khủng hoảng hưởng thụ tính dục đã lôi kéo nhiều người sống
buông thả, cách riêng là những bạn trẻ. Vậy, đức khiết tịnh có còn giá trị hay
không? Nhờ mẫu gương của Mẹ, bạn nhận thức được rằng một đời sống khiết tịnh
–không chỉ dành riêng cho những người tu trì, mà còn cho cả những người sống
trong bậc gia đình– sẽ làm cho tâm hồn chúng ta triển nở, vui tươi và bình an.
Sống Lời Chúa: Kiên
quyết loại trừ mọi ý nghĩ hành vi nghịch với đức khiết tịnh trong các mối quan
hệ với tha nhân.
Cầu nguyện: Đọc kinh Kính Mừng.
Suy niệm
Đức Maria được chúc phúc
vì “đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói”.
Chính Đức Mẹ là đối tượng để Chúa Giêsu giảng dạy với đám đông: “Ai
là Mẹ tôi, ai là anh em tôi?” Đó là những người “biết lằng
nghe và thực thi lời tôi”.
Mẹ đã tin ngay khi biết
đó là đường lối của Chúa dành cho mình, dù Mẹ chẳng hiểu đường
lối đó là gì. Vì vậy đức tin không hệ tại ở việc có hiểu biết hay
không, nhưng hệ tại ở tình yêu của chúng ta dành cho đối tượng đó.
Mẹ vì yêu mến Chúa nên sẵn sàng làm tất cả những gì Chúa muốn.
Đức tin đòi hỏi Mẹ một
sự mạo hiểm vì Mẹ biết rằng mình sẽ gặp nhiêu rắc rối khi chấp
nhận mang thai Đấng Cứu Thế. Rắc rối cho chính bản thân mình khi phải
mang nặng đẻ đau. Rắc rối cho người mình đã đính hôn là Giuse. Rắc
rối cho cha mẹ và gia đình, giả dụ Giuse tố giác điều này… Nhưng Mẹ
tin chương trình của Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ lo liệu.
Đức tin đòi buộc Mẹ
phải sống đức ái. Trong khi truyền tin, thiên thần đã báo tin cho Mẹ
biết người chị họ của Mẹ là bà Isave đã mang thai trong lúc tuổi
già. Mẹ đã không quản ngại đường xá xa xôi, đến để thăm viếng và
chăm sóc cho người chị.
Đức tin đòi buộc Mẹ
phải san sẻ niềm vui: “Bà Êlisabet vừa nghe tiếng chào thì đứa
con trong bụng liền nhảy lên”. Niềm vui cưu mang Đấng Cứu Thế,
Mẹ không thể giữ riêng cho mình, nên Mẹ đã san sẻ với người cùng
cảnh ngộ của mình là bà Êlisabet.
Đức đồng trinh của Đức
Maria mà chúng ta mừng kính hôm nay trước hết là một đặc ân của Thiên
Chúa ban cho Mẹ. Kế đến còn là tình yêu của Mẹ dành trọn vẹn cho
Thiên Chúa. Chính tình yêu đó khiến Mẹ tin tưởng một cách tuyệt đối
vào những lời của Thiên Chúa phán. Cũng chính vì yêu mến nên Mẹ
muốn rập khuôn cuộc đời mình với Chúa trong tình yêu với tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp
con biết mạnh dạn dâng hiến trọn vẹn cho Chúa, đừng tiếc nuối điều
gì để tìm thỏa mãn những niềm vui riêng tư cho riêng mình trong danh
vọng, quyền lực và đam mê. Xin cho con dám chấp nhận những đau đớn,
những thiệt thòi, những hy sinh khi sống cho Chúa và tha nhân.
Lm. Thiện Duy
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22 THÁNG TÁM
Hãy Nhạy Bén Với Tiếng Nói
Lương Tâm
Chúng ta cần sự hướng dẫn và tác động của
Thánh Thần trong công cuộc phát triển xã hội. Điều này chỉ có thể xảy ra khi
chúng ta thường xuyên lắng nghe tiếng nói của lương tâm và trung thành đáp lại
tiếng nói ấy.
Giáo huấn của Công Đồng Vatican II nhắc nhở
chúng ta: “Trung thành với lương tâm, người Kitôhữu liên kết với những người
khác để tìm kiếm chân lý và giải quyết trong chân lý biết bao vấn đề luân lý được
đặt ra trong đời sống cá nhân cũng như trong giao tiếp xã hội. Bởi vậy, lương
tâm ngay thẳng càng thắng thế thì những cá nhân và cộng đoàn càng tránh được độc
đoán mù quáng và càng nỗ lực tuân phục những tiêu chuẩn khách quan của hành vi
luân lý” (MV 16).
Một cách thực tiễn, Công Đồng kêu gọi chúng
ta chú ý tới chướng ngại rắc rối nhất ngăn cản sự tiến bộ đích thực của con người
– đó là sự dữ luân lý tức tội lỗi. Do tội lỗi, “con người bị phân rẽ nơi chính
mình. Vì thế, tất cả cuộc sống của con người, hoặc riêng rẽ, hoặc tập thể, đều
biểu hiện như một cuộc chiến, dĩ nhiên là bi thảm, giữa tốt và xấu, giữa ánh
sáng và tối tăm. Hơn nữa, con người thấy mình không đủ sức khi phải tự mình chiến
thắng hữu hiệu những tấn công của sự dữ, đến nỗi mọi người cảm thấy dường như bị
xiềng xích trói buộc” (MV 13).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Ngày
22-8
Đức
Maria Nữ Vương
Is
9, 1-6; Lc 1, 26-38.
LỜI
SUY NIỆM: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không
thể làm được”.
Trong
câu chuyện Đức Mẹ chịu truyền tin, chúng ta thấy được Đức Mẹ đã bối rối và lo sợ;
đã được Thiên Thần Gáprien trấn an và giải thích, mặc dầu Đức Mẹ cũng chưa tường
tận mọi điều, nhưng tin vào lời Thiên Sứ nói về quyền năng của Thiên Chúa, Đức
Mẹ đã đáp lời xin vâng.
Lạy
Chúa Giêsu.Trong cuộc sống có những tiếng gọi của Chúa làm cho chúng con phải bở
ngở và nhiều lo sợ; nhưng xin Chúa ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng
con biết đón nhận trong cầu nguyện và tín thác vào quyền năng yêu thương của
Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
22-08
ĐỨC
MARIA TRINH NỮ VƯƠNG
Ngày
1 tháng 11 năm 1954, bốn năm sau khi tuyên bố tín điều Đức Maria hồn xác về trời,
Đức thánh cha Piô XII đã long trọng đội triều thiên lên tượng Đức trinh Nữ là
"sự cứu rỗi của dân Roma". Đây là cử chỉ tượng trưng biểu thị sự công
bố về vương quyền phổ quát của Đức Maria.
Đoàn
người đông đảo đứng chật quảng đường đền thờ thánh Phêrô, nhân danh cả hoàn cầu,
dâng cao niềm hoan hỉ.
Đức
Thánh cha cầm những vòng vàng dát đá quí từ khắp thế giới gởi về, để đặt trên đầu
tượng Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Ngài nói: - Xin Mẹ cai quản trên Giáo hội, trên mọi
trí khôn, mọi cõi lòng, mọi cá nhân, mọi gia đình cũng như mọi xã hội và mọi quốc
gia, trên mọi cộng đoàn, những người quyền thế. Xin mẹ hãy cai trị trên mọi nẻo
đường và mọi quảng trường, trong thành thị và chốn thôn quê, trên nền trời,
trên mặt đất và cả biển khơi.
Ngài
còn nói : - "Vương quyền của Đức Maria là một thực tại siêu vượt thế trần,
đồng thời lại thấm nhập mọi cõi lòng và chạm tới phần cốt yếu sâu thẳm nhất có
tính cách siêu nhiên và bất tử.
Đức
Maria là Mẹ thánh, tước hiệu này khiến cho Mẹ được đặc ân không bị thương tổn
vì tội lỗi. Vô nhiễm nguyên tội, Mẹ cũng không bị thương tổn vì sự chết. Khi kết
thúc cuộc đời trần gian cũng như từ những lời đầu tiên buổi truyền tin, mẹ là
tuyệt đỉnh của nhân tính bất khả xâm phạm luôn hiệp nhất với Ngôi Lời để hoàn tất
công cuộc cứu rỗi thế gian. Không một ý tưởng, hành vi nào của Mẹ lại rời khỏi
con Mẹ trong việc chinh phục bản tính nhân loại và việc chinh phục vũ trụ.
"Lễ
Mông triệu kéo dài một tuần đến lễ Đức Trinh Nữ Vương, lễ này cho thấy Đức
Maria sáng chói như Nữ hoàng và như bà Mẹ, Ngài cầu bầu cho chúng ta cạnh vua
muôn thuở" (Marialis cultus, 6)
(daminhvn.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét