Thứ Sáu Ngày 28/06/2013
Thứ Sáu Tuần XII Thường Niên – Năm C
BÀI ĐỌC I: St 17, 1. 9-10. 15-22
"Mọi đứa con sẽ chịu cắt bì để làm dấu giao ước. Sara sẽ sinh
cho ngươi đứa con trai".
Trích sách Sáng Thế.
Khi Abram vừa
được chín mươi chín tuổi, Chúa hiện ra với ông và phán bảo ông rằng: "Ta
là Chúa toàn năng, hãy đi trước mặt Ta và hãy nên trọn lành".
Chúa lại phán bảo
Abraham rằng: "Vậy ngươi và dòng dõi ngươi qua muôn thế hệ, hãy giữ giao ước
của Ta. Đây là giao ước phải giữ giữa Ta với ngươi, nghĩa là dòng dõi ngươi sau
này: Tất cả con trai của các ngươi sẽ chịu cắt bì".
Chúa lại bảo
Abraham rằng: "Ngươi sẽ không còn gọi Sarai vợ ngươi là Sarai nữa, nhưng gọi
là Sara. Ta sẽ chúc phúc cho Sara; và Sara sẽ sinh một con trai; Ta sẽ chúc
phúc đứa con đó, nó sẽ làm đầu nhiều dân, và do nó sẽ sinh ra nhiều vua nhiều
nước". Abraham cúi mặt cười, nghĩ trong lòng rằng: "Già đã trăm tuổi
mà còn có con được sao? Sara đã chín mươi tuổi sẽ sinh con ư?" Rồi ông
thưa cùng Chúa: "Xin Chúa cho Ismael được sống trước mặt Chúa!" Chúa
phán bảo Abraham rằng: "Sara vợ ngươi sẽ sinh cho ngươi một con trai,
ngươi đặt tên nó là Isaac. Ta sẽ lập giao ước muôn đời với nó và dòng dõi nó.
Ta cũng nghe lời ngươi cầu cho Ismael: này Ta sẽ chúc phúc cho nó sinh sản nhiều.
Nó sẽ sinh ra mười hai tướng quân, và Ta sẽ làm cho nó nên một dân tộc lớn. Còn
lời giao ước của Ta chỉ ký kết với Isaac, do Sara sẽ sinh ra cho ngươi mùa này
sang năm". Sau khi nói hết lời cùng Abraham, Thiên Chúa biến đi. Đó là lời
Chúa.
ĐÁP CA: Tv 127, 1-2. 3. 4-5
Đáp: Đó là phúc
lộc dành để cho người biết tôn sợ Đức Thiên Chúa (c. 4).
1) Phúc thay những
bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người. Công quả tay
bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Đáp.
2) Hiền thê bạn
như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn; con cái bạn như những
chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Đáp.
3) Đó là phúc lộc
dành để cho người biết tôn sợ Đức Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion
chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem hết mọi ngày
trong đời sống của bạn. - Đáp.
ALLELUIA: Ga 8, 12
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh
sáng ban sự sống". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 8, 1-4
"Nếu Ngài muốn, Ngài
có thể chữa tôi được sạch".
Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu ở
trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người. Có một người cùi đến lạy Người
mà thưa rằng: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch".
Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: "Ta muốn. Anh hãy lành bệnh".
Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi. Chúa Giêsu phán bảo anh ta:
"Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ
theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết". Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Chữa người phong cùi
Cho đến thế kỷ 20, bệnh phong cùi vẫn còn là một huyền thoại
đối với con người. Một bác sĩ làm việc tại một trại Y khoa bên Ấn Ðộ đã tình cờ
khám phá ra rằng người mắc bệnh phong cùi không cảm thấy đau đớn trong những tế
bào đã bị vi trùng xâm nhập. Ngày nọ, ông không thể mở được cửa phòng, ông mới
trao chìa khóa cho cô bé 12 tuổi. Ông không ngờ nó đã vặn chìa khóa một cách dễ
dàng. Xem xét những ngón tay của nó, ông nhận thấy chìa khóa đã làm mất đi một
mảng thịt trong lòng bàn tay và chạm đến xương, thế mà nó không cảm thấy đau đớn.
Nhờ khám phá này, viên bác sĩ đã giúp cho những người phong
cùi biết cách đề phòng để tránh gây thương tích cho thân thể của họ. Ông đã giải
phẫu những giây thần kinh của bàn tay và dạy họ cách điều khiển các cơ bắp của
bàn tay. Ông cũng giải phẫu mũi của bệnh nhân để mang lại cho họ một gương mặt
dễ coi hơn. Ngoài ra, ông cũng khám phá ra rằng những người mắc bệnh phong cùi
dễ bị mù mắt, lý do vì họ không còn cảm nhận được đau đớn khi những chất dơ bẩn
xâm nhập vào mắt, nhờ đó ông cũng giúp họ lo vệ sinh mắt một cách chu đáo hơn.
Với những khám phá này, ông đã đánh đổ được huyền thoại cho rằng phong cùi là
căn bệnh bất trị.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đánh đổ được huyền
thoại của người đương thời với Ngài về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm
của người Do Thái lúc đó, bệnh tật là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối
với tội lỗi của con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác
khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra
bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thân xác, mà còn
phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong
cùi, Chúa Giêsu muốn nói rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và
chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật cho con người.
Sứ điệp ấy của Chúa Giêsu, trải qua các thế hệ, đã có biết
bao nhiêu người chuyển đạt và thực thi cho những người phong cùi trên khắp thế
giới. Những bàn tay săn sóc, những lời nói an ủi, và nhất là sự hiện diện chia
sẻ bên cạnh các người phong cùi. Tất cả những cử chỉ ấy là để khẳng định với những
người phong cùi rằng Thiên Chúa yêu thương họ.
Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm được rằng những đau đớn thân
xác không xâu xé và đè bẹp con người cho bằng nỗi cô đơn và bị bỏ rơi. Bệnh
phong cùi là tột điểm của nỗi cô đơn mà con người có thể rơi vào. Tựu trung, cô
đơn cũng đồng nghĩa với vắng bóng tình yêu.
Không có cơ hội hoặc không đủ can đảm để phục vụ những người
phong cùi, thì ít ra chúng ta xin Chúa cho chúng ta có thể mang lại sứ điệp yêu
thương của Chúa đến mọi người, nhất là những ai đang sống trong cô đơn thử
thách.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 12 TN1, Năm lẻ
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Thiên
Chúa có thể làm mọi sự.
Có những điều
tuy không thể làm được bởi con người; nhưng luôn có thể làm bởi Thiên Chúa; chẳng
hạn: làm cho có mưa có nắng, cho người cao niên được sinh con, chữa lành các bệnh
tật mà con người phải bó tay đầu hàng. Lý do đơn giản: chẳng có gì là chuyện
không thể đối với Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm
nay tường thuật 2 phép lạ chứng tỏ uy quyền của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I,
tác giả Sách Sáng Thế tường thuật việc Thiên Chúa làm cho tổ-phụ Abraham. Ngài
cho ông có con trong khi cả ông và vợ ông đã quá tuổi sinh con, và Ngài lập
giao ước với ông và giòng dõi của ông. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa lành một
người bị bệnh phong hủi, khi thấy anh biểu lộ một niềm tin vững mạnh vào Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn
hảo.
1.1/ Giao Ước
Thiên Chúa làm với tổ-phụ Abraham: Khi ông Abram được chín mươi chín tuổi,
Đức Chúa hiện ra với ông và phán: "Ta là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy
bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo.''
(1) Giao ước được
ký kết, không phải chỉ với một mình Abraham, nhưng còn với toàn giòng dõi ông: Thiên Chúa phán
với ông Abraham: "Phần ngươi, hãy giữ giao ước của Ta, ngươi và giòng dõi
ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đây là giao ước của Ta mà các
ngươi phải giữ, giao ước giữa Ta với các ngươi, với giòng dõi ngươi sau này: mọi
đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì.'' Dấu hiệu bề ngoài của
giao ước là mọi đàn ông con trai của người Do-thái sẽ phải chịu cắt bì.
(2) Thiên Chúa đổi
tên cho hai ông bà: Thiên Chúa phán với ông Abraham: "Sarai, vợ ngươi,
ngươi không được gọi tên là Sarai nữa, nhưng tên nó sẽ là Sarah.'' Abram có
nghĩa "cha được tôn vinh" thành Abraham, có nghĩa "cha của nhiều
dân tộc." Sarai có nghĩa "công chúa" thành Sarah, có nghĩa
"mẹ của nhiều dân tộc."
1.2/ Thiên Chúa hứa
sẽ ban cho Abraham một người con trai: ''Ta sẽ chúc phúc cho nó (Sarah), Ta
còn cho nó sinh cho ngươi một con trai. Ta sẽ chúc phúc cho nó, nó sẽ trở thành
những dân tộc; vua chúa các dân sẽ phát xuất từ nó.''
(1) Ông Abraham
không hiểu lời hứa ban con của Thiên Chúa: Ông Abraham cúi rạp xuống; ông cười
và nghĩ bụng: "Đàn ông trăm tuổi mà có con được sao? Còn bà Sarah đã chín
mươi tuổi mà sinh đẻ được sao?" Ông nghĩ chắc Thiên Chúa muốn nói tới
Ismael, người con ông có với Hagar, nàng hầu của bà Sarah, nên Abraham thưa với
Thiên Chúa: "Ước chi Ismael được sống trước nhan Ngài!"
(2) Thiên Chúa
cắt nghĩa rõ ràng lời hứa ban con của Ngài: Nhưng Thiên Chúa phán: "Không
đâu! Chính Sarah, vợ ngươi, sắp sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ đặt
tên cho nó là Isaac. Ta sẽ lập giao ước của Ta với nó; đây sẽ là giao ước vĩnh
cửu cho giòng dõi nó sau này.
Còn về Ismael,
Ta nghe lời ngươi xin: Này Ta chúc phúc cho nó, Ta sẽ cho nó sinh sôi nảy nở ra
nhiều, thật nhiều. Nó sẽ sinh ra mười hai hoàng tử, Ta sẽ làm cho nó thành một
dân tộc lớn. Nhưng giao ước của Ta thì Ta lập với Isaac, đứa con mà Sarah sẽ
sinh cho ngươi vào độ này sang năm."
2/ Phúc Âm: "Tôi muốn, anh sạch đi."
2.1/ Phép lạ Chúa
chữa người phong hủi:
(1) Người phong
hủi biết cách xin: Ông tiến lại, bái lạy Người và nói: "Thưa Ngài, nếu
Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Chỉ với câu một ngắn ngủi,
ông đã lột tả được hai điều quan trọng:
+ Ông luôn sẵn
sàng vâng theo thánh ý Thiên Chúa: Khi nói "nếu Ngài muốn,"
ông cũng biết điều đối ngược có thể xảy ra là Thiên Chúa có thể không muốn, và
ông sẵn lòng vâng theo thánh ý Thiên Chúa để chịu bệnh. Con người không biết
chuyện tương lai nên không biết cách xin làm sao cho đúng; vì thế, điều khôn
ngoan là cứ việc xin, nhưng phải khôn ngoan cho thêm câu như người phong hủi
hôm nay "nếu Ngài muốn." Lý do: có thể những điều con người muốn sẽ
đưa họ đến chỗ thiệt hại hơn; chẳng hạn, nguy hiểm cho phần linh hồn. Thiên
Chúa biết những gì ích lợi cho con cái, Ngài sẽ ban điều tốt nhất cho những ai
tin tưởng tuyệt đối vào Ngài.
+ Ông tin Chúa
Giêsu có thể làm được mọi sự: Khi nói "Ngài có thể làm cho tôi được sạch,"
người phong hủi không một chút nghi ngờ quyền năng của Chúa Giêsu. Đây là điều
kiện tiên quyết để được lành bệnh, như Chúa Giêsu vẫn thường đòi hỏi nơi bệnh
nhân.
(2) Phản ứng của
Chúa Giêsu: Thấy cách biểu lộ niềm tin và lối sống của người phong hủi,
Chúa Giêsu giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi." Lập
tức, anh được sạch bệnh phong hủi.
Đây là hành động
rất can đảm và biểu lộ lòng thương xót của Chúa Giêsu, vì Lề Luật ngăn cấm
không cho sự tiếp xúc giữa người lành mạnh và người bị phong hủi. Khi Chúa
Giêsu giơ tay đụng anh, Ngài đã làm cho mình trở nên không thanh sạch. Người
không thanh sạch bị ngăn cấm không được vào Đền Thờ; nhưng lòng thương xót của
Chúa Giêsu dành cho anh đã thắng vượt tất cả những ràng buộc của Lề Luật. Tiên
tri Isaiah diễn tả rất hay về lòng thương xót như sau: ''Sự thật, chính người
đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng
ta'' (Isa 53:4a).
2.2/ Lệnh truyền
của Chúa Giêsu:
(1) "Coi
chừng, đừng nói với ai cả:'' Thông thường, nhiều người sẽ không hiểu tại sao
Chúa Giêsu ngăn cấm anh không được tiết lộ; lẽ ra phải để anh rao truyền quyền
năng của Chúa Giêsu để giúp nhiều người tin vào Ngài. Lý do Chúa Giêsu ngăn cấm
anh vì Chúa không muốn dân chúng tin Ngài như một Đấng Thiên Sai uy quyền như
truyền thống vẫn tin; nhưng là một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ để cứu độ con
người.
(2) ''Hãy đi
trình diện tư tế và dâng của lễ, như ông Moses đã truyền, để làm chứng cho người
ta biết." Ngày xưa, xã hội không có bác sĩ như bây giờ; các tư tế có
bổn phận khám xét những người bị bệnh phong, để tuyên bố một người có bệnh hay
được lành bệnh. Bệnh phong không những nghiêm trọng về thể lý vì tính hay lây;
nhưng còn nghiêm trọng hơn trong việc tế lễ. Lề Luật không cho phép người bị bệnh
phong vào Đền Thờ dâng của lễ, vì họ được xếp vào hạng người không sạch. Khi tư
tế tuyên bố người mắc bệnh đã lành, anh phải dâng của lễ tạ ơn như Lề Luật truyền
(Lev 14:4-5).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần
có một niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa trong mọi trạng huống của cuộc đời, vì
mọi sự đều có thể xảy ra dưới bàn tay uy quyền của Ngài.
- Không phải những
điều chúng ta xin đều đẹp ý Ngài; vì thế, hãy mở lòng để đón nhận lời từ chối của
Thiên Chúa, và can đảm vâng theo thánh ý Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 12 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 8,1-4
* Đặt trong sơ đồ
chung của Tin Mừng Mt :
Hai chương 8-9 của Mt
(Từ hôm nay đến Thứ Ba tuần XIV) trình bày những hoạt động của Đức Giêsu (mà
phần lớn là chữa bệnh) để rao giảng Nước Trời.
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu làm phép lạ
chữa một người cùi.
- Thời đó, cùi bị coi là
một chứng bệnh nan y. Nhưng Chúa Giêsu đã chữa người này một cách rất dễ dàng :
"Ta muốn, anh hãy lành bệnh. Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh cùi".
- Người ta coi người cùi
là hạng ô uế, kẻ nào chạm tới người cùi thì cũng bị lây ô uế. Nhưng Chúa Giêsu
đã dám đưa tay chạm vào người cùi này.
- Đã giúp thì giúp cho
trót. Chúa Giêsu chẳng những chạm tới người cùi và làm cho anh hết bệnh. Ngài
còn nhắc anh đi trình diện tư tế và dâng lễ vật để được xác nhận khỏi bệnh.
- "Hãy đi trình diện
tư tế… để minh chứng cho họ biết". Biết gì ? a/ biết nạn nhân đã khỏi bệnh
cùi ; b/ Chúa Giêsu cũng nhắn một sứ điệp đến các tư tế : nếu họ nhớ tới những
lời các ngôn sứ thì khi thấy người cùi này được Ngài chữa khỏi thì họ sẽ biết
Ngài chính là Đấng Messia.
B.... nẩy mầm.
1. "Đám đông dân
chúng đi theo Ngài" : các nhà nghiên cứu Thánh Kinh gọi giai đoạn này là
"Mùa xuân Galilê", Chúa Giêsu được người ta ngưỡng mô và đi theo rất
đông. Nhưng chẳng bao lâu sau sẽ tới "Mùa thu" rồi "Mùa Đông
Giêrusalem", người ta lần lượt bỏ Chúa, thậm chí quay lại chống Ngài và
đòi Ngài phải chết. Tình cảm hay cảm xúc chỉ là lửa rơm, bạo phát bạo tàn. Chỉ
có đức tin mới trung kiên bền vững.
Lạy Chúa, con xin dâng
cho Chúa tình cảm và cảm xúc sốt sắng hôm nay của con. Con cám ơn Chúa đã an ủi
con bằng những cảm xúc êm dịu này. Nhưng con xin Chúa biến những cảm xúc này
thành đức tin, để giả như sau này có lúc nào đó con không còn cảm thấy sốt sắng
nữa thì con vẫn một niềm trung kiên với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.
2. Ngày nay bệnh cùi
không còn là một chứng nan y bất trị. Nhưng vẫn còn rất nhiều "người
cùi" kiểu khác bị người ta ghê tởm tránh xa, chẳng hạn những người nghèo
dơ dáy hôi hám, những người mang cá tính bị người khác ghét bỏ, những người lỡ
mang tai tiếng khiến người ta không dám tiếp xúc vì sợ bị vạ lây… Chúa đã dám
"giơ tay ra chạm đến" người cùi. Xin Chúa cũng giúp con có can đảm
"giơ tay ra" đối với những người ấy.
3. "Kìa một người bị
phong hủi tiến lại, bái lạy Người và nói : "Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài
có thể làm cho tôi được sạch." (Mt 8,2)
- Cháu đi lễ.
- Ác cảm với mọi người.
- Lầm lì, cau có.
- Lắng nghe anh em ư ?
Không !
- Rộng lòng thương người
nghèo ư ? Không
- Học hành ư ? Học để làm
gì chứ !
- Tội lỗi đầy mình ư ?
Không quan trọng !
Diện mạo của cái
"thằng tôi" đấy ! Tôi buông thả. Tôi lún sâu vào tội lỗi. Mọi người
xa lánh tôi, sợ tôi. Tôi đã trở thành người phong hủi thật sự.
Những kẻ phong hủi xưa
kia đã chạy đến với Chúa.
Lạy Chúa, xin cứu chữa
con. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp.Cần Thơ
28/06/13 THỨ SÁU TUẦN 12 TN
Th. Irênê, giám mục, tử đạo
Mt 8,1-4
Th. Irênê, giám mục, tử đạo
Mt 8,1-4
NẾU CHÚA MUỐN
“Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” (Mt 8,3)
Suy niệm: Nhu
cầu của con người thì bất tận, không bao giờ hết, mà đã có nhu cầu thì luôn
mong muốn được thỏa mãn. Vì thế mà con người luôn đi tìm kiếm mọi cách để lấp
đầy những nhu cầu ấy. Không những thế, người ta còn coi thần linh như một thứ
công cụ để đáp ứng những nhu cầu đời sống của mình. Cứ nhìn cảnh cả rừng người
chen lấn, xô đẩy, thậm chí dẫm đạp cả lên nhau để “cướp ấn” “giành lộc” tại các
đền chùa trong những dịp đầu năm, lễ hội sẽ thấy rõ. Lời Chúa hôm nay kể lại
thái độ của người bị bệnh phong cho biết phải cầu xin thế nào cho đúng đắn. Anh
ta rất muốn được khỏi bệnh phong, anh cũng cầu xin cho được khỏi bệnh nhưng với
một điều kiện:“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch.”
Mời Bạn: Có
lẽ bạn và tôi cũng có thói quen “xin bằng được” nhưng không phải cho ý Chúa
được thể hiện mà là xin cho được như ý của mình. Bạn cứ cầu xin vì Chúa muốn
như thế (x. Mt 7.7-11; 18,19; Ga 14,13-14; 16,24-26), nhưng khi cầu xin bạn hãy
nói như anh bị bệnh phong: “Nếu Chúa muốn” và bạn hãy xin: “Xin cho ý Chúa được thể hiện.”
Chia sẻ: Điều gì bạn đang cần mà bạn
nghĩ rằng cũng hợp với ý Chúa? Bạn hãy cầu xin Chúa về điều đó.
Sống Lời Chúa: Sau giờ kinh tối gia đình, bạn
thinh lặng cầu xin Chúa cho gia đình mình điều mà bạn nghĩ hợp với ý Chúa nhất.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con cám ơn Chúa đã cho con thấy thánh ý Chúa trong những
lúc gặp khó khăn, để con luôn biết nói với Chúa ‘nếu Chúa muốn’ trong mọi lúc.
Nhưng cũng xin thêm cho con lòng can đảm để có thể trung thành với thánh ý Chúa
suốt đời con. Amen.
Nếu
Ngài muốn
Khi con người tin vào Thiên Chúa như một đứa con thơ phó thác,
Thiên Chúa sẽ chọn cho con người điều tốt nhất.
Suy niệm:
Sau Bài Giảng trên núi thì đây là phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu
trong chuỗi mười phép lạ ở chương 8 và 9 của Tin Mừng Mátthêu.
Người phong chẳng rõ từ đâu đã dám lại gần Đức Giêsu,
dù lẽ ra anh không được phép làm như thế (Lv 13, 45-46).
Ai đã nói cho anh về Ngài, ai đã dạy anh bái lạy và khấn xin?
“Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch” (c. 2).
Một lời cầu xin mẫu mực đáng chúng ta suy nghĩ.
“Nếu Ngài muốn”: anh đặt ý muốn của Đức Giêsu lên trên ý muốn của
anh.
Dù rất muốn được khỏi, nhưng anh vẫn để Ngài tự do làm theo ý của
Ngài.
Chữ “nếu” thật đơn sơ, nhưng nói lên sự phó thác trọn vẹn của anh
cho ý muốn tốt lành của Đức Giêsu.
Ngài được tự do muốn hay không muốn, làm hay không làm.
Đức Giêsu không thấy mình bị áp lực phải chiều theo ý muốn của anh.
Sau này trong Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng dùng chữ “nếu”
khi nài xin Cha cất chén đắng cho mình.
“Lạy Cha, nếu có thể được…” (Mt 26, 39. 42).
Nhưng trong trường hợp này, Cha đã không cất chén Khổ nạn của con.
“Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
Anh tin vào quyền năng phi thường từ nơi Ngài,
quyền năng có thể làm cho những nhơ uế trên người anh biến mất,
và da thịt anh phút chốc được lành sạch.
Khi con người tin vào Thiên Chúa như một đứa con thơ phó thác,
Thiên Chúa sẽ chọn cho con người điều tốt nhất.
Thái độ phó thác, tuy có vẻ liều lĩnh, vì Thiên Chúa có thể nói
không,
nhưng thật ra lại rất khôn ngoan, vì biết mình sẽ được điều tốt hơn
cả.
“Tôi muốn, anh hãy được sạch” (c. 3).
Đức Giêsu được tự do để muốn, thoải mái để bày tỏ lòng quảng đại.
Ngài chẳng những chữa lành bằng ý muốn được nói ra lời,
Ngài còn làm một điều không cần thiết và bị cấm (Lv 5, 3),
đó là đưa tay đụng đến người phong.
Cả tình yêu của Ngài diễn tả qua cái đụng nhẹ đó.
Da thịt của Ngài chạm vào da thịt không lành lặn của anh.
Ngài không bị nhiễm uế, trái lại Ngài làm cho anh được sạch.
Rõ ràng người phong ở rất gần Đức Giêsu và không làm Ngài kinh tởm.
Đức Giêsu muốn anh trở về với đời sống bình thường,
hội nhập trở lại với Đền thờ, gia đình và xã hội.
Vì thế Ngài sai anh đi trình diện với các tư tế và dâng của lễ (c.
4).
Dù không là người phong, nhưng ai trong chúng ta tránh được ô nhơ?
Ai trong chúng ta lại không có lần xin Chúa tẩy mình cho sạch?
Thân xác người phong bị tàn phá và làm cho dị dạng, đáng sợ.
Chỉ mong tâm hồn chúng ta tránh được bệnh phong.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh
sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay
và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị
thử thách :
những kẻ đói, không chỉ
vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa ;
những kẻ khát, không chỉ
vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình
an, sự thật, công bằng và tình thương ;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một
mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim
hiểu biết, yêu thương ;
những kẻ bệnh hoạn và hấp
hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này :
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy niệm
Lạy Chúa, con nhớ lại lời Chúa hôm qua, sau khi nghe những lời Chúa
giảng dạy, thì “dân chúng sửng sốt về lời dạy của Người, vì Người giảng
dạy như một Đấng có uy quyền” (Mt 7,28-29). Và lời Chúa hôm nay là minh
chứng cho người Do Thái thấy Ngài thực sự là một Đấng có uy quyền. Uy quyền của
Ngài được biểu lộ nơi việc Ngài có thể chữa lành căn bệnh nan y của người Do
Thái, hơn nữa căn bệnh khiến cho người nào mắc phải đều bị loại khỏi cộng đoàn,
bệnh phong cùi.
Con hình dung ra người phong cùi hôm nay bao năm tháng sống bên lề
xã hội. Anh ta không dám gặp người khác, mà người khác cũng không dám gặp anh
ta. Anh ta mất một trong những quyền căn bản của con người, là quyền được sống
giữa mọi người. Vì con đang sống giữa mọi người nên nói đến quyền này con cảm
thấy bình thường. Thử đặt mình trong hoàn cảnh anh cùi con mới cảm thấy một
nỗi đau khủng khiếp, nỗi đau không được làm người; vì làm người thì phải sống
giữa mọi người chứ, còn đằng này anh cùi không được điều đó.
Theo truyền thống Do Thái, anh cùi còn sống trong mặc cảm tội lỗi
vì theo họ bệnh tật là dấu chỉ bị Thiên Chúa phạt. Có lẽ điều này mới làm cho
anh cùi khổ tâm nhiều nhất vì không biết mình đã làm điều chi nên tội. Giống
như một người ôm nỗi oan ức mà không thể có đường nào để phân bua, để biện hộ,
chỉ còn biết đợi có ai đó đến để giải oan hoặc thông cảm cho mình.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, con thấy anh cùi được chữa lành là nhờ
hai yếu tố: nỗ lực giải phóng bản thân và tình thương của Chúa. Chắc chắn anh
ta đã nghe ngóng nhiều về một ông Giêsu nào đó. Mà đâu được nghe rõ đâu, vì anh
ta chỉ đứng xa xa, hoặc góc khuất nào đó để quan sát hoặc nghe người ta bàn tán
thôi. Sự tìm kiếm này có lẽ đã lâu lắm rồi hôm nay mới được gặp gỡ. Khi có cơ
hội, anh ta còn phải can đảm vượt lên chính mình, vượt lên rào cản của xã hội
để chạy thẳng đến với Chúa Giêsu, điều tối kỵ đối với người Do Thái. Thật cảm
động, anh ta bái lạy Chúa Giêsu, điều người Do Thái chỉ dành cho Thiên Chúa của
họ mà thôi. Vì vậy trong thâm tâm, anh cùi đã nhìn nhận Chúa Giêsu như một vị
Thiên Chúa. Anh ta thốt lên: “Thưa Ngài nếu Ngài muốn Ngài có thể làm
cho tôi được sạch” (Mt 8,2b).
Khi chứng kiến thái độ của anh ta, khi nghe những lời tha thiết
chân thành của anh ta, Chúa Giêsu đã không ngần ngại làm một phép lạ cho anh ta
được sạch. Đó là tình thương của Chúa. Tình thương đó còn được biểu lộ qua việc
Chúa làm hơn những gì anh cùi mong đợi. Anh cùi chỉ cần Chúa cho anh ta được
sạch thôi, có nghĩa là anh tin Ngài có thể phán một lời là mình hết phong cùi.
Chẳng những Chúa nói, mà Chúa còn: “giơ tay đụng vào anh ta” (Mt 8,3). Chắc
những người Do Thái đứng xung quanh đó có một phen hết hồn vì Chúa làm một việc
thật khủng khiếp: đụng vào người cùi.
Lạy Chúa, hình ảnh anh cùi chính là biểu tượng của chính bản thân
con.
§ Có những lúc trong cuộc sống con mặc một thứ bệnh
cùi của tâm hồn, chính là những tội lỗi, những bất xứng của con.
§ Có những lúc con bị người ta loại trừ, chê bai,
khinh ghét.
§ Có những lúc con bị hiểu lầm mà không thể nào biện
minh được, chỉ biết cắn răng chịu đựng chờ đợi Chúa minh oan cho con…
Lạy Chúa, những lúc đó con cần Chúa. Con cần Chúa đến để cho con
niềm hy vọng, cho con sự giải thoát, và nhất là cho con được nghỉ ngơi bên
Chúa.
Xin Chúa thêm sức để con biết vượt qua những căn bệnh phong cùi
thiêng liêng vẫn diễn ra trong con người của con. Amen.
Lm. Thiện Duy
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Sáu
28 THÁNG SÁU
Sự
Quan Phòng Của Thiên Chúa: Một Xác Nhận Nền Tảng
Việc tách biệt công cuộc sáng tạo khỏi sự quan phòng thần linh
(thuyết tự nhiên thần giáo) và việc phủ nhận hoàn toàn sự hiện hữu của Thiên
Chúa (thuyết duy vật) mở ngõ cho sự sai lầm của thuyết tất định duy vật
(materialistic determinism). Ở đây con người và đời sống của con người trở
thành hoàn toàn phụ thuộc vào một tiến trình phi ngã. Đối đầu với những tấn
công này, chân lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về sự quan phòng thần linh của
Ngài giúp bảo đảm cho con người sự tự do và chỗ đứng của mình trong vũ trụ.
Chúng ta nhận thấy sự thật này được khẳng định trong Cựu Ước. Chẳng
hạn, Thiên Chúa được xem như một sự đỡ nâng mạnh mẽ và không gì có thể tiêu diệt
được: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là
thành lũy, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con
trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ!” (Tv 18,
2-3). Thiên Chúa là nền tảng vững chắc để con người có thể tựa vào, như lời tác
giả thánh vịnh thốt lên đầy xác tín: “Lạy Chúa, số mạng con, chính Ngài nắm giữ”
(Tv 16, 5).
Sự quan phòng của Thiên Chúa là lời xác nhận hùng hồn của Ngài đối
với tạo vật, nhất là đối với con người – triều thiên của mọi tạo vật. Sự quan
phòng ấy đảm bảo quyền cai quản tối cao của con người trong thế giới này. Điều
này không có nghĩa rằng các qui luật tự nhiên bị quyền cai quản tối cao của con
người xóa bỏ. Trái lại, nó có nghĩa rằng chúng ta phải loại trừ thuyết tất định
duy vật kia – một chủ thuyết giảm trừ toàn bộ sự hiện hữu của con người đến chỉ
còn như một cái gì hoàn toàn tất định. Trong thực tế, một cái nhìn như vậy sẽ hủy
diệt sự tự do chọn lựa của con người.
Thiên Chúa – trong sự quan phòng của Ngài – chính là sự đỡ nâng
tối thượng cho sự tự do của chúng ta. Đó là điều tốt lành và quí hóa biết bao!
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 28-6
Thánh Irênê, giám mục tử đạo
St 17,1.9-10.15-22; Mt 8, 1-4
LỜI
SUY NIỆM: Trong câu chuyện người mắc bệnh phong bái lạy Chúa Giêsu, xin được chữa
lành. “Người giơ tay đụng vào anh và bảo: ‘Tôi muốn, anh sạch đi.’ Lập tức, anh
được sạch bệnh phong.” (Mt 8,3)
Trong thời Chúa Giêsu, người Do-thái có
luật không được tiếp xúc hay chạm đến người mắc bệnh phong, nếu vi phạm đều bị
ô-uế và bị loại ra khỏi cộng đoàn. Chúa Giêsu đã vì tình yêu, và với quyền năng
của Ngài, Ngài đã cứu chữa người bị bệnh phong với cử chỉ là đã đụng vào anh
ta. Điều này giúp cho chúng ta thấy được mọi sự kêu cứu Ngài, và được Ngài đụng
chạm đến, thì người đó có sự biến đổi nên tốt. Ước gì trong cuộc sống của chúng
ta luôn chạy đến kêu cứu Ngài, để được Ngài biến đổi đời sống của chúng ta mỗi
ngày thêm tốt hơn.
Mạnh Phương
Gương Thánh nhân
Ngày 28-06
Thánh IRENÊ
Gíam mục, Tử Đạo (Thế kỷ II)
Thánh Irenê sinh tại Tiểu Á và giữa thế kỷ II. Chúng ta biết được
phần nào ngày sinh của Ngài, dựa vào bản tường thuật Ngài viết về thánh
Policarpô. Ngài viết cho Flôrinô:
- "Tôi có thể nói với ông nơi thánh Pôlicarpô ngồi khi Ngài
rao giảng lời Chúa, tôi được thấy Người ra vào. Bước chân, phong thái, cách sống
và lời Ngài nói in sâu vào lòng tôi. Tôi như còn nghe thấy Người kể lại cách
người đàm luận với thánh Gioan và các tông đồ khác đã thấy mặt Chúa. Người nói
lại cho chúng tôi những lời nói và những điều các Ngài đã học được liên quan đến
Chúa Giêsu. Các phép lạ và giáo thuyết của Chúa.
Thánh Irenê còn phấn khởi ghi thêm: - "Tôi ghi nhận các
hành vi và lời nói ấy không phải trên bảng viết mà là trong sâu thẳm tâm hồn.
Thiên Chúa cho tôi được ơn không ngừng nhớ lại những kỷ niệm ấy trong
lòng".
Như vậy, thánh Irenê luôn nhớ mãi hình ảnh sống động của thánh
Policarpô qua đời năm 155. Vậy có thể là thánh Irenê ra đời khoảng từ năm 130 đến
135, và Ngài được giáo dục tại Smyrna, làm môn đồ của thánh Pôlicarpô. Hấp thụ
nền giáo dục gần với các tông đồ. Nhất là với thánh Gioan, thánh Irenê còn ở
trong vòng ánh sáng mà tâm điểm là tình yêu đằm thắm giữa thánh Gioan với Chúa
Kitô. Trong tác phẩm dài "Adversus Haereses" của Ngài. Chúng ta cảm
thấy Ngài là người được thấm nhiễm một trực giác hiếm có.
Thánh Pôlicarpô gọi Irênê sang Gaule. Tại đây thánh Pôthinô,
giám mục Lyon phong chức linh mục cho Ngài. Phần đóng góp của thánh Irenê cho
Giáo hội thật lớn. Ngài chú tâm tới mọi khoa học, chuyên cần suy gẫm thánh
kinh. Khi nghiên cứu huyền thoại và các hệ thống triết học ngại giáo, Ngài biết
tìm ra nguồn gốc các sai lầm và bác bỏ các lạc thuyết pha trộn huyền thoại vào
Kitô giáo. Tertulianô đã tuyên nhận rằng không có ai nỗ lực tìm tòi hơn là
thánh Irênê. Thánh Hiêrônimô, nại đến thánh nhân để củng xố uy tín của mình.
Ngài được coi như là ánh sáng các vùng Gaules ở Phương Tây.
Năm 177, thánh Irenê được cử làm đại diện về Rôma, bên cạnh Đức
giáo hoàng để thực hiện một sứ mệnh tế nhị là dàn xếp ngày mừng lễ phục sinh
Trở lại Lyon, thánh Irênê gặp lại một giáo đoàn côi cút. Marcô
Aureliô vừa mới giết hại các Kitô hữu. Đức cha Pothinô đã bị sát hại. Thánh
Irenê được bầu lên kế vị. Ngài trở thành thủ lãnh Giáo hội tại xứ Gaule, bận rộn
với công việc rao giảng, thánh nhân vẫn viết sách để chống đỡ chân lý. Ngài phải
chiến đấu không ngừng, bởi vì cuộc bách hại tưởng chấm dứt khi Marcô Aureliô
qua đời, nhưng các lạc giáo lại nổi lên chống phá Giáo hội.
Thánh Irenê dùng hết tâm trí và đức tin chống lại các lạc thuyết
nhưng vẫn yêu thương những lẻ lầm lạc, Ngài cầu nguyện cho họ van nài họ trở về
với Giáo hội thật :
- "Hợp nhất với Chúa là sự sống và là Sự sống .... Khốn khổ
cho ai lìa xa sự hợp nhất ấy. Hình phạt đổ xuống họ không phải do Thiên Chúa mà
do chính họ, vì khi chọn quay mặt khỏi Thiên Chúa, họ đánh mất mọi tài sản".
Các tác phẩm lừng danh Ngài đã soạn khiến cho Ngài đang được gọi
là "Anh sáng bên trời Tây".
Dưới sự dẫn dắt của thánh Irênê, Lyon đã trở thành một trường dạy
phụng sự Chúa đào tạo nhà tri thức và có khả năng truyền giáo. Thế hệ đầu tiên
của trường đã bảo vệ đức tin tinh tuyền bằng những nghiên cứu và sách vở của họ.
Thế hệ thứ hai phổ biến Tin Mừng đến những miền khác.
Hoàng đế Seltinô - Severô tái diễn cuộc bách hại. Ông gia hình
cho đến chết những ai kiên trì với đức tin. Lyon là thành phố diễn ra cuộc hãm
xác tập thể các Kitô hữu thật khủng khiếp. Máu chảy thành suối trên đường phố
tiếp nối dòng máu các giám mục tử đạo, thánh Irênê, cũng bị hạ sát với đàn
chiên mình. Một tài liệu cố tìm được cho thấy có đến 19 ngàn Kitô hữu cùng chịu
khổ chịu chết vì đạo với Ngài.
(daminhvn.net)
28 Tháng Sáu
Ngợi Khen Con Người
Trong tập thơ có tựa đề "Nhật ký", nữ thi sĩ công
giáo Pháp là Marie Noel đã tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Hôm đó là
ngày cuối năm. Từ trên Thiên Quốc nhìn xuống dương trần, Chúa thấy dân chúng đổ
xô về một ngôi nhà thờ đổ nát, không có chuông, cũng chẳng có tháp chuông. Vị
linh mục già đành phải khua mõ vào bất cứ đồ vật nào có thể gây ra tiếng vang để
giục giã dân chúng đến giáo đường đọc Kinh "Te Deum" ngợi khen Cúa
nhân ngày cuối năm.
Trời mưa lạnh như cắt. Vậy mà, từ khắp nơi trong xóm giáo,
người ta vẫn đổ xô về ngôi giáo đường. Chúa theo dõi từng cử động một của một
người đàn bà đơn độc mà ngôi nhà vừa bị thiêu rụi trong một trận hỏa hoạn. Chúa
lại nhìn thấy một thiếu phụ mà cách đó không lâu bọn Ðức Quốc Xã đã tước đoạt mọi
tài sản. Một người đàn bà khác, mà chồng đã bị giết trước mắt, cũng lặng lẽ tiến
đến nhà thờ. Có cả thiếu phụ mất con mà người ta không tìm ra tung tích. Có cả
người đàn ông mà vợ và con bị chôn vùi dưới đống gạch vụn... Còn bao nhiêu người
khốn khổ khác nữa. Họ không biết đi đâu, họ không có gì để ăn bởi vì quân thù
đã đốt phá và cướp đi tất cả những lương thực dự trữ.
Vậy mà những người khốn khổ ấy có mặt đày đủ trong ngôi
giáo đường. Có một vài tiếng khóc. Nhưng tất cả đều cất tiếng hát bài "Te
Deum" ngợi khen Chúa trong ngày cuối năm vì những ơn huệ Ngài ban trong
năm qua.
Nhìn thấy cảnh tượng ấy cũng như lắng nghe lời ca ngợi của
những con người khốn khổ, Thiên Chúa vô cùng cảm động. Ngài nói với các Thiên
Thần như sau: "Quả thực, quả thực, Ta bảo các ngươi: con người là loài thụ
tạo thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám người đáng thương kia. Cách đây
12 tháng, họ đã phó dâng cho Ta cả năm để được hạnh phúc, an khang. Vậy mà tai
ương và thảm sầu đã xảy đến với họ... Họ đã kêu cầu bình an, nhưng chiến tranh
đã đè bẹp họ. Họ đã xin lương thực hằng ngày, nhưng họ chỉ toàn gặp là đói
khát. Họ đã phó dâng cho ta gia đình, người thân và tổ quốc của họ, nhưng tổ quốc,
gia đình và người thân của họ lại bị xâu xé trăm bề. Dĩ nhiên, Ta có những lý
do riêng của Ta... Ta không thể thanh tẩy thế giới mà không thể thử thách nó
như thời Noe. Nhưng đây là công việc của một Thiên Chúa, không ai có thể hiểu
được việc Thiên Chúa làm. Nhưng con người lại phải gánh chịu mọi sự. Vậy mà họ
vẫn tiếp tục ngợi khen và cảm tạ Ta cứ như Ta đã bảo vệ họ trong từng phút giây
của cuộc sống họ... Quả thực, lòng tin của họ lớn lao... Các ngươi có nghe họ
hát "Thánh, thánh" với tất cả trang trọng không? Hỡi các Thiên Thần
và các Thánh, nào các ngươi hãy hát lên một bài ca để tôn vinh những ai, mặc dù
gặp gian lao khốn khó, vẫn lên tiếng tôn vinh Ta".
Nói xong, Thiên Chúa cùng với các thần thánh trên trời cất
lên bài ca "Ngợi khen con người".
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài không thể không say mê con người,
Ngài không thể không chung thủy với con người. Giữa muôn ngàn khó khăn của cuộc
sống hiện tại và những khắc khoải lo âu cho tương lai, chúng ta hãy tiếp tục
dâng trọn niềm tín thác cho Thiên Chúa.
Tin tưởng ở tình yêu Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng ở tình người.
Tình người dù có bội bạc, mỗi một con người, dù có đốn mạt, xấu xa đến đâu,
cũng vẫn còn chất chứa trong đáy thẳm tâm hồn mình vẻ đẹp cao vời phản ảnh
chính tình yêu của Thiên Chúa. Ðáp lại với những phản trắc lừa đảo, đáp lại với
những thấp hèn đê tiện, người có niềm tin nơi Thiên Chúa và tin ở tình người
hãy giữ mãi nụ cười của cảm thông, tha thứ và yêu thương.
(Lẽ Sống)
Thứ Sáu 28-6
Thánh Irenaeus
(130?-220)
C
|
ác văn bản của Thánh
Irenaeus giúp ngài có một địa vị cao trọng trong các giáo phụ của Giáo Hội, vì
các tư tưởng ấy không những giúp hình thành nền tảng thần học Kitô Giáo mà còn
phô bầy và bài bác các sai lầm của phe Gnostic, gìn giữ được đức tin Công Giáo
khỏi những nguy hiểm của lạc thuyết.
Có lẽ ngài sinh vào
khoảng năm 125, trong một vùng ven biển của Tiểu Á là nơi có đông người Kitô
Giáo và ký ức về các tông đồ vẫn còn được trân quý. Ngài chịu ảnh hưởng rất
nhiều của Thánh Polycarp là người đã từng được gặp các tông đồ hoặc các môn đệ
trực tiếp của các ngài.
Khi các linh mục và nhà
thừa sai người Á Châu đem tin mừng đến cho người Gaul và thiết lập một giáo hội
địa phương ở Lyon, Thánh Irenaeus đã phục vụ ở giáo phận này dưới quyền vị giám
mục đầu tiên là Thánh Pothinus. Vào năm 177, Irenaeus được sai đến Rôma, vì thế
ngài không được phúc tử đạo như Ðức Pothinus trong thời kỳ bách hại ở Lyons.
Khi trở về, ngài kế vị đức giám mục trông coi giáo phận.
Vào lúc ấy, tuy sự bách
hại không còn nhưng lạc thuyết Gnostic tràn lan khắp xứ Gaul. Khi thấy các Kitô
Hữu bị ảnh hưởng nặng nề bởi lạc thuyết, ngài biết việc phải làm là phô bầy các
lầm lạc của phe Gnostic. Ngài viết năm cuốn sách mà trong đó nêu ra các sai lầm
nội tại của các lạc thuyết, đồng thời so sánh các thuyết ấy với Kinh Thánh và
giáo huấn của các Tông Ðồ. Công trình này, được viết bằng tiếng Hy Lạp mà ngay
sau đó được dịch sang tiếng La tinh, được lưu hành rộng rãi và rất thành công
trong việc đối phó với phe Gnostic. Từ đó trở đi, ở bất cứ cấp độ nào, lạc
thuyết Gnostic không còn là một đe dọa đối với đức tin Công Giáo.
Một nhóm Kitô Hữu ở Tiểu
Á bị Ðức Giáo Hoàng Victor III ra vạ tuyệt thông vì họ không chấp nhận ngày
tháng cử hành lễ Phục Sinh của Giáo Hội Tây Phương. Thánh Irenaeus đã can thiệp
với đức giáo hoàng để rút lại hình phạt này, ngài cho thấy đó không phải là vấn
đề quan trọng vì họ theo thói quen cũ mà Ðức Polycarp và Ðức Giáo Hoàng
Anicetus không coi đó là sự chia cắt trong Giáo Hội. Ðức giáo hoàng đã phản ứng
cách thuận lợi và hàn gắn được sự bất hòa.
Người ta không rõ Thánh
Irenaeus từ trần vào lúc nào, nhưng tin là vào năm 202. Thi hài của ngài được
chôn trong hầm mộ trong cung thánh của nhà thờ Thánh Gioan, và sau đó được đổi
tên là Thánh Irenaeus. Vào năm 1562, nhà thờ và hầm mộ của ngài bị phe Calvin
tiêu hủy, mọi thánh tích của ngài dường như cũng tiêu tan.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét