09/06/2014
Thứ Hai sau Chúa Nhật
10 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm II) 1 V 17, 1-6
"Êlia
đứng trước tôn nhan Chúa, Thiên Chúa Israel".
Trích
sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong
những ngày ấy, Êlia người Thesbê thuộc miền Galaad, tâu vua Acáp rằng: "Có
Chúa là Ðấng hằng sống, Thiên Chúa dân Israel, mà tôi đứng trước tôn nhan! Trong
những năm sắp tới, sẽ không có sương mà cũng không có mưa, nếu tôi không ra lệnh".
Và Chúa đã phán cùng Êlia như sau: "Ngươi hãy bỏ nơi này, đi về hướng đông
và ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Nơi đây ngươi sẽ uống nước suối,
và Ta đã truyền cho chim quạ nuôi ngươi". Vậy ông trẩy đi và làm như lời
Chúa dạy. Ông đến ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Sáng sớm quạ
đem cho ông bánh và thịt; ban chiều quạ cũng lại đem cho ông bánh và thịt, và
ông uống nước suối.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 120, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Ơn phù trợ của
tôi do nơi danh Chúa, là Ðấng đã tạo thành đất với trời (c. 2).
Xướng:
1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới?
Ơn phù trợ của tôi do nơi danh Chúa, là Ðấng đã tạo thành đất với trời. - Ðáp.
2)
Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té, Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ
say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say. - Ðáp.
3)
Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ
không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm. -
Ðáp.
4)
Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến, Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi.
Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi, khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. -
Ðáp.
Alleluia:
1 Sm 3, 9
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có
lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 5, 1-12
"Phúc
cho những ai có tinh thần nghèo khó".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống,
các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc cho những
ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền
lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ
sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no
thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. -
Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc
cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những
ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".
"Phúc
cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu
khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng
của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri
trước các con như vậy".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm
:
Tám
mối phúc thật
Có lẽ người Công giáo nào
cũng thuộc nằm lòng Tám Mối Phúc Thật, và có lẽ nhiều người ngoài Kitô giáo
cũng đã ít hay nhiều nghe nói đến bản Hiến Chương này. Cũng giống như bản thân
Chúa Giêsu, Tám Mối Phúc Thật là dấu chỉ của sự mâu thuẫn. Nếu đối với người
Công giáo và nhiều bậc vĩ nhân của nhân loại, Tám Mối Phúc Thật là nguồn cảm
hứng cho cuộc sống cao thượng; thì đối với một số người khác, như triết gia
Nietzsch chẳng hạn, Tám Mối Phúc Thật chỉ là một lô những đức tính của loài
vật, bởi vì chỉ có loài vật mới cúi đầu khuất phục và nhẫn nhục chịu đựng; đối
với một số khác nữa, Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời hứa hão về một thứ
thiên đàng ảo tưởng, hay nói theo ngôn ngữ của Karl Marx, đó chỉ là thuốc phiện
ru ngủ quần chúng. Vậy đâu là tinh thần đích thực của Tám Mối Phúc Thật?
Bản văn Giáo Hội cho chúng ta lắng
nghe hôm nay là của thánh Mátthêu. Chúa Giêsu chỉ công bố Tám Mối Phúc Thật một
lần duy nhất, nhưng được hai tác giả ghi lại; dĩ nhiên, với hai cái nhìn khác
nhau nhưng bổ túc cho nhau. Cái nhìn của Luca có tính xã hội: Luca giải thích
các mối phúc thật dưới ánh sáng giáo huấn của Chúa Giêsu về nghèo khó và việc
sử dụng của cải trần thế, để từ đó đề cao giai cấp những người nghèo khổ trong
xã hội; với Luca, những người nghèo thật sự là những tín hữu tiên khởi của Giáo
Hội. Trái lại, Mátthêu quan tâm đến khía cạnh luân lý nhiều hơn: nếu Luca đề
cao giai cấp cùng khổ, thì Mátthêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó:
"Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó", do đó theo Mátthêu, con người
vào được Nước Trời không đương nhiên vì tình trạng nghèo khó, mà vì thái độ
tinh thần của họ; cũng trong cái nhìn ấy, Mátthêu đáng giá về sự đói khát: nếu
Luca nói đến những nạn nhân của bất công, tức những người đói khát cơm bánh
thực sự, thì Mátthêu lại nhấn mạnh đến sự đói khát công lý nơi con người.
Tổng hợp hai cái nhìn khác nhau của
Luca và Mátthêu, chúng ta có thể đưa ra bài học về sứ mệnh của Giáo Hội trong
trần thế. Nước Chúa mà Giáo Hội loan báo không chỉ là Thiên Ðàng trong thế giới
mai hậu, nhưng đang đến trong cuộc sống tại thế này, qua những giá trị như công
bình bác ái, huynh đệ, liên đới. Chính trong những thực tại trần thế mà con
người phải tìm kiếm và xây dựng những thực tại Nước Trời.
Niềm tin của người Kitô hữu thiết
yếu hướng về cuộc sống mai hậu: mọi nỗ lực của người Kitô hữu nhằm minh chứng
cho mọi người về tính cách siêu việt của cuộc sống và định mệnh của con người.
Sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, sống giữa thế gian, nhưng
con người phải nhìn về Quê hương đích thực là Thiên Quốc. Tuy nhiên, niềm tin
hướng về cuộc sống mai hậu ấy không thể làm cho người Kitô hữu xao lãng với
những nhiệm vụ trần thế của họ. Họ phải xác tín rằng chính qua những thực tại
trần thế, họ mới có thể gặp được những giá trị của Nước Trời; chính qua những
thực tại trần thế, họ mới đạt được cứu cánh vĩnh cửu của họ. Ðây quả là một
thách đố lớn lao cho người Kitô hữu ở mọi thời.
Một trong những nguyên nhân khiến
người Kitô hữu bị bách hại là bởi vì con người không hiểu được sứ điệp của Tin
Mừng. Chúa Giêsu đã bị chống đối và cuối cùng bị treo trên Thập giá là bởi vì
những người đương thời không hiểu được sứ điệp và con người của Ngài. Ðó cũng
chính là thân phận của người Kitô hữu trong trần thế, nhưng chính khi bị bách
hại mà vẫn kiên trì trong niềm tin của mình, người Kitô hữu mới thể hiện được ý
nghĩa sứ điệp của Tin Mừng.
Chúa Giêsu đã chẳng nói: khi nào Ta
bị giương cao, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta sao? Ðó là sức mạnh và nét hấp
dẫn của Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu không chỉ rao giảng, mà còn thể hiện
cho đến cùng. Chết để cho sứ điệp Tin Mừng được đón nhận, đó là nghịch lý của
Tám Mối Phúc Thật. Cái chết ấy được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của
người Kitô hữu, nghĩa là hăng say phục vụ, sống quảng đại, liêm khiết, sống bác
ái yêu thương, ngay cả chấp nhận những thua thiệt miễn là không đánh mất niềm
tin của mình.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 10 Thường
Niên, Năm Chẵn
Bài đọc: 1 Kgs 17:1-6; Mt
5:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin tưởng nơi tình
yêu của Thiên Chúa quan phòng.
Mọi
sự trong thế giới là của Thiên Chúa vì Ngại dựng nên tất cả cho con người hưởng
dùng trong những ngày họ sống trong thế gian; nhưng rất nhiều người, thay vì biết
cám ơn Thiên Chúa đã ban cho, lại coi những gì mình có là do sức lực và tài
khéo của mình, thay vì thờ phượng Người đã dựng nên tất cả lại quay sang thờ
phượng những thứ Người đó tạo nên. Tiên tri Isaiah so sánh những người như thế
còn thua cả loài vật, vì: “Con bò còn biết chủ, con lừa còn biết cái máng cỏ
nhà chủ nó. Nhưng Israel thì không biết, dân Ta chẳng hiểu gì” (Isa 1:3).
Các
bài đọc hôm nay muốn nhắc nhở cho con người biết hạnh phúc thật không phải là ở
sự hưởng thụ vật chất; nhưng là ở chỗ tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa
quan phòng. Trong bài đọc I, ngôn sứ Elijah truyền lệnh đóng cửa trời. Mục đích
là để cho dân nhận ra sự cần thiết của Thiên Chúa và quay trở về với Ngài.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tóm tắt đạo lý của Người trong Bát Phúc; những gì con
người phải làm để được Thiên Chúa chúc phúc.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Trong những năm sắp tới, sẽ chẳng có mưa, có sương, nếu tôi không ra lệnh.
1.1/
Lệnh truyền của tiên tri Elijah: Tiên tri tức giận vì nhà vua và dân chúng đã rời xa
Thiên Chúa, vì muốn cho họ mở mắt nhìn thấy đâu là Thiên Chúa thật, ông nói với
vua Ahab của Israel rằng: "Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của Israel, Đấng
tôi phục vụ: trong những năm sắp tới, sẽ chẳng có mưa, có sương, nếu tôi không
ra lệnh."
Thiên
Chúa không những dựng nên cây cối và hạt giống làm thức ăn cho muôn loài, Người
còn quan phòng cho mưa nắng, sương gió giúp hạt giống nẩy mầm và tăng trưởng. Nếu
thiếu những yếu tố này, hạt giống sẽ không thể mang lại cho con người lương thực.
Để giúp nhà vua và con cái Israel nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa, tiên
tri được Thiên Chúa cho quyền năng “đóng cửa trời,” để không có mưa hay sương
rơi xuống trên mặt đất cho tới khi tiên tri truyền lệnh lại.
Không
có mưa hay sương, con người và thú vật sẽ chết vì khát, cây cỏ sẽ khô héo và
không sinh lương thực, con người và thú vật sẽ chết vì đói. Tiên tri hy vọng
khi con người phải đối diện với nguy hiểm chết vì đói khát, họ sẽ nhận ra sự cần
thiết của Thiên Chúa và tin tưởng nơi Ngài.
1.2/
Thiên Chúa quan phòng cho Elijah: Khi không có mưa sương rơi xuống, cả tiên tri Elijah
cũng bị ảnh hưởng, nhưng ông tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên
Chúa biết chỗ nào có nước để tiên tri có nước uống: “Ngươi hãy bỏ đây đi về
phía đông, và ẩn mình trong thung lũng Cherith, phía đông sông Jordan. Ngươi sẽ
uống nước suối.” Về thức ăn: “Ta đã truyền cho quạ nuôi ngươi ở đấy." Ông
ra đi và làm như Đức Chúa truyền: là đến ở thung lũng Cherith, phía đông sông
Jordan. Buổi sáng, quạ mang bánh và thịt cho ông; rồi buổi chiều, cũng mang
bánh và thịt cho ông. Ông uống nước suối.
Trình thuật trong Sách Các Vua dạy chúng ta bài học: Nếu con người không biết nhận ra và cám ơn những ân huệ Thiên Chúa đã làm, Ngài sẽ cất đi và con người sẽ chết; nhưng nếu con người nhận ra và tin tưởng nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ có cách nuôi dưỡng con người ngay cả trong khi hạn hán, đói khát.
Trình thuật trong Sách Các Vua dạy chúng ta bài học: Nếu con người không biết nhận ra và cám ơn những ân huệ Thiên Chúa đã làm, Ngài sẽ cất đi và con người sẽ chết; nhưng nếu con người nhận ra và tin tưởng nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ có cách nuôi dưỡng con người ngay cả trong khi hạn hán, đói khát.
2/
Phúc Âm:
Người có phúc là người biết trông cậy hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Có
thể nói Bát Phúc là tóm tắt tất cả những gì Chúa Giêsu dạy dỗ con người trong
những ngày Ngài rao giảng ở trần gian. Có thể tóm tắt Bát Phúc vào ba điều
chính theo chủ đề hôm nay. Con người cần phải tin tưởng hoàn toàn vào sự quan
phòng của Thiên Chúa.
2.1/
Trong khi thiếu thốn vật chất: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” Có
nhiều cách giải thích về cụm từ “tâm hồn nghèo khó.” Trước tiên, chúng ta không
thể giản lược vào thiếu thốn vật chất; nhưng rất nhiều lần Chúa Giêsu tuyên bố
người giầu có rất khó vào Nước Trời. Lý do đơn giản khi con người có đầy đủ mọi
thứ, họ có khuynh hướng không cần Thiên Chúa; tối ngày chỉ lo kiếm nhiều tiền,
và khi có nhiều tiền lại tìm kiếm hưởng thụ. Dĩ nhiên Chúa không cổ động lối sống
nghèo đến độ không có của ăn nhà ở, con người cần có những thứ căn bản ổn định
trước khi có thể phát triển tinh thần. Thứ hai, có người giầu nhưng biết dùng của
cải Chúa ban để phân phát cho người nghèo, ủng hộ vào các chương trình phát triển
hay nuôi dưỡng ơn gọi, hay mở rộng nhà cửa để tiếp đón những nhà truyền giáo.
Có lẽ điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến ở đây là có lòng trông cậy vào sự quan
phòng của Thiên Chúa trong mọi sự, chứ không thuần nhất chỉ của cải vật chất mà
thôi.
2.2/
Trong khi thiếu thốn tinh thần: Hiền lành không có nghĩa khờ khạo để cho người khác
muốn làm gì thì làm; nhưng phải biết khi nào và cách thức phản ứng để đạt được
kết quả tốt đẹp như ý Thiên Chúa muốn. Trên đường nhân đức, người khao khát được
trở nên người công chính là người dễ đạt tới đỉnh trọn lành, vì nếu coi thường
hay xem nó không quan trọng, làm sao người đó chịu bỏ công sức để tập luyện!
Xót thương tha nhân là điều kiện Chúa đòi để được Chúa xót thương. Ai không có
lòng thương xót anh em mình, làm sao dám cầu xin lòng thương xót của Thiên
Chúa. Ơn Phúc Kiến, nhìn thấy Thiên Chúa tỏ tường là mục đích của cuộc đời. Điều
kiện Thiên Chúa đòi là tâm hồn trong sạch. Chữ trong sạch ở đây hiểu là “nguyên
chất,” không pha trộn với điều gì khác. Nếu hiểu như thế, trong sạch không chỉ
giản lược vào phạm vi tình dục; nhưng bao gồm tất cả các mong ước bất chính. Bình
an là quà tặng Thiên Chúa ban cho những ai đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào
Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Xây dựng bình an là giúp cho con
người hoàn toàn tin nơi Thiên Chúa.
2.3/
Trong khi chịu đau khổ: Khi
con người chịu đau khổ, họ có thể rơi vào một trong hay trạng thái: (1) than
thân trách Thiên Chúa và mất niềm tin tưởng nơi Ngài; (2) nâng tâm hồn lên
Thiên Chúa để xin Ngài ghé mắt nhìn tới. Con người dễ hướng lòng lên Thiên Chúa
khi thiếu thốn đau khổ hơn là khi sung sướng hạnh phúc. Nhiều thánh mong ước được
chịu đau khổ để họ được cảm thấy sự ủi an của Thiên Chúa. Đau khổ vì chính đạo
là cơ hội cho con người chứng tỏ niềm tin yêu của họ nơi Thiên Chúa. Khi có dịp
để chịu đau khổ vì Chúa, các tín hữu phải hãnh diện vì được thông phần vào Cuộc
Thương Khó của Chúa Giêsu, và cũng sẽ được thông phần vào vinh quang của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Vật chất chỉ là những phương tiện của cuộc sống không phải là đích điểm của cuộc
đời. Chúng ta đừng vì vật chất mà sống xa Thiên Chúa.
-
Chỉ một mình Thiên Chúa mới làm đầy những khao khát hạnh phúc của con người. Để
chiếm hữu Thiên Chúa, con người cần khao khát tập luyện các nhân đức.
-
Đau khổ vì chính đạo là cơ hội cho chúng ta biểu tỏ đức tin vào Thiên Chúa. Nếu
chúng ta ao ước được chịu đau khổ với Đức Kitô, Ngài sẽ cho chúng ta cùng hưởng
vinh quang với Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 10 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 5,1-12
* Đặt trong sơ đồ chung của Tin Mừng Mt :
Bắt đầu từ hôm nay, Phụng vụ chọn đọc Tin Mừng
theo Thánh Mát-thêu.
Các bài Tin Mừng từ hôm nay đến Thứ Sáu tuần
XII (tức các chương 5-7) nằm trong Bài giảng trên núi, trong đó Chúa Giêsu công
bố những giáo lý then chốt của Ngài để ai sống theo thì sẽ được vào Nước Trời.
A. Hạt giống...
Người ta đã quen gọi đây là bản hiến chương Nước
Trời. Nước Trời là nước hạnh phúc. Muốn vào nước đó phải có 8 đức tính căn bản
là :
1/ Tâm hồn nghèo
2/ Hiền lành
3/ Sầu khổ
4/ Khao khát nên người công chính
5/ Xót thương người
6/ Tâm hồn trong sạch
7/ Xây dựng hoà bình
8/ Chịu bách hại vì sống công chính
B.... nẩy mầm.
1. Có thể quy tất cả 8 đức tính ấy vào một đức
tính căn bản là "Tâm hồn nghèo". Người có tâm hồn nghèo là người :
. Mặt tiêu cực : không màng đến và không cậy dựa vào tiền bạc của cải, danh lợi
lạc thú trần gian, ăn thua hơn thiệt đời này... (nói cách khác : không màng đến
nước trần gian)
. Mặt tích cực : chỉ ước ao sống tốt theo ý Thiên Chúa và được hưởng những ơn
lành của Thiên Chúa (nói cách khác : được sống trong Nước Trời)
Vì căn bản hạnh phúc là có tâm hồn nghèo, nên có
thể nói : hạnh phúc đích thực của kitô hữu là vứt hết những gì mình có, để được
lấp đầy bằng chính Chúa.
2. Hạnh phúc là gì ? Xét cho cùng, hạnh phúc là
được sống đúng bản chất của mình. Con chim ở trong lồng son không hạnh phúc, nó
chỉ hạnh phúc khi được bay nhảy thoải mái như chim. Con cá chỉ hạnh phúc khi
được bơi lội như cá. Bản chất con người là được Thiên Chúa tạo dựng và được trở
về với Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa Giêsu dạy rằng hạnh phúc của con người là được
ở trong Nước Thiên Chúa.
3. Một hôm khi cầu nguyện, một Linh mục xin Chúa
cho tra vấn một tên quỷ :
- Nhân danh Chúa, ta hỏi mi : đâu là nơi hạnh
phúc nhất ?
- Dĩ nhiên là thiên đàng. Ôi, được nhìn thấy Chúa
là tất cả niềm hoan lạc. Nếu có lấy mọi vẻ đẹp của muôn vàn châu báu thế gian
và mọi tinh tú trong vũ trụ, rồi đem so sánh với vẻ đẹp của Chúa, thì tất cả
cũng chỉ là một con số không.
- Ngươi đã được hưởng tất cả những thứ đó, tại
sao ngươi đánh mất hạnh phúc thiên đàng ?
- Chỉ vì chúng tôi kiêu ngạo phản loạn. Khổ nỗi
là bây giờ đã quá muộn để hối hận. Lúc này dù phải chịu tất cả mọi cực hình hỏa
ngục gom lại cho riêng tôi, tôi cũng sẵn sàng đón nhận, miễn là sau đó tôi được
hưởng thiên đàng trong giây lát. Nhưng đã quá muộn rồi !
Thì ra ngay cả quỷ dữ cũng khao khát hạnh phúc.
(Chờ đợi Chúa)
4. "Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người
ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa" (Mt 5,11)
Ngày 19-6-1988, cả Giáo hội Việt Nam hân hoan vui
sướng vì 117 vị tử đạo đã được phong hiển thánh. Những nỗi đớn đau tủi nhục vì
Chúa Kitô của các ngài đã được chúc phúc.
Hôm nay, chúng ta cũng không thoát khỏi những khó
khăn, đớn đau và tủi nhục trong cuộc chiến cam go loại bỏ tật xấu, dứt khoát
với tội lỗi, hay những suy nghĩ tiêu cực nơi chính bản thân. Cuộc chiến ấy đòi
hỏi chúng ta phải can đảm.
Xin các thánh tử đao Việt Nam thông truyền cho
chúng con dòng máu bất khuất của các ngài và giúp chúng con biết chiếu tỏa tôn
nhan Thiên Chúa nơi chính con người và cuộc sống chúng con.
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
09/06/14 THỨ HAI TUẦN 10 TN
Th. Ép-rem, phó tế, tiến sĩ HT
Mt 5,1-12
Th. Ép-rem, phó tế, tiến sĩ HT
Mt 5,1-12
Suy niệm: Tác giả tập truyện thơ Cung Oán Ngâm Khúc cho
rằng tạo hoá chơi khăm khi tranh giành hạnh phúc của con người và đẩy họ vào
thảm cảnh bi đát: “Quyền
phúc hoạ trời tranh mất cả, chút tiện nghi chẳng trả phần ai!” Liệu Thiên Chúa chúng ta thờ – hoặc chúng ta
nghĩ như thế – có hành xử như tạo hoá của tác giả kia hay không? Hạnh phúc Chúa
hứa ban là hạnh phúc kiểu gì mà đến từ nghèo khó, sầu khổ, bách hại, vu khống
đủ điều…? Câu trả lời có giá trị chỉ có thể đến từ Chúa Giê-su và những ai đã
kinh qua nghèo khó, sầu khổ và bị bách hại như chính Ngài mà thôi. Nhờ Ngài mà
chúng ta có thể “vui
mừng hớn hở” vì “phần thưởng lớn lao” dành cho chúng ta trên trời là có thật.
Mời Bạn: Có
hạnh phúc nào đến với ta mà ta không phải trả giá bằng hy sinh, cố gắng hay
chưa? Không thể có hạnh phúc từ trên trời rơi xuống, cũng không thể có hạnh
phúc trên đau khổ của người khác. Gia đình hạnh phúc khi vợ chồng, cha mẹ con
cái biết hy sinh cho nhau, để đem lại cho nhau những điều tốt đẹp. Tôi được
hạnh phúc khi dám chấp nhận thiệt thòi về phía mình để cống hiến vì sự lợi ích
cao nhất cho tha nhân, nhất là cho những người bé mọn, nghèo hèn, bị bỏ rơi.
Sống Lời Chúa: Hãy
học với thánh Phan-xi-cô Khó Khăn, người đã thấm nhuần tinh thần Tin Mừng này: “Chính lúc chết đi là khi vui
sống muôn đời.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin giúp con kiên vững thực thi lời Chúa dạy, là
biết trở nên nghèo khó, hiền lành, nhu mì để chính con được hạnh phúc và làm
cho người khác cũng được hạnh phúc nữa.
Phúc thay
Chúng ta có thể viết thêm những mối phúc mới qua
những kinh nghiệm trong cuộc đời Kitô hữu. Có bao niềm vui lớn nhỏ mỗi ngày mà
ta cảm nhận khi sống lời dạy của Giêsu.
Suy niệm:
Đức
Đạt-lai Lạt-ma, vào mùa thu năm 1994 tại thủ đô nước Anh,
đã được
mời chia sẻ về giáo huấn của Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng.
Một
trong những bài chia sẻ đầu tiên là về các Mối Phúc.
Theo
ngài các Mối Phúc dường như nói về nghiệp (karma), về nhân quả.
“Nếu
bạn hành động như thế, thì bạn sẽ chịu hậu quả như thế.
Nếu bạn
không hành động như thế, thì bạn cũng chẳng chịu hậu quả như thế.
Vậy rõ
ràng nguyên lý nhân quả nằm ở trong giáo huấn của các Mối Phúc.”
Thật ra
các Mối Phúc của Kitô giáo lại không bắt nguồn từ nguyên lý nhân quả,
dù mới
đọc ta có cảm tưởng như vậy.
Các Mối
Phúc bắt đầu bằng chữ “Phúc thay”,
kế đến
nói lên ai là người được hưởng phúc ấy,
cuối
cùng nêu lên lý do hay nền tảng của hạnh phúc ấy bằng chữ “vì”.
Hạnh
phúc đích thật của người Kitô hữu không phải là “quả” tự nhiên
do
“nhân” là việc lành phúc đức của họ.
Dù sống
tốt đến mấy đi nữa, thì “nhân” ấy cũng không thể sinh “quả” ấy được.
“Quả”
hạnh phúc của Kitô giáo là quà tặng lớn của Thiên Chúa cho con người.
Điều
này được diễn tả qua những lối dùng động từ ở thể thụ động:
“sẽ
được ủi an, sẽ được no thỏa, sẽ được xót thương, sẽ được gọi.”
Trước khi giảng về các Mối Phúc, Đức Giêsu đã loan báo:
“Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt 4, 17).
Nước Trời người Do thái mong đợi đã đến với sự hiện diện của Đức Giêsu.
Quà tặng nhưng không của Thiên Chúa đã được trao ban,
chẳng phải do công sức của con người.
Hãy mở lòng ra đón lấy Nước ấy bằng cách hối cải, bỏ đời sống cũ.
Nhưng hơn thế nữa, còn phải đón nhận một lối sống mới cho phù hợp.
Bài giảng trên Núi, và các Mối Phúc, cho thấy hướng sống
của những ai muốn đón nhận quà tặng Nước Trời với bao hạnh phúc kèm theo.
Để nhận được quà tặng vô giá ấy, để được hưởng hạnh phúc vô bờ ấy,
cần cung kính đưa hai tay để đón lấy với lòng khiêm hạ và biết ơn.
Sống theo các Mối Phúc là có thái độ trân trọng cung kính ấy.
Không đưa tay thì cũng chẳng được quà.
Nhưng không phải cứ đưa tay là có quà,
nếu Thiên Chúa không muốn cho trước khi ta xin.
Kitô giáo không dựa trên nguyên lý nhân quả.
Cung kính đưa tay là sống nghèo khó, cậy dựa vào Thiên Chúa,
là hiền lành, là chịu sầu khổ, chịu bách hại vì Đức Kitô.
Cung kính đưa tay là có lòng thương xót, có tinh thần xây dựng hòa bình,
là làm tất cả mọi sự với quả tim trong sáng, không chút vẩn đục.
Khi làm như thế chúng ta hy vọng được chạm đến Thiên Chúa,
thậm chí được nếm biết Nước Trời ngay từ đời này (cc. 3. 10).
Chúng ta có thể viết thêm những mối phúc mới
qua những kinh nghiệm trong cuộc đời Kitô hữu.
Có bao niềm vui lớn nhỏ mỗi ngày mà ta cảm nhận khi sống lời dạy của Giêsu.
Chỉ khi
ấy ta mói thấy thật sự lời của Ngài là Tin Mừng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm
hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống
của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn
thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức
sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua
chúng con,
để những người chúng con
tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện
diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao
giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói
suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng
tá,
và bằng trái tim tràn đầy
tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
Ở đời luôn
có hai mặt thật và giả. Hạnh phúc cũng vậy. Có những thứ đem đến cho con người
hạnh phúc thật. Tuy nhiên cũng có những thứ chỉ đem đến cho con người hạnh phúc
giả tạo, không bền lâu. Điều nghịch lý là ai cũng mong muốn có được hạnh phúc
thật, nhưng rồi lại thích đi tìm những thứ chỉ mang đến hạnh phúc giả tạo,
chóng qua.
Xã hội
ngày nay, nhiều người cho rằng hạnh phúc là có 1,2,3,4,5: một là vợ đẹp, hai là
con ngoan, ba là nhà 3 tấm, bốn là xe 4 bánh và năm là du lịch 5 châu. Thế
nhưng thực tế cho thấy, khi đạt được những điều mong ước ấy, con người vẫn
không tìm thấy hạnh phúc thật.
Như thế
thì tiền bạc của cải, vật chất tiện nghi, đam mê lạc thú nơi trần gian không
lấp đầy được khát vọng sâu xa nơi cõi lòng con người và không là phương thế đưa
đến hạnh phúc thật. Vậy ta phải làm gì để có hạnh phúc thật?
Bài tin
mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết những phương cách để đạt đến
hạnh phúc đích thực thật. Đó chính là thực thi 8 mối phúc.
Điều đáng
nói là con đường 8 mối phúc mà Chúa Giêsu đề ra hình như đi ngược lại với suy
nghĩ thực tế của con người thời nay và lắm khi trở thành xa lạ ngay cả đối với
Kitô hữu chúng ta. Vì con người thời nay vẫn còn bám víu quá nhiều vào tiền
bạc, của cải, danh vọng... nên không dám chấp nhận những phương cách mà Chúa
Giêsu đề ra: là tinh thần khó nghèo, từ bỏ, đau khổ ngay cả hy sinh vì chính
đạo để phục vụ tha nhân và nước Chúa.
Con đường
8 mối phúc không phải là viễn vong, mơ hồ hay bất khả thi, nhưng là con đường
chính đạo. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã kinh qua bằng chính đời sống nghèo khó,
hi sinh từ bỏ và hiến thân cho tha nhân vì nước trời. Do đó muốn có hạnh phúc
thật chúng ta không thể đi theo con đường nào khác ngoài con đường Đức Giêsu đã
đi và đã chỉ dạy.
Xin Chúa
giúp chúng ta can đảm bước theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi, bằng cách trung
thành thực thi 8 mối phúc thật mà Chúa Giêsu vạch ra, nhờ đó ta đạt được điều
mà mình khao khát là hạnh phúc thật. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
9
THÁNG SÁU
Trật
Tự Của Tạo Vật Trong Ý Định Của Thiên Chúa
Trong
trật tự của tạo vật, con người tham dự vào toàn bộ các mối tương quan: tương
quan với thế giới, tương quan giữa nam và nữ, tương quan với đồng loại. Ơn gọi
“thống trị mặt đất” cho chúng ta thấy đặc tính quan hệ của sự sống con người.
Con người cai quản mọi loài; con người xây dựng và phát triển một gia đình cùng
với người bạn đời của mình; con người hợp tác với đồng loại để hình thành một
xã hội phục vụ thiện ích chung. Những mối quan hệ này thật xứng hợp với nhân vị
xét như hình ảnh của Thiên Chúa. Ngay tự đầu tiên, những mối quan hệ ấy đã thiết
định vai trò của con người ở giữa vạn vật.
Chính
vì định mệnh ấy mà con người đã được kêu gọi vào hiện hữu trong tư cách là một
chủ thể (một cái ‘tôi’ cụ thể), được ban cho trí tuệ, lương tâm và tự do. Khả
năng suy nghĩ làm cho con người khác biệt một cách nền tảng so với toàn thể thế
giới động vật. Động vật chỉ có thể cảm nhận các thứ qua các giác quan của
chúng. Còn trí năng con người giúp con người biện biệt phân định giữa thật và
giả. Khả năng ấy mở ra cho con người các lãnh vực khoa học, tư duy, triết lý,
thần học. Chính nhờ bản tính của mình mà con người nắm bắt được chân lý nơi mọi
sự. Con người ở trong một tương quan với chân lý – và mối tương quan này thiết
định vai trò của con người xét như một sinh vật có định mệnh thuộc linh. Khả
năng hiểu biết chân lý bộc lộ nơi mọi mối tương quan giữa con người với thế giới
và với người khác. Nó thiết lập một nền tảng khẩn thiết cho mọi sắc dạng văn
hóa.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
09-6
Thánh
Ephrem, phó tế, tiến sĩ Hội Thánh
1V
17, 1-6; Mt 5, 1-12.
LỜI
SUY NIỆM: “Thấy
đám đông, Đức Giêsu lên núi, Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở
miệng dạy họ rằng: Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.”
Thánh
sử Mátthêu, là người viết Sách Tin Mừng dành riêng cho người Do-thái, nên Thánh
sử đã trình bày khung cảnh Chúa Giêsu ban “Tám mối phúc thật”, để người Do-thái
có sự liên tưởng về Cựu Ước Khi Thiên Chúa ban Mười Điều Răn cho Môsê trên núi
Xinai. Mười điều răn để hướng dẫn dân Do-Thái đi đúng con đường của Thiên Chúa;
Thì Tám mối phúc là những con đường dẫn dân Chúa nên thánh. Mười Điều Răn và
Tám Mối Phúc đều dẫn chúng ta gặp được Thiên Chúa và sống hạnh phúc với Ngài.
Lạy
Chúa Giêsu, Xin Chúa cho mọi thành viên trong gia đình chúng con, luôn tuân giữ
Mười Điều Răn với lòng yêu mến, và ban cho mỗi người chúng con những ân sủng cần
thiết để đi trên một trong tám mối phúc của Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
09-06: Thánh EPHREM
Phó
Tế, Tiến Sĩ Hội Thánh (306 - 373)
Thánh
nhân sinh tại Nisibis, miền Mesopotamia vào khoảng đầu thế kỷ thứ IV. Có truyện
kể rằng: hồi nhỏ, một lần Ngài lấy đá chọi con bò mẹ gần chết. Khi chủ nhân hỏi
thăm có thấy con bò ở đâu Ngài đã trả lời xấc xược để chữa lỗi. Ephrem đã khóc
suốt đời về sự độc ác và hèn nhát này.
Sau
này có lần vào đêm khuya bị lạc vào giữa đồng, một đứa chăn chiên cho Ngài trú
ngụ trong lều của nó. Nhưng đứa chăn chiên này đã xấu bụng lại đang say rượu.
Đêm ấy chó sói vào tàn sát đàn chiên. Để chữa mình, thằng chăn chiên đổ lỗi cho
Ephrem. Trong tù Ngài nghe nhiều người than thở vì bị hàm oan. Một buồi chiều,
trong giấc mơ, Ngài thấy thiên thần cho biết lần này Ngài vô tội nhưng phải khổ
để đền bù vào những lỗi lầm khác. Thức dậy, Ephrem nhớ lại con bò và thú nhận với
mọi người.
Thân
phụ Ephrem là một thày cả thờ thần Abnil. Hình như Ngài bị đuổi khỏi nnhà vì có
thiện cảm với các Kitô hữu. Thánh Giacôbê, giám mục Nisibis tiếp nhận dạy dỗ và
rửa tội cho Ngài hồi 10 tuổi. Để sống, Ngài làm việc ở những hồ tắm công cộng.
Nhưng sau đó Ngài lại vào sa mạc sống với sự hướng dẫn của thánh Abbê ẩn tu; dệt
vải để sống như thói quen của các ẩn sĩ Ai cập và Mêsôpôtamia thời đó.
Ephrem
thường khóc tội mình và tội người khác. Các tập "tự thú" Ngài viết
cho thấy Ngài rất mực khiêm tốn, Ngài rất ghét tính kiêu căng: - Tính kiêu căng
phá đổ ơn Chúa và thiêu hủy mọi nhân đức.
Thánh
Ephrem luôn ao ước sống đời ẩn dật. Nhưng một cuộc chiến đã bùng ra giữa người
Rôma và người Batư. Người Batư bách hại các Kitô hữu cách tàn bạo. Nghe tin
này, Ephrem về Nisibis để giúp đỡ và khích lệ họ. Danh thơm nhân đức của Ngài
lan rộng đến nỗi người ta cho việc giải phóng khỏi ách thống trị của Sapor II
là bởi lỗi cầu nguyện của thánh nhân.
Được
thụ phong phó tế, nhưng rồi thánh nhân đã từ chối chức linh mục vì khiêm tốn.
Được Đức giám mục Nisibis trao cho trách nhiệm rao giảng lời Chúa, Ngài dùng hết
tài lợi khẩu để khêu gợi nhiệt tình nơi các linh hồn: - "Thần dữ nói: Ta
đi tìm những người khô khan là bạn hữu của ta, và ta không cần phải tìm đến mưu
kế, ta chỉ cần giữ chúng trong xiềng xích mà chúng ưa thích là đủ".
Thánh
Ephrem đã gặp thánh Basiliô thánh Cappadocia. Truyền thuyết cho rằng: hai vị hiểu
nhau dầu ngôn ngữ bất đồng.
Chiến
tranh tái phát, Nisibis rơi vào tay người Batư, thánh Ephrem trốn đến Sdessa.
Nơi đây, Ngài tận tâm phục vụ bệnh nhân và người nghèo, hoạt động trí thức bằng
việc viết sách và giải thích thơ phú. Thánh Ephrem đã viết các bài giảng bằng
thơ, các thánh thi ca ngôi vinh quang Chúa Kitô và Đức Trinh Nữ Maria.
Người
luôn được gọi là "cây đàn của Thánh Linh" là một trong những người
rao truyền việc VÔ NHIỄM THAI. - Lạy Chúa, chỉ có Chúa và Mẹ Chúa là tuyệt mỹ.
Nơi mẹ Chúa không vương một tì tích nào.
Một
năm trước khi thánh nhân qua đời, Edessa bi một cơn đói. Ngài kêu gọi lòng quảng
đại của mọi người và người ta đã rộng tay đóng góp vào công cuộc phát chẩn của
thánh. Cơn đói chấm dứt, thánh nhân trở lại chòi của mình. Lên cơn sốt, Ngài
nghĩ tới lúc chết: - Đừng liệm xác tôi bằng đồ quí giá, cũng đừng dựng đài tưởng
niệm. Hãy đối xử với tôi như một người lữ khách vì thực sự tôi là một lữ khách
xa lạ trên mặt đất này thôi.
Ngài
qua đời có lẽ vào tháng 6 năm 373. Thánh Gregoriô miền Nyssa viết về thánh
Ephrem: - Vinh quang đời sống và giáo thuyết của thánh nhân chiếu giãi khắp
hoàn cầu.
Năm
1820, Đức Beneđictô XI tôn phong Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.
(daminhvn.net)
09
Tháng Sáu
Muôn Vàn Phép Lạ
Một
vị ẩn sĩ nọ, sau 60 năm sống khắc khổ giữa sa mạc, bỗng cảm thấy chán nản khi
nghĩ rằng mình chưa hề làm được phép lạ nào như các vị tiền bối.
Ông
quyết định rời bỏ sa mạc để trở về đô thị sống một cuộc sống tiện nghi, bình
thường như mọi người.
Nhưng
đôi mắt Chúa lúc nào cũng dõi theo từng suy nghĩ, từng đường đi nước bước của
ông. Biết ông đang toan tính bỏ cuộc để trở lại đô thị, Thiên Chúa bèn sai một
thiên thần đến với ông. Vị sứ thần đã nói với ông như sau: "Ngài đang toan
tính điều gì thế? Ngươi hãy thử nghĩ có phép lạ nào kỳ diệu nào hơn chính cuộc
sống của ngươi không? Ai đã ban cho ngươi sức mạnh để có thể cầm cự được trong
nơi hoang vu này trong mấy chục năm qua? Ai đã chúc lành cho cây cỏ ngươi đã
dùng trong thời gian qua mà không hề gây nguy hại cho ngươi? Ngươi lại đây và
xin Chúa ban cho ngươi thêm lòng kiên nhượng...".
Ðược
lời của vị sứ thần nâng đỡ, nhà ẩn sĩ ở lại trong sa mạc và tiếp tục cuộc sống
tu trì của ông với niềm tin vững rằng mỗi một phút giây qua đi trong cuộc sống
là một phép lạ mà Thiên Chúa đang thực hiện cho ông.
"Ðây
là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ". Giáo Hội mượn lời Kinh Thánh này để
mời gọi chúng ta sống một cách sung mãn giây phút hiện tại. Mỗi một giây phút
hiện tại là một hồng ân cứu độ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục biến mỗi phút giây của
cuộc sống chúng ta thành một phép lạ.
Không là phép lạ sao tim của chúng ta vẫn tiếp tục đập, mũi chúng ta vẫn tiếp tục hít thở! Còn gì kỳ diệu bằng chính sự sống mà Thiên Chúa vẫn tiếp tục trao ban cho chúng ta. Còn gì kỳ diệu bằng niềm tin Ngài đã trao ban để chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành này.
Không là phép lạ sao tim của chúng ta vẫn tiếp tục đập, mũi chúng ta vẫn tiếp tục hít thở! Còn gì kỳ diệu bằng chính sự sống mà Thiên Chúa vẫn tiếp tục trao ban cho chúng ta. Còn gì kỳ diệu bằng niềm tin Ngài đã trao ban để chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành này.
Chúng
ta vẫn thường nói: ngạc nhiên là khởi đầu của khám phá! Nếu tất cả những khám
phá của khoa học đều bắt nguồn từ những câu hỏi mà con người tự đặt ra khi nhìn
ngắm vũ trụ, thì sự ngây ngất trước những kỳ công của sáng tạo, trước cuộc sống,
trước tình người cũng phải là động lực giúp người tín hữu Kitô chúng ta thấy được,
cảm mến được sự hiện diện và tác động kỳ diệu của Thiên Chúa.
Cái
nhìn ấy sẽ giúp chúng ta thấy được giá trị của những công việc âm thầm từng
ngày của chúng ta. Cái nhìn ấy sẽ mang lại cho chúng ta sức mạnh để tiếp tục phấn
đấu khi phải đương đầu với bệnh tật, với thử thách, với mất mát trong cuộc sống.
Một Thiên Chúa luôn làm những kỳ diệu cũng chính là Ðấng có mặt trong từng phút
giây của cuộc sống chúng ta để đem lại cho chúng ta những điều thiện hảo đôi
khi vượt quá khỏi cái nhìn nông cạn, sự thẩm định giới hạn của chúng ta.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét