24/08/2014
CHÚA NHẬT XXI MÙA THƯỜNG NIÊN năm A
(phần II)
GLPÂ CHÚA
NHẬT XXI QUANH NĂM A
Sách Tiên Tri Isaia 22, 19-23; Thư Thánh Phaolô
gửi tín hữu Rôma 11,33-36
và Phúc Âm Thánh Matthêô 16, 13-20
I. Giáo Huấn P.Â.:
Tông đồ Chúa phải tuyên tín rằng “Thầy là Đấng
Kitô, Con Thiên chúa hằng sống!”
Ơn Chúa ban cho người biết nhìn nhận Đức Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống.
Giáo Hội xây dựng trên người tuyên xưng Đức Kitô
là Con Thiên chúa.
Chúa chỉ trao quyền cầm buộc và tháo gở cho tông
đồ tuyên xưng Chúa Kitô là Con Thiên Chúa hằng sống.
Giáo Hội trường tồn vì xây dựng trên niềm tin vào
Thiên chúa là Đấng trường tồn.
II. Vấn
nạn P.Â.
Ý nghĩa bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia
22,19-23 nói về việc Thiên chúa tước quyền Sepna và trao cho Engiakim ?
Theo Bách Khoa tự điển: Shebna là tổng trưởng tài chánh của Giuđa thời vua
Hezekiah. Vì tính kiêu căng ngạo mạng nên Chúa đã truất phế Ông và đặt Eliakim,
con của Hilkiah thay Ông. Bài đọc I có ý nói rằng: quyền bính nằm trong tay
Chúa. Chúa thiết lập dân Chúa theo triều đại vua Đavít. Nên chỉ những ai có tâm
huyết với chương trình của Chúa và triều đại Đavít mà sau nầy Đấng Cứu Thế sinh
ra mới sẽ được trao quyền lãnh đạo.Bài Phúc Âm Thánh Matthêô nói về việc Phêrô tuyên
xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Chúa Giêsu là Con Thiên
chúa, thuộc dòng dõi vua Đavit. Nên Phêrô được trao chìa khoá mở cửa nước trời
và làm thủ lãnh Giáo Hội Chúa ở trần gian.
Quyền lãnh đạo được trao cho những ai tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên
Chúa và phục vụ vương quốc Chúa ở trần gian là Giáo Hội. Nên quyền bính trong
Giáo Chúa không để mang lợi cho cá nhân hay thao túng, nhưng để phục vụ.
“Phêrô con là Tảng Đá, trên tảng đá nầy
Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” Chúa có liều lĩnh quá không khi xây Giáo Hội
trên Phêrô?
Chính là Chúa Kitô – Chúa Kitô đã từng chiến
thắng tà thần ngay từ buổi đầu truyền đạo. Thoạt đầu, ai cũng phải nhìn nhận
Chúa liều lĩnh khi xây Giáo Hội trên Phêrô. Vì Ông nầy, gốc dân thuyền chài,
chắc chắn không có chữ nghĩa bao nhiêu. Cũng không hiểu chương trình của Chúa.
Khi Chúa nói “lên Giêrusalam để chịu đau khổ” thì Ông can ngăn, đến nỗi Chúa
mắng “Satan, lui ra đàng sau Ta!” được tường thuật trong Phúc Âm Matthêô 8, 33.
Phêrô cũng là người chối Thầy ba lần và đã không
dám có mặt dưới chân Thánh Giá khi Chúa chết. Sự kiện nầy được ghi nhận trong
cả bốn Phúc Âm: Matthêô 26:34; Marcô 14:30; Luca 22:34 và Gioan 13:38. Nhưng
bản văn Kinh Thánh cho chúng ta thấy hai điều:
Chúa xây dựng Giáo Hội trên Phêrô có nghĩa là
Tảng Đá. Nên Chúa không xây dựng Giáo Hội trên con người mang tên Phêrô, nhưng
trên tảng đá kiên vững. Chúa luôn gìn giữ Giáo Hội. “Thầy ở cùng các con mọi
ngày cho đến tận thế!” Chúa còn thách thức rằng “dù quyền lực tử thần cũng
không thắng nỗi!” Những yếu tố nầy làm cho Giáo Hội trường tồn: Xây trên tang
đá – Chúa luôn gìn giữ Giáo Hội – Giáo Hội
Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá nước trời: dưới
đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc, dưới đất anh tháo cởi điều
gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy. Như vậy là Chúa theo nquyết định của
Giáo Hội chăng?
Chúng ta có cảm tưởng như Chúa khoán trắng hay
giao Giáo Hội hoàn toàn cho Phêrô và những người kế vị Ông. Các Ông tha hồ thao
túng, muốn cầm buộc hay tháo gở tuỳ ý. Thật sự đây là chuyện trao quyền thừa
hành dưới sự chỉ đạo của tối cao của Chúa. Chúng ta sẽ cảm thấy dễ hiểu hơn khi
hiểu từ “chức linh mục thừa tác”, tức người thừa hành chức linh mục của mình
trong sự chia sẻ với chức linh mục sung mãn của Chúa Kitô. Nên khi một linh mục
được bổ nhiệm làm Cha Sở, Đức Giám Mục đến đặt vị linh mục trên ghế chủ toạ
phụng vụ, trao chìa khoá nhà tạm, trao sách thánh và những quyền khác… Tân Cha
Sở được trao quyền lãnh đạo giáo xứ, ban bí tích và giảng dạy… dưới quyền của
Giám Mục địa phận. Đó gọi lả quyền thừa hành. Hành xử quyền bính dưới danh
nghĩa của người trao quyền. Chúa Giêsu trao chìa khoá nước trời cho Phêrô, tức
quyền thừa hành quyền bính tối cao của Chúa. Người thừa hành có quyền ra luật
lệ, chúng ta hiểu là quyền cầm buộc. Nhưng nói đúng ra chỉ là làm trọn vẹn hay
cụ thể hoá luật Chúa mà thôi.
Thí dụ: Luật Chúa dạy điều răn thứ ba là : Giữ
ngày của Chúa tức ngày Chúa Nhật.
Giáo Hội thừa hành quyền cầm buộc ở chỗ ấn định:
Phải đi lễ ngày Chúa Nhật, ai không đi vì làm biếng sẽ mắc tội trọng… Đúng ra
Giáo Hội không hề ra luật buộc phải đi lễ Chúa Nhật, nhưng Giáo Hội thừa hành
việc Chúa buộc giữ ngày của Chúa bằng cách qui định rằng: Ai không giữ ngày của
Chúa là có tội trọng. Hơn nữa chúng ta thấy rằng: Muốn hành xử quyền tháo gở
nầy, Phêrô đã phải tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống và
được trao quyền làm thủ lãnh Giáo Hội, tức phải hy sinh sống chết vì Giáo Hội
và phải giữ Giáo Hội trường tồn. Nên quyền tháo gở không là quyền tuỳ ý thao túng
cho quyền lợi cá nhân mình , nhưng là mưu ích cho phần rỗi các linh hồn và cho
Giáo Hội Chúa.
III.
Thực hành P.Â.:
Trưng
dẫn về lòng trung thành của một Giám Mục Việt Nam:
Đức Cha Giacôbê Nguyễn ngọc Quang Giám Mục Cần Thơ.
Nguồn: Web GPCT
Đức
cha Nguyễn Ngọc Quang sinh ngày 23-07-1909 tại họ đạo Phước Lễ, tỉnh Bà Rịa.
Thụ phong linh mục ngày 21-09-1935. Năm 1940 được Đức cha Ngô Đình Thục, Giám
mục giáo phận Vĩnh Long gửi qua Pháp du học, đỗ Cử nhân Lịch sử và Địa lý. Năm
1946, cha trở về Việt Nam phục vụ giáo phận Vĩnh Long. Trong thời gian
1946-1960, cha đảm trách các nhiệm vụ: Giám đốc Tiểu chủng viện Vĩnh Long, cha
sở họ Chính tòa Vĩnh Long, Tổng Đại diện kiêm Giám đốc Công giáo Tiến hành giáo
phận.
Ngài được thụ phong Giám mục ngày 05-05-1965, và nhận giáo phận ngày 06-05-1965
với chức vụ Giám Mục phó. Năm 1968 khi Đức cha Nguyễn Kim Điền chính thức trở
thành Tổng Giám mục Huế thì Đức cha Nguyễn Ngọc Quang cũng chính thức trở thành
Giám mục Chính tòa Cần Thơ. Ngài là vị Giám mục thứ ba của giáo phận kể từ khi
giáo phận được thành lập.
Năm
1966, Đức cha mở Tiểu Chủng viện “Á Thánh Quý” ở Cái Răng.
Cũng
năm 1966, Đức cha được bầu giữ chức Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục miền Nam Việt
Nam, nhiệm kỳ 1966–1970.
Năm
1967, Đức cha thành lập Dòng Con Đức Mẹ ở làng Bình Thủy.
Năm
1970-1975, Đức cha được tín nhiệm giữ chức Chưởng ấn Viện Đại học Đà Lạt.
Ngày
20 tháng 06 năm 1990, lúc 07 giờ 40 phút, Đức cha Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang qua
đời tại Cần Thơ, thọ 81 tuổi với 25 năm Giám mục Chính tòa Cần Thơ.
Khi nói về “Chân dung linh mục” có lẽ chúng ta không nên nghĩ rằng mình đang
nói về nhũng vị thánh nhưng là những con người “rất người” mà có khi chúng ta
đã từng quen biết, tiếp cận với nhiều kỷ niệm vui buồn, các ngài đã sống trong
thiên chức linh mục của mình với tất cả những nỗ lực và để lại những bài học
đáng trân quý cho chúng ta.
Đức cha Giacôbê đã là một con người như thế. Ai đã từng sống gần gũi ngài đều
thấy ngài có những đức tính nhân bản nổi bật như:
Đúng giờ: Luôn chính xác trong các giờ chung đến từng phút giây, Cha thư ký
của ngài cho biết vào cuối đời ngài yếu bệnh, đi xuống nhà cơm phải nghỉ một
lúc, nên ngài đã đi sớm hơn để đến nhà cơm đúng giờ. Trong các cuộc đón rước
giám mục, nếu tài xế chạy nhanh đến sớm sẽ được dạo phố vài vòng để có thể đưa
Đức cha đến nơi đúng giờ không sớm không muộn.
Ý chí: Có một chuyện vui là sau năm 1975 các giám mục không còn đi xe hơi
nên ngài tập chạy xe Honda, nhưng tập mãi mà không được, có người nói chắc ngài
nản chí nên bán chiếc xe Honda 50 cho cha Antôn Vũ Huy Chương (bây giờ là Giám
mục Hưng Hoá). Tuy nhiên không phải vậy, ngài đã kiên trì và đã thành công.
Ngài vẫn chạy chiếc Honda lên nhà dòng Bình Thủy dâng lễ cho các Soeur.
Khó nghèo, cần kiệm và tự lập: Đức
cha Giacôbê tự giặt quần áo, khâu vá hay tự lo cho những nhu cầu tiêng tư của
mình. Đức cha chỉ có ba chiếc quần dài màu đen và ba chiếc áo vải trắng. Chúng
tôi quen gọi là đồ bà ba. Nhưng thực sự đó chỉ là đồ mặc trong nhà. Ngài mặc áo
dòng dường như cả ngày, nhất là khi ra khỏi phòng. Nên áo dòng nhiều hơn áo
thường. Có đến gần 10 chiếc, kể cả áo có viền đỏ, phẩm phục giám mục và loại
đơn giản của linh mục. Sau này khi phải mặc quần tây và áo sơ mi để chạy xe
Honda đi dạy học trong Chủng viện, dòng Bình Thuỷ hay dòng Chúa Quan Phòng…
ngài mới nhờ thợ may người công giáo ở khu Toà Giám Mục Cần Thơ sắm cho Ngài
hai bộ đồ: quần tây và áo sơ mi. Nếu ai có ý quan sát thì sẽ thấy ngay đây là
loại vải rẻ tiền nhất vì nó nhăn nheo và bị co rút ngắn dần. Chúng tôi thường
nói đùa: “quần chó táp ba ngày không tới!”
Không bao giờ Đức cha sai ai quét dọn phòng ốc hay sắp xếp vật dụng cho ngài.
Ngài quán xuyến hết mọi chuyện! Đức cha tự làm bao thư bằng cách lấy giấy quay
ronéo một mặt và sử dụng mặt còn lại. Những giấy nháp hay ghi chú không bao giờ
là tờ giấy mới nguyên. Hoa kiểng, cây cối trong Toà Giám Mục, một mình ngài cắt
tỉa, vun quén, tháp ráp hay chỉ bảo người khác phụ giúp. Toà Giám Mục Cần Thơ
có chuối ăn tráng miệng quanh năm, có xoài cát ngon trái chín oằn cây… tất cả
đều do sự xếp đặt rất tiết kiệm của Đức cha Giacôbê theo chủ trương “cây nhà lá
vườn.”
Kiến thức: Ngài thích tìm hiểu và có kiến thức bách khoa. Ngài đã từng làm
bài phú mừng Đức cha GB Nguyễn Bá Tòng năm 1933, và cũng không phải tình cờ mà
ngài được mời làm chưởng ấn Viện Đại Học Đà Lạt.
Trung thực nhưng biết thông cảm lắng nghe: Quý cha Cần Thơ đều
có kinh nghiệm về một chiêu thức đặc biệt của ngài: đó là “đánh phủ đầu” nhưng
sau đó ngài lắng nghe quý cha trình bày và rất thông cảm nếu quý cha trình bày
rõ ràng và thành thật. Ngài sống rất lý trí nhưng cũng giàu tình cảm đúng như
câu “thấu tình, đạt lý”. Các cha, các thầy gặp khó khăn ngài tạo điều kiện giúp
đỡ dến nơi đến chốn. Có một cha luôn kẹp ảnh Đức cha Giacôbê trong sách PVGK để
cầu nguyện cho ngài vì cha nói ngài đã giúp cha “khỏi một bàn thua trông thấy”.
Phục thiện: Có một thay đổi lớn trong tính tình của ngài, đó là trước đây ngài
rất nóng nảy, la rầy lớn tiếng, có khi đập bàn… nhưng sau này có lẽ từ 1975 trở
đi ngài trở nên rất hiền lành, nhẫn nại, nhỏ nhẹ… như một người cha nhân từ.
Lòng yêu mến Hội Thánh: Ưu tư lớn nhất của Đức
cha Giacôbê là vấn đề đào tạo linh mục. Từ khi mới làm Giám mục Cần Thơ, ngài
đã tập trung mọi công sức cho việc xây dựng cơ sở Tiểu chủng viện Cái Răng.
Với tầm nhìn ngôn sứ ngay từ đầu năm 1975, tất cả 80 đại chủng sinh giáo phận
Cần Thơ học ở ba Đại chủng viện Đà Lạt, Long Xuyên và Vĩnh Long đều được Đức
cha chuẩn bị tinh thần cho biến cố lớn lao của đất nước. Sau biến cố 30-4-1975,
ngài phân chủng sinh thành nhiều nhóm nhỏ, tự lập sinh sống trong các họ đạo,
làm nhiều nghề nuôi thân và phục vụ họ đạo. Trong hoàn cảnh khó khăn thời bao
cấp cũng có nhiều chủng sinh tìm cách “vượt biên”. Ngài nói với các chủng sinh
khi dạy môn Giáo sử: “Các nhà thừa sai ngày xưa thì vất vả ‘nhập biên’ để
truyền giáo, còn các thầy bây giờ thì lại muốn ‘vuợt biên’ để trốn tránh gian
khổ!” Phương pháp gắn bó với họ đạo như vậy đã đào tạo những linh mục rất gần
với dân và rất nhập cuộc: biết đồng hành với dân tộc và biết cảm thông với
người khác, biết “khóc với người đau khổ và cười với nguời vui!” Phải nói đây
là thế hệ linh mục rất đúng nghĩa linh mục do Đức cha Giacôbê đào tạo.
Năm 1988, Đại chủng viện Thánh Quý được chính thức khai giảng. Ngôi nhà chính
của Chủng viện được sửa sang, sơn phết khang trang cho kịp ngày khai giảng
nhưng có mấy ai biết là Đức cha Giacôbê đã bán chiếc Peugeot 404 để lo công
việc này.
Không ai biết rõ gia đình hay thân nhân ruột thịt của Đức cha Giacôbê như thế
nào. Cũng không bao giờ nghe ngài nói đến là ba mẹ ngài mất hồi nào, còn bao
nhiêu anh chị em và họ đang ở đâu. Con cháu thế nào và làm gì ở đâu. Ngài đúng
là người đã cầm cày và không bao giờ quay lại phía sau.
Viết về một người cha thì có lẽ bao nhiêu cũng chẳng đủ nhất là nếu thu thập dữ
liệu của tất cả những người con. Chỉ xin gợi lên vài nét đặc trưng về một “chân
dung linh mục” đã được chính các linh mục giáo phận Cần Thơ trong tuần tĩnh tâm
linh mục đầu năm 2010 bình chọn và giới thiệu, để góp phần làm phong phú những
chân dung linh mục Việt Nam và cũng để mỗi người chúng ta suy nghĩ và rút ra
những bài học cho cuộc sống của mình, nhất là trong Năm Linh Mục này.
Lm
Pet Trần Thế Tuyên
Câu hỏi của Chúa Giêsu đặt
ra cho các môn đệ vẫn còn vang dội tới ngày hôm nay, và trong giây phút này
dường như Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, Ngài cũng đặt câu hỏi với từng
người, trước hết là câu: "Người ta và những kẻ khác, theo quan niệm trần
tục của con người thì họ nghĩ Thầy là ai?".
Chúa Giêsu Kitô là một thực
tại, một con người lịch sử đã sống thật trên mặt đất này tại vùng Palestina
cách đây hơn 2.000 năm. Đây là một thực tại đầy mầu nhiệm, những kẻ sống đồng
thời với Ngài, họ cũng nhìn thấy những việc lạ Chúa đã thực hiện, trước đó là
phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều, nhưng họ không thể nhìn nhận ra thực tại Thần
Linh của Chúa là Con Thiên Chúa Hằng Sống. Họ nhìn vào Chúa Giêsu như một tiên
tri, một E?lia, một Gioan Tẩy Giả, một người chuẩn bị nhân loại cho Thiên Chúa,
nhưng chưa phải là Thiên Chúa. Những kẻ khác thời Chúa Giêsu, trên quan điểm
trần tục không được Thiên Chúa soi sáng, như Phêrô đã không nhận ra Chúa Giêsu
Kitô là ai? Và các Tông Đồ đã kể lại cho Chúa nghe về các nhận xét của dân
chúng xung quanh. Nhưng những kẻ khác, những kẻ ngoại chưa tin Chúa, không nhận
ra Chúa, điều đó cũng chưa quan trọng đối với Ngài cho bằng chính những người
mang tên là người đồ đệ của Chúa, là người Kitô mà lại không nhận ra Ngài.
Câu hỏi thứ nhất:
"Người ta nghĩ Thầy là ai?", chỉ là một câu hỏi phụ, câu hỏi nhập đề
để gợi ý thức nơi các đồ đệ. Câu hỏi thứ hai quan trọng hơn: "Phần các
con, các con bảo Thầy là ai?". Mỗi người phải trực tiếp trả lời câu hỏi
này bằng đức tin của mình đối với Chúa. Điều Chúa muốn không phải là một câu
trả lời suông, ngoài môi miệng như một học trò trả bài giáo lý cho thầy giáo
trong lớp: "Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế muôn dân". Câu
trả lời suông ngoài môi miệng như câu trả lời thuộc lòng bài giáo lý thì tương
đối dễ, nhưng điều Chúa nhắm đến là lòng xác tín bên trong. Đức tin chân thật
như là hồng ân từ Thiên Chúa Cha trao ban cho, ví như câu trả lời được ơn Thiên
Chúa soi sáng hướng dẫn Phêrô đã mạnh mẽ trả lời với sự linh ứng của Thiên Chúa
Cha: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống".
Chúa Giêsu xác nhận không
phải xác thịt nhưng là Cha trên trời đã ban cho con, đã soi sáng cho con. Chính
thái độ xác tín đức tin này là điều Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta. Thái độ
xác tín đức tin đó là hồng ân của Chúa Cha ban cho: "Không ai đến được với
Thầy, nếu không được ơn Thiên Chúa Cha soi sáng và lôi kéo họ đến" (Jn
6,43.45). Chính thái độ xác tín đức tin này là khởi đầu và nền tảng của mọi sứ
mạng Kitô. Thánh Phêrô đã nhận được sứ mạng: "Thầy trao cho con chìa khóa
Nước Trời, con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy". Phêrô đã
nhận được sứ mạng đó sau khi đã tuân phục ơn soi sáng của Thiên Chúa Cha và
mạnh mẽ tuyên xưng: "Thầy là Con Thiên Chúa".
Mỗi người chúng ta đều cần
có niềm xác tín này để có thể chu toàn sứ mệnh mà Thiên Chúa trao phó cho, là
làm chứng cho Chúa trên trần gian này giữa anh chị em xung quanh. Sứ mạng đã
khó nhưng niềm tin xác tín nơi mỗi người lại khó hơn hết, vì nơi mỗi người cũng
có thể nói là có hai con người, một con người trần tục và một con người mới.
Con người mới này được ân sủng thánh hóa, soi sáng hướng dẫn. Con người cũ có
những thói hư tật xấu, suy tưởng theo những lý luận trần tục, xa rời chương
trình của Thiên Chúa, khó mà tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa, khó mà trung
thành với đức tin tuyên xưng này.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm
được kinh nghiệm đức tin này nơi chính bản thân, nên đã thốt lên: "Tôi
không làm điều tốt mà tôi ưa thích, nhưng lại làm điều xấu mà tôi không
muốn". Cuộc giằng co giữa ân sủng và tội lỗi, giữa tin và không tin đã làm
cho ngài đôi khi mệt mỏi và xin Chúa hãy can thiệp cất đi điều ngài không muốn.
Nhưng Chúa Giêsu đã nâng đỡ Phaolô: "Ơn Ta đủ cho ngươi, đừng lo".
Chính vì thế hơn ai hết, thánh Phaolô Tông Đồ đã trình bày cuộc sống trong ơn
nghĩa Chúa như là một chiến đấu, một cuộc chạy đua, một cố gắng không ngừng
cộng tác với ân sủng Chúa để mặc lấy con người mới, từ bỏ con người cũ để tuyên
xưng đức tin, để trung thành với đức tin.
Trở lại với bài Phúc Âm hôm
nay, chúng ta nhận thấy thêm một điều nữa là, mặc dầu Phaolô đã có đôi lần sống
theo con người cũ, con người trần tục, nhưng Chúa Giêsu không thay đổi chương
trình, Ngài đã chọn Phaolô: "Ơn Ta đủ cho ngươi". Ơn Chúa luôn luôn
ban xuống tràn đầy, Chúa không hủy bỏ chương trình Ngài muốn thực hiện nhờ qua
mỗi người, mặc dù đôi khi chúng ta không đáp lại hết lòng ân sủng của Chúa.
Chúa muốn nhắn nhủ Phêrô, nhắn nhủ mỗi người "khi nào con trở lại hãy nâng
đỡ củng cố anh em con". Lời nhắn nhủ của Chúa cho Phêrô hãy biết thông cảm
nâng đỡ cho anh em, vì chính ông cũng đã được Chúa thương tha thứ và nâng đỡ.
Thêm một bài học nữa cho
mỗi người chúng ta là hãy cố gắng sống thánh thiện nơi chính bản thân mình và
nâng đỡ những bất toàn, những sa ngã, những tội lỗi của anh em, xin Chúa gìn
giữ chúng con trong đức tin và trung thành với Tin Mừng: "Thầy là Đức Kitô
Con Thiên Chúa Hằng Sống".
R.
Veritas
(Trích
trong ‘Sống Tin Mừng’)
Lectio Divina: Chúa Nhật XXI Thường Niên (A)
Chúa Nhật, 24 Tháng 8,
2014
1. Lời
nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến
giúp chúng con đọc Kinh Thánh cùng với tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ
trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh
Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa
trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Người. Vì thế, cây thập giá
tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự
sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để
chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh,
trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất
là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng
con, để cũng giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức
mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang
sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa
bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã
mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng
con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Phân
đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt
16:13-14: Chúa Giêsu muốn biết ý kiến của dân chúng
Mt
16:15-16: Chúa Giêsu thách đố các môn đệ, và ông Phêrô trả lời thay
cho tất cả mọi người
Mt
16:17-20: Câu trả lời long trọng của Chúa Giêsu nói với ông
Phêrô
b) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Trong bài Tin Mừng
Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu đặt câu hỏi liên quan đến việc dân chúng nghĩ
Người là ai: “Người ta bảo Con Người là ai?” Sau khi biết
ý nghĩ của đám đông, Chúa muốn biết ý kiến các môn đệ của Người. Ông
Phêrô, đại diện cho tất cả mọi người đã tuyên xưng đức tin của
ông. Chúa Giêsu xác nhận niềm tin của Phêrô. Trong bài
đọc, chúng ta hãy chú ý đến những gì tiếp theo đó: “Lời xác tín nào
Chúa Giêsu đã trao cho Phêrô?”
c) Phúc
Âm:
13 Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành
Cêsarêa Philíphê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người
là ai?” 14 Các ông thưa: “Người thì bảo
là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên
tri nào đó.” 15 Chúa Giêsu nói với các
ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” 16 Simon
Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống.” 17 Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi
Simon, con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải
cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. 18 Vậy
Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh
của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. 19 Thầy
sẽ trao cho con chìa khóa nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời
cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi
mở.” 20 Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói
với ai rằng Người là Đức Giêsu Kitô.
3. Giây
phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa được thấm
nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý:
Để giúp chúng ta trong
việc suy gẫm cá nhân.
a) Điểm nào đánh động bạn
nhất? Tại sao?
b) Ý kiến của dân chúng về Đức Giêsu
là gì? Ý kiến của các môn đệ và ông Phêrô về Chúa Giêsu là
gì?
c) Ý kiến của tôi về Đức Giêsu là
gì? Tôi là ai đối với Chúa Giêsu?
d) Phêrô là tảng đá theo
hai nghĩa. Đó là gì? (Mt 16:21-23)
e) Tôi là loại đá nào
đối với những người khác? Cộng đoàn chúng ta là loại đá nào?
f) Trong đoạn Tin Mừng có nhiều ý
kiến liên quan đến Chúa Giêsu và một số cách để bày tỏ đức tin. Ngày nay,
cũng có nhiều ý kiến khác nhau liên quan đến Chúa
Giêsu. Ý kiến của cộng đoàn chúng ta về Chúa Giêsu ra
sao? Từ điều này đưa ra kết luận cho sứ vụ của chúng ta là gì?
5. Chìa
khóa của bài đọc
Dành cho những ai muốn
đào sâu vào trong bài Tin Mừng.
a) Bối cảnh
của đoạn Phúc Âm chúng ta xuất hiện trong Tin Mừng Mátthêu:
* Cuộc đối
thoại giữa Chúa Giêsu và ông Phêrô nhận được những lời giải thích khác nhau và
có khi còn trái ngược nhau trong một số Giáo Hội Kitô giáo. Trong
Giáo Hội Công Giáo, đây là nền tảng cho sự ưu việt của Phêrô. Đây là
lý do tại sao, không phải trong thực tế, làm giảm bớt tầm quan trọng của đoạn
Phúc Âm, thật là tiện lợi để đặt nó trong bối cảnh Tin Mừng của Mátthêu, trong
các văn bản khác, những phẩm chất tương tự nói về Phêrô, hầu như tất cả, được
quy cho các người khác. Chúng không độc quyền thuộc về Phêrô.
* Tốt hơn
là chúng ta nên nhớ rằng Tin Mừng của Mátthêu được viết vào cuối thế kỷ thứ
nhất cho cộng đoàn người Do Thái cải đạo sống trong khu vực xứ Galilê và
Syria. Họ là những cộng đoàn chịu nhiều đau khổ và là các nạn nhân
của nhiều nghi kỵ về niềm tin của họ vào Đức Kitô. Tin Mừng của
Mátthêu cố gắng giúp họ vượt qua cơn khủng hoảng và khẳng định với họ trong đức
tin vào Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, Người được sai đến để hoàn thành những lời
hứa của Cựu Ước.
b) Lời bình
giải về đoạn Tin Mừng:
Mt
16:13-16: Ý kiến của dân chúng và của các môn đệ về Chúa
Giêsu
Chúa Giêsu hỏi về ý
kiến của dân chúng và của các môn đệ liên quan đến Người. Các câu
trả lời khá là đa dạng. Gioan Tẩy Giả, tiên tri Êlia, tiên tri
Giêrêmia, hay một tiên tri nào đó. Khi Chúa Giêsu hỏi về ý kiến của
các môn đệ, Phêrô trở thành phát ngôn viên và nói: “Thầy là Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!” Câu trả lời của Phêrô có nghĩa là
ông nhận ra rằng trong Đức Giêsu, lời tiên tri của Cựu Ước được viên mãn và
trong Đức Giêsu, chúng ta có sự mặc khải chắc chắn của Chúa Cha cho chúng
ta. Lời tuyên xưng này của Phêrô không phải là mới lạ. Trước
hết, sau khi đi trên mặt biển, các môn đệ khác đã tuyên xưng cùng một đức
tin: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa!” (Mt 14:33). Trong
Tin Mừng của Gioan, Máctha đã tuyên xưng lời này giống như
Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã phải đến thế gian”
(Ga 11:27).
Mt 16:17: Câu
trả lời của Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Phêrô, con thật có phúc!”
Chúa Giêsu công bố
Phêrô là “Có Phúc!” bởi vì ông đã nhận lãnh sự mặc khải từ Chúa
Cha. Trong trường hợp này, phản ứng của Chúa Giêsu không phải là
điều mới lạ. Trước hết, Chúa Giêsu đã công bố điều vui mừng tương tự
với các môn đệ đã được thấy và nghe những điều mà trước đây không ai biết (Mt
13:16), và đã ngợi khen Chúa Cha vì Người mặc khải Con Người cho những kẻ bé
mọn và không mặc khải cho những kẻ khôn ngoan (Mt 11:25). Phêrô là
một trong những kẻ bé mọn này mà Chúa Cha đã mặc khải cho. Nhận thức
về sự hiện hữu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu chẳng phải vì “từ xác thịt hay
máu huyết”, đó là, nó không phải là kết quả của nỗ lực con người, nhưng chính
ra là ân sủng mà Thiên Chúa ban cho những ai mà Người
muốn.
Mt
16:18-20: Các thẩm quyền của Phêrô
Ông Phêrô nhận lãnh ba
thẩm quyền từ Đức Giêsu: (i) Làm tảng đá hỗ trợ,
(ii) Nhận chìa khóa Nước Trời, và (iii) Làm nền tảng của Giáo Hội.
i) Làm tảng
đá: Simon, con
ông Giôna, nhận được từ Đức Giêsu một tên mới là Kêpha, và có nghĩa là
Đá. Đây là lý do tại sao ông được gọi là Phêrô. Phêrô
phải là tảng đá, đó là, ông phải là nền tảng vững chắc cho Giáo Hội
để các cửa của địa ngục sẽ không thắng được. Với những lời này từ
Chúa Giêsu nói với Phêrô, Mátthêu khuyến khích các cộng đoàn ở Syria và
Paléstine, đang chịu đau khổ và là nạn nhân của các cuộc bách hại, để thấy
trong Phêrô là một người lãnh đạo người ta tìm kiếm sự hỗ trợ, để chính họ căn
cứ liên quan đến nguồn gốc của họ. Mặc dù là những cộng đoàn yếu kém
và bị bách hại, họ đã có một cơ sở vững chắc, bảo đảm bởi Lời của Chúa
Giêsu. Tại thời điểm đó, các cộng đoàn đã có những sự gắn bó thương
mến mạnh mẽ với những người đã gầy dựng, những người cùng xứ sở của cộng
đoàn. Vì thế, Cộng Đoàn Syria và Paléstine nuôi dưỡng sự gắn bó hiệp
nhất của họ với con người Phêrô. Cộng đoàn Hy Lạp với con người
Phaolô. Một số cộng đoàn tại Á Châu, với con người của người môn đệ
Chúa yêu và các cộng đoàn khác với con người Gioan của sách Khải
Huyền. Tự xác định với những nhà lãnh đạo cùng xứ sở của họ đã giúp
cho các cộng đoàn nuôi dưỡng căn tính và tâm linh của họ tốt đẹp
hơn. Nhưng điều này cũng có thể là một nguyên nhân gây ra tranh
chấp, như trong trường hợp của cộng đoàn Côrintô (1Cr 1:11-12).
Làm tảng đá như
là căn bản của đức tin gợi lên Lời của Chúa gửi đến những người đang sống lưu
vong ở Babylon: “Hỡi ai theo đuổi sự công chính, hỡi kẻ đi tìm ĐỨC
CHÚA, hãy nghe Ta! Hãy đưa mắt nhìn lên tảng đá: từ tảng
đá này, các ngươi đã được đẽo ra; hãy đưa mắt nhìn vào hầm đá: từ
hầm đá này, các ngươi đã được lấy ra. Hãy ngước mắt nhìn tổ phụ
Ábraham và Sara, người đã sinh ra các ngươi; vì khi được Ta gọi, Ábraham chỉ có
một mình, nhưng Ta đã ban phúc lành cho nó, và cho nó trở nên đông
đảo” (Is 51:1-2). Áp dụng cho Phêrô, phẩm lượng của nền
tảng-đá này cho thấy một sự khởi đầu mới của dân Thiên Chúa.
ii) Chìa
khóa Nước Trời: Phêrô nhận
lấy chìa khóa Nước Trời để cầm buộc và tháo cởi, đó là, để hòa giải người ta
với nhau và với Thiên Chúa. Này, ở đây một lần nữa cùng một quyền
năng cầm buộc và cởi bỏ, được ban cho không chỉ với Phêrô, nhưng cũng cho các
môn đệ khác (Ga 20:23) và cho những cộng đoàn của các ông (Mt 18:18). Một
trong những điểm mà Tin Mừng của Mátthêu khẳng quyết là hòa giải và tha thứ (Mt
5:7, 23-24, 38-42-48; 66:14-15-35). Tại Syria, trong những thập niên
80 và 90, bởi vì tin vào Chúa Giêsu, đã có nhiều căng thẳng trong các cộng đoàn
và chia rẽ trong gia đình. Một số chấp nhận Người là Đấng Mêssia và
những người khác thì không, và điều này là nguyên nhân gây ra căng thẳng và
xung đột. Mátthêu nhất quyết hòa giải. Việc hòa giải đã
và tiếp tục là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của các phối hợp viên
của cộng đoàn thời bấy giờ. Bắt chước Phêrô, họ phải cầm buộc và
tháo cởi, đó là, làm tất cả mọi việc có thể để có được sự hòa giải, chấp nhận
lẫn nhau, xây dựng tình huynh đệ thật sự “Bảy mươi lần bảy!” (Mt 18:22).
iii) Giáo
Hội: Từ
ngữ Giáo Hội, trong tiếng Hy Lạp là eklésia, xuất hiện
105 lần trong Tân Ước, hầu như độc quyền trong sách Tông Đồ Công Vụ và trong
các Thư mục vụ. Chỉ ba lần trong các sách Phúc Âm, một lần duy nhất
trong sách Tin Mừng của Mátthêu. Chữ này có nghĩa đen là “được mời
đến” hoặc “được chọn”. Nó cho thấy người ta được mời gọi đến bởi Lời
của Chúa, và những người tìm cách sống với thông điệp Nước Trời mà Đức Giêsu đã
mang đến cho chúng ta. Giáo hội hoặc cộng đoàn không phải là Nước
Trời, nhưng là một công cụ hay một sự chỉ dấu của Nước Trời. Nước
Trời thì rộng lớn hơn nhiều. Trong Giáo Hội, trong cộng đoàn, điều
gì sẽ xảy ra khi một nhóm người để cho Thiên Chúa ngự trị và để cho Thiên Chúa
là “Chúa” của đời sống họ, là sự hiện diện của sự chịu quy phục hoặc là nên
chịu quy phục dưới mắt của mọi người.
c) Phần đào
sâu hơn:
i) Hình ảnh
của Thánh Phêrô:
Phêrô, một ngư phủ
đánh cá, đã trở thành kẻ đi lưới người (Mc 1:17). Ông đã kết hôn (Mc
1:3). Ông là một người tốt bụng, rất nhân bản. Ông là một
người lãnh đạo tự nhiên trong số mười hai môn đệ đầu tiên của Chúa
Giêsu. Đức Giêsu tôn trọng khả năng lãnh đạo này và làm cho Phêrô
thành người chăm sóc cho cộng đoàn đầu tiên của Người (Ga
21:17). Trước khi tham gia vào cộng đoàn của Chúa Giêsu, Phêrô được
gọi là Simon, con ông Giôna (Simao Bar Jona) (Mt
16:17). Chúa Giêsu gọi ông là Kêpha hay là Tảng Đá (Ga
1:42), người sau này trở thành Phêrô (Lc 6:14).
Bằng vào bản chất và
cá tính của ông, Phêrô có thể làm được tất cả mọi việc, ngoại trừ pietra
– tảng đá. Ông có can đảm nói, nhưng trong lúc gặp nguy hiểm ông
đã để cho mình bị chi phối bởi sự sợ hãi và chạy trốn. Ví dụ, vào
thời điểm Chúa Giêsu đi trên mặt biển, Phêrô đã xin “Lạy Chúa, xin truyền cho
con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. Chúa Giêsu trả lời: “Phêrô,
con cứ đến!” Phêrô bước ra khỏi thuyền và bước đi trên mặt
biển. Nhưng ngay khi ông thấy một con sóng cao, ông đâm sợ, mất lòng
tin, và bắt đầu chìm và ông la lên: “Lạy Chúa, xin cứu con
với!” Chúa Giêsu đã trấn an ông và đã cứu ông (Mt 14:28-31).
Trong Bữa Tiệc Ly,
Phêrô thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, dầu có phải chết với Thầy, con
cũng không chối Thầy!” (Mc 14:31), nhưng chỉ vài giờ sau đó, trong
dinh Thượng Tế, trước mặt người tớ gái, khi Chúa Giêsu đã bị bắt, Phêrô đã chối
Chúa, thề rằng ông không hề có liên hệ gì với Đức Giêsu (Mc 14:66-72).
Khi Chúa Giêsu ở trong
Vườn Cây Dầu, Phêrô đã tuốt gươm (Ga 18:10), nhưng cuối cùng lại chạy trốn, bỏ
lại Chúa Giêsu một mình (Mc 14:50). Bằng vào bản chất, Phêrô không
phải là tảng đá!
Nhưng ông Phêrô này,
rất yếu đuối và rất con người, tương tự như chúng ta, trở nên tảng đá, bởi vì
Chúa Giêsu cầu nguyện cho ông và nói: “Phêrô, Thầy đã cầu nguyện cho
con, để con khỏi mất lòng tin, và một khi con đã trở lại, hãy làm cho anh em
con nên vững mạnh!” (Lc 22:31-32). Đây là lý do tại sao
Đức Giêsu có thể nói: “Con là Đá (Phêrô) và trên đá này Thầy sẽ xây
Giáo Hội của Thầy” (Mt 16:18). Chúa Giêsu giúp ông trở thành tảng
đá. Sau khi Phục Sinh, tại Galilê, Chúa Giêsu hiện ra với
Phêrô và hỏi ông hai lần: “Phêrô, con có yêu mến Thầy
không?” Và Phêrô đã thưa lại hai lần: “Lạy Thầy, Thầy
biết con yêu mến Thầy!” (Ga 21:15-16). Khi Chúa Giêsu lặp
lại câu hỏi lần thứ ba, Ông Phêrô đã buồn bã. Có lẽ ông nhớ rằng ông đã chối
Chúa Giêsu ba lần. Với câu hỏi lần thứ ba này ông thưa
lại: “Lạy Thầy, Thầy biết hết mọi sự! Thầy biết con yêu
mến Thầy rất nhiều!” Và vào lúc ấy Chúa Giêsu trao phó cho ông việc
chăm sóc các chiên con của Người, nói rằng: “Phêrô, hãy chăm sóc các
chiên con của Thầy!” (Ga 21:17). Với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, độ
cứng của đá tăng tiến trong Phêrô và được mặc khải vào ngày Lễ Ngũ Tuần.
Vào ngày Lễ Ngũ Tuần,
sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phêrô mở cửa căn phòng nơi mà tất cả mọi
người tề tựu, đã bị khóa kín vì lo sợ người Do Thái (Ga 20:19), ông thu hết can
đảm và bắt đầu công bố với dân chúng về Tin Mừng của Chúa Giêsu (Cv
2:14-40). Và ông đã không ngừng nghỉ làm việc ấy! Nhờ vào sự
rao giảng can trường về biến cố Phục Sinh này, ông đã bị tống ngục (CV
4:3). Trong khi xét xử, ông đã bị cấm không được công bố Tin Mừng
(Cv 4:18), nhưng ông Phêrô đã không tuân theo lệnh cấm này. Ông
nói: “Chúng tôi biết rằng chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là
vâng lời người phàm!” (Cv 4:19; 5:29). Ông đã bị bắt một lần nữa (Cv
5:1826). Ông đã bị đánh đòn (Cv 5:40). Nhưng ông đã
nói: “Cám ơn. Nhưng chúng tôi sẽ tiếp
tục!” (xem Cv 5:42).
Tông truyền nói rằng
vào cuối cuộc đời ông, tại Rôma, ông Phêrô đã bị bắt và bị kết án tử hình, và
xử chết treo trên thập giá. Ông đã yêu cầu được đóng đinh ngược đầu
xuống đất. Ông tin rằng ông không xứng đáng được chết như Chúa
Giêsu. Phêrô đã trung tín với chính mình cho đến chết!
ii) Kết
thúc bối cảnh: Mt 16:21-23
Phêrô đã thú
nhận: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!” Ông
đã tưởng tượng một Đấng Thiên Sai vinh hiển, và Chúa Giêsu đã sửa
ông: “Thật là cần thiết cho Đấng Cứu Thế phải chịu đau khổ và chết
tại Giêrusalem.” Bằng cách nói “thật là cần thiết”, Người cho thấy
rằng sự đau khổ đã được ứng trước trong các lời Ngôn Sứ (Is 53:2-8). Nếu
ông Phêrô chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêssia và Con Thiên Chúa, ông cũng phải
chấp nhận Người là Đấng Thiên Sai tôi tớ, Đấng sẽ bị giết
chết. Không những chỉ là sự chiến thắng vinh quang, mà cũng là
cuộc hành trình tiến về thập giá! Nhưng ông Phêrô không chấp nhận
việc chỉnh sửa và tìm cách ngăn cản Người.
Phản ứng của Chúa
Giêsu thất đáng ngạc nhiên: “Satan, hãy lui ra sau
Ta! Con đang là một trở ngại trên con đường Ta đi bởi vì những gì
con đang suy nghĩ không phải là lối suy nghĩ của Thiên Chúa mà là như người
phàm”. Satan là một trong những kẻ ngăn cách chúng ta khỏi con đường
mà Thiên Chúa đã vạch ra cho chúng ta. Nói theo nghĩa đen, Chúa
Giêsu nói: “Hãy lui ra sau Ta” (Hãy xéo đi!). Phêrô đã muốn
đặt mình ở phía trước và định chỉ hướng đi. Chúa Giêsu
nói: “Hãy lui ra sau Ta!” Người cho thấy rằng Đấng định
hướng đường đi và chỉ đạo không phải là Phêrô, mà là Chúa Giêsu. Môn
đệ phải theoThầy. Ông phải sống trong sự chuyển
đổi liên tục.
Lời của Chúa Giêsu
cũng là một nhắc nhở cho tất cả những ai hướng dẫn hoặc chỉ đạo một cộng
đoàn. Họ phải “theo” Chúa Giêsu và không đặt mình vào phía trước Người như
Phêrô đã muốn làm. Không, chỉ có họ mới có thể chỉ ra phương hướng
hoặc đường đi. Nếu không, giống như Phêrô, họ không phải là tảng
đá hỗ trợ, nhưng họ trở thành tảng đá cản đường. Vì
thế, một số các nhà lãnh đạo của cộng đoàn vào thời Mátthêu, đầy rẫy những mơ
hồ. Không những thế, thậm chí ngày nay điều này cũng đang xảy ra
giữa chúng ta!
6. Thánh
Vịnh 121
Chúa là Đấng hỗ trợ
tôi
Tôi ngước mắt nhìn lên
rặng núi,
ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?
Ơn phù hộ tôi đến từ ĐỨC CHÚA
là Đấng dựng nên cả đất trời.
Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước,
xin Người chớ ngủ quên.
Đấng gìn giữ Israel,
lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành!
Chính CHÚA là Đấng canh giữ bạn,
chính CHÚA là Đấng vẫn chở che,
Người luôn luôn ở gần kề.
Ngày sáu khắc, vầng ô không tác hoạ,
đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại chi.
CHÚA giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh,
giữ gìn cho sinh mệnh an toàn.
CHÚA giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới,
từ giờ đây cho đến mãi muôn đời.
ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?
Ơn phù hộ tôi đến từ ĐỨC CHÚA
là Đấng dựng nên cả đất trời.
Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước,
xin Người chớ ngủ quên.
Đấng gìn giữ Israel,
lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành!
Chính CHÚA là Đấng canh giữ bạn,
chính CHÚA là Đấng vẫn chở che,
Người luôn luôn ở gần kề.
Ngày sáu khắc, vầng ô không tác hoạ,
đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại chi.
CHÚA giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh,
giữ gìn cho sinh mệnh an toàn.
CHÚA giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới,
từ giờ đây cho đến mãi muôn đời.
7. Lời
Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về
Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện
xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức
mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin cho
chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ
lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị
cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn
đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét