10/08/2014
Chúa Nhật 19 Quanh Năm
Năm A
(phần I)
Bài
Ðọc I: 1 V 19, 9a. 11-13a
"Ngươi
hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa".
Trích
sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong
những ngày ấy, khi Êlia đã lên núi Horeb của Thiên Chúa, ông trú ẩn trong một
cái hang... Có lời Chúa phán cùng ông rằng: "Hãy ra đứng trên núi trước
tôn nhan Chúa". Bỗng Chúa đi qua; có một cơn gió mạnh xé núi non và nghiền
nát đá trước mặt Chúa; nhưng Chúa không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì đất
động; Chúa cũng không ở trong cơn động đất. Sau cơn động đất thì có lửa; nhưng
Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa thì có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe thấy,
Êlia liền lấy áo choàng che mặt lại, đi ra đứng ở cửa hang.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14
Ðáp: Lạy Chúa, xin
tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con (c. 8).
Xướng:
1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán báo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ
phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa,
để vinh quang Chúa ngự trị trong Ðất Nước chúng tôi. - Ðáp.
2)
Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau
âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.
- Ðáp.
3)
Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và Ðất Nước chúng con sẽ sinh bông
trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước
của Ngài. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: Rm 9, 1-5
"Tôi
đã ước ao được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh
em thân mến, tôi xin nói thật trong Ðức Kitô, tôi không nói dối: lương tâm tôi
làm chứng cho tôi trong Thánh Thần: là tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng
đau đớn luôn. Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của
tôi, là những thân nhân của tôi về phần xác. Họ đều là người Israel, họ được
quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luật, việc phượng tự và lời hứa:
các tổ phụ cũng là của họ, và bởi các đấng ấy mà Ðức Kitô sinh ra phần xác, Người
là Thiên Chúa trên hết mọi sự, đáng chúc tụng muôn đời.Amen.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia:
Ga 1, 14 và 12b
Alleluia,
alleluia! - Ngôi lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người,
thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 14, 22-33
"Xin
truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ
bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên
núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã
ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh
tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt
biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa!", và các ông sợ hãi kêu
la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy
đây, đừng sợ!" Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì
xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán:
"Hãy đến!" Phêrô xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước mà đến cùng
Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng:
"Lạy Thầy, xin cứu con!" Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà
nói: "Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền
thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng:
"Thật, Thầy là Con Thiên Chúa".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Phêrô, Người Lái Con Thuyền Ðức Tin Hội Thánh
Lời Chúa hôm nay có thể đem lại nhiều suy tư phong
phú. Mỗi bài đọc là một biển mênh mông hay một rừng bát ngát: càng suy lại càng
thấy rộng. Tiếc thay, chúng ta chỉ có thể cùng nhau đọc lướt qua và nhặt lấy một
vài tư tưởng nổi bật. Các mẫu chuyện về Êlya, Phêrô và Phaolô khi ấy có thể gợi
lên cho chúng ta một số nét trong đời sống đức tin. Chúng ta có thể nhìn thấy
các phấn đấu của mình trong đời sống của các ngài. Và như vậy, Lời Chúa hôm nay
sẽ quý giá cho chúng ta.
A.
Tước Hết, Êlya Là Chiến Sĩ Vô Ðịch Về Ðức Tin
Ông sinh sống vào khoảng cuối thế kỷ IX trước Công
nguyên. Có thể nói, ông đã khai mạc thời đại các tiên tri lớn trong Cựu Ước.
Không ai biết rõ dòng họ của ông. Như Melkisêdek, có
thể nói ông là người không cha không mẹ. Ðiều khác thường này, chứng tỏ ông là
người xuất chúng nếu không phải là mầu nhiệm. Người ta biết rõ các công việc của
ông vì cả triều đình thời bấy giờ thường phải bận tâm về sự hiện diện và lời
ông giảng dạy. Nói chung, tà giáo bấy giờ đang ở thế mạnh. Vua và hoàng hậu
nuôi dưỡng từng ngàn tiên tri Baal. Dân chúng tự nhiên cũng muốn chạy theo sự dễ
dãi, vì giữ được được đức tin chân chính đòi phải phấn đấu cam go. Nhưng Êlya
không sợ đi ngược lại trào lưu. Một mình ông cương quyết bênh vực chính giáo.
Lòng nhiệt thành bất khuất ấy hiện ra rõ rệt trong câu chuyện thách đố ở trên
núi Karmel.
Toàn dân tập họp lại để xem Yavê hay Baal là Chúa thật.
Một bên có tế đàn của gần 1,000 tiên tri tà giáo. Và bên kia trơ trọi một mình
Êlya, ông bảo bên họ cứ đặt của lễ lên và cầu khẩn cho to cho khỏa để xin Baal
cho lửa trời xuống đốt. Họ tụng kinh inh ỏi từ sớm tới chiều, chẳng bỏ sót một
vũ khúc tôn giáo hay một nghi thức ma thuật nào. Kết quả, Baal vẫn như ngủ, như
ngơ vì quả thật nó chỉ là ngẫu tượng do trí óc thấp kém và nô lệ của con người
bày ra. Bấy giờ Êlya mới giơ tay cầu nguyện. Lập tức Yavê cho lửa xuống thiêu của
lễ. Toàn dân kính phục Yavê và tóm cổ bọn tiên tri tà giáo trừng phạt nặng nề.
Nhưng đâu đã hết. Tiếng dân về phe với Êlya, khiến
hoàng cung căm phẫn. Hoàng hậu cho người bắn tin sẽ lấy đầu người chiến sĩ vô địch
đức tin kia. Và Êlya phải mau mau lẩn trốn vào sa mạc.
Trước đây trận địa ở trước mặt toàn dân. Êlya là người
có đức tin sống động. Và đức tin này có việc làm và đã làm việc không quản gian
lao. Bây giờ chiến địa là sa mạc. Khó khăn không phải chỉ là khí nóng và hoang
vu, nhưng còn là thân thể nhọc mệt và tinh thần chán nản. Êlya nay không còn
như một Môsê quyền năng ở đất Aicập và trước mặt Pharaô nữa; nhưng cũng như
Môsê và Dân Chúa ngày trước, ông đang đi trong sa mạc, làm lại cuộc hành trình
đầy thử thách hầu đức tin được tôi luyện như vàng trong lửa.
Êlya tưởng mình cũng không hơn gì tiền nhân, những
người đã tin Chúa, thờ Chúa, bênh Chúa, nhưng rồi đã bị bạc đãi và bắt bớ.
Chính lúc ấy Thần Chúa đã đến viếng thăm, đem bánh và nước tới như xưa Dân Chúa
đã nhận được manna và nước mát. Và Êlya đã tiếp tục đi thêm 40 đêm ngày như Dân
Chúa đã đi 40 năm nơi hoang địa để cuối cùng đến núi Khoreb cũng gọi là Sinai,
hầu nhận được mạc khải cao cả, đánh dấu cao điểm của cuộc đời đức tin vững
vàng.
Bài đọc 1 hôm nay thuật lại mạc khải này. Chúa cho
Êlya thấy Người, không phải trong bão táp, sấm động hay chớp lửa, nhưng trong
hơi gió nhẹ nhàng làm mát dịu con người.
Những ai quen biết lịch sử tôn giáo đã thấy ngay đây
là một tiến bộ quan trọng. Trước đây, người ta hình dung Thiên Chúa ở đàng sau
những hiện tượng kinh hoàng trời long đất lở, sấm chớp hãi hùng. Chính Dân Chúa
cũng đã nhìn thấy đỉnh núi Sinai như một lò lửa lớn khi có tiếng Yavê đến gần.
Nay với Êlya, Thiên Chúa tỏ ra nhẹ nhàng như thời khai nguyên. Ađam-Evà trước
khi phạm tội đã được sống những giây phút thân mật với Ngài, vì vào lúc gió chiều
hiu hắt, Ngài đến tản bộ với hai ông bà. Hôm nay Ngài cũng đến với Êlya sau làn
gió nhẹ, để ông trở thành mẫu người được hưởng sự êm ái của Thiên Chúa.
Truyền thống Kitô giáo đã mau mắn nhận Êlya là tổ phụ
của đời sống chiêm niệm kết hợp với Thiên Chúa, đang khi tâm lý bình dân đã sẵn
sàng tôn ông là nhà vô địch về đức tin. Nói đúng ra cuộc đời của Êlya chứng tỏ
đời sống đức tin không đơn giản. Người tín hữu phải biết chiến đấu bên ngoài và
bên trong, phải có những hành động chứng tỏ niềm trung tín đối với Chúa, nhưng
cũng biết sống lặng lẽ để kết hiệp trong sự thân mật với Người.
Và điều này, chúng ta cũng còn thấy trong câu truyện
hôm nay về Phêrô và các môn đệ, mặc dầu bài Tin Mừng Matthêô còn muốn nói nhiều
hơn nữa.
B.
Phêrô, Người Lái Con Thuyền Ðức Tin Hội Thánh
Hôm ấy cũng là một ngày rất đặc biệt! Chưa bao giờ
người ta được chứng kiến một cảnh tượng như thế. Với 5 ổ bánh và 2 con cá trao
vào tay các môn đệ để phát cho dân, Ðức Yêsu đã nuôi no khoảng 5,000 người,
không kể đàn bà con trẻ. Làm sao mọi người không phấn khởi! Và tránh sao được vẻ
thỏa mãn hiên ngang trên khuôn mặt các môn đồ! Êlya trên núi Karmel chưa chắc
đã thỏa mãn hơn. Nhưng để họ khỏi sa chước cám dỗ, Ðức Yêsu buộc họ phải lên
thuyền về trước bắt chước Êlya đi vào sa mạc. Còn Người ở lại giải tán dân và
lên núi cầu nguyện.
Nhưng thuyền các môn đồ vừa ra xa, thì này sống gió
nổi lên dữ dội trong đêm tối. Cho mãi tới gần sáng vẫn còn như vậy. Con thuyền
Hội Thánh quả thật ba chìm bảy nổi khi vượt biển trần gian. Chỉ một dấu hiệu
khác thường cũng đủ khiến những kẻ ở trong thuyền sợ đến tột độ. Chính vì vậy
mà vừa thấy một bóng đi xa xa trên mặt nước, họ đã la lên hoảng hốt: kìa ma!
kìa ma!
Nhưng đó lại là chính Ðức Yêsu. Người đã thôi cầu
nguyện với Chúa Cha trong nơi vắng vẻ để đi cứu giúp các môn đệ. Người lên tiếng
trấn an họ. Phêrô liền xin chạy trên nước để đến với Người. Nhưng thay vì để ý
luôn nhìn vào Chúa, ông lại nghĩ đến gió thổi. Và ông sợ. Ông bắt đầu chìm xuống,
đến nỗi nếu không có cánh tay của Chúa giơ ra đỡ dậy, sóng nước đã vùi dập ông.
Câu truyện này một lần nữa lại cho chúng ta thấy đời
sống đức tin luôn đòi phải phấn đấu. Nếu mẫu truyện về Êlya đã kể lại phấn đấu
của một tâm hồn, thì ở đây chúng ta thấy toàn thể Hội Thánh cũng phải phấn đấu.
Các môn đồ của Chúa phải biết mau mau gỡ mình ra khỏi sức cám dỗ của thành công
đắc chí.
Hơn nữa con thuyền của Hội Thánh trong giai đoạn
Chúa đang cầu bầu cùng Chúa Cha ở trên trời luôn gặp sóng gió và phải phấn đấu
trong trần gian u tối. Không phải vô ý mà Matthêô đã kể câu truyện này sau phép
lạ bánh hóa nhiều. Cũng như ông sẽ kể: ra khỏi phòng Tiệc ly, các Tông đồ hầu
như sa ngã. Ðó là thân phận Hội Thánh sau các buổi họp phụng vụ và đi vào thế
gian.
Hội Thánh phải phấn đấu; nhưng tự mình vẫn không đạt
được hạnh phúc, mà phải là chính Chúa ban cho. Cũng như nếu không nhận được thần
lương, Êlya cũng đã ngã gục. Và cũng như phần thưởng cuối cùng ông nhận được là
việc chính Chúa tự mạc khải mình cho ông, thì ở đây, bình an cứu độ cũng đã trở
về với con thuyền Hội Thánh khi Ðức Yêsu tuyên bố: Này Ta! Người dùng lại chính
lời mạc khải trên núi Khoreb, khi Môsê xin cho được biết Danh tánh Chúa. Và như
Danh Chúa đã khiến Môsê an tâm ra đi thi hành sứ vụ cứu dân, thì nay thấy Chúa
phán: Ta đây, Phêrô cũng muốn làm được công việc phi thường. Ông đã đi được một
lúc ở trên nước. Nhưng rồi sợ hãi đã chiếm lấy ông. Ðức tin của ông giảm bớt,
khiến thân xác ông muốn chìm theo. May mà ông đã kêu lên để từ đó Hội Thánh thấy
rằng chỉ có Chúa cứu được Hội Thánh khỏi sa chìm giữa thế gian.
Bài học này có thể nói chúng ta vẫn nhớ. Ðiều chúng
ta dễ quên hơn là dường như chỉ muốn được sống yên hàn trong Hội Thánh và đúng
hơn được ở trong Hội Thánh yên hàn. Nhưng như thế là không muốn hiểu đặc tính của
đời sống đức tin. Các mẫu truyện trên đây về Êlya và Phêrô chưa làm cho chúng
ta thấy rằng đức tin đòi phải phấn đấu; và những khi gặp thử thách về đức tin,
ơn cứu độ của chúng ta nằm nơi Danh Chúa. Chúng ta phải cầu nguyện, phải tìm
Chúa trong thinh lặng và phải rước Chúa vào lòng. Như vậy cũng mới chỉ giữ đức
tin thôi. Ðức tin chân chính phải mạnh mẽ hơn nhiều. Nó còn phải nung nấu tâm hồn
chúng ta theo như lời thánh Phaolô chia sẻ trong đoạn thư hôm nay.
C.
Phaolô Muốn Chết Cho Ðức Tin Ðược Lan Rộng
Ai cũng biết người phải phấn đấu rất nhiều vì chính
nghĩa đức tin. Nhiều lần người cũng như Êlya bị người ta lùng bắt chỉ vì đã làm
cho nhiều người tin vào Chúa Kitô. Các môn đệ ở Ðama phải bỏ người vào thúng và
thòng qua tường thành để cho người chạy trốn. Và nhiều lần người đã gặp sóng
gió, đắm tàu và thoát chết, chứ đâu mới chỉ lún xuống nước như Phêrô. Thật, vất
vả về đức tin có thể nói ít ai đã như người. Nhưng chính người nói Ơn Chúa vẫn
đủ cho người và người luôn luôn lao mình về đàng trước để chạy cho hết cuộc
hành trình.
Ðối với người, những thử thách như vậy còn chịu được
với Ơn Chúa. Duy có điều sau đây thật là nặng nề. Ðó là việc người Dothái cứng
lòng không chịu tuân phục đức tin. Họ là đồng bào của người. Hơn nữa họ là Dân
được tuyển chọn. Họ còn là dòng dõi sinh ra Ðức Yêsu. Thế mà sao họ vẫn từ chối
ơn cứu độ?
Người đã nỗ lực, có thể nói là quá sức, để lôi kéo họ.
Ðặt chân đến nơi nào, người cũng tìm đến Hội đường Dothái, làm quen với những
người đồng bào của người, trao đổi với họ về Lời Hứa dành cho Dân tộc. Nhưng mọi
cố gắng hầu như thất bại hoàn toàn. Rất ít người chấp nhận đức tin. Phần lớn
con cháu Abraham theo xác thịt, không những vẫn không ngấm mà còn chống đối và
bách hại giáo lý cứu độ.
Theo tính tự nhiên, có lần Phaolô đã phủi chân tuyên
bố sẽ dứt khoát đi đến với dân ngoại. Nhưng nói thế chứ làm sao bỏ được đồng bào
và nhất là Dân tộc mang đầy Lời Hứa! Thiên Chúa đã làm bao việc kỳ diệu để gìn
giữ Dân tộc ấy; và cuối cùng đã sai Con Ngài mặc xác thể trong dòng máu này.
Làm sao Phaolô không quằn quại săn sóc tương lai cho họ? Không những vì họ mà
thôi, nhưng nhất là vì Chúa. Dân được chọn trở thành dân bị gạt bỏ sao?
Do đó Phaolô rất buồn và đau đớn không ngừng. Có
Chúa Yêsu và Thánh Thần làm chứng như vậy. Và chứng của hai người, hơn nữa của
hai Ðấng Thánh như vậy, dĩ nhiên rất giá trị. Cuối cùng, để không ai còn có thể
hồ nghi, thì này Phaolô sẵn sàng "bị tuyệt thông" cho anh em đồng bào
của người được rỗi.
Ý nghĩ đó là tận cùng rồi. Vì ở thời ấy, bị tuyệt
thông, bị loại ra khỏi bộ lạc, có nghĩa là đeo bản án vào thân, không còn quyền
làm người trong bộ lạc nữa, ai gặp cũng có thể giết mà không bị tội. Ấy là nói
có người còn muốn giết! Vì con người bị khai trừ kia cũng không đáng giết nữa.
Có thể coi nó như con chó bị đuổi ra khỏi nhà.
Khi có ý tưởng như vậy, Phaolô thật sự muốn chia sẻ
tâm tình cứu thế của Ðức Kitô, vì chính Ngài cũng đã trở nên đồ bị khai trừ vì
tội lỗi chúng ta.
Do đó Phaolô không phải chỉ là chiến sĩ vô địch về đức
tin như Êlya. Người không nhượng bộ kẻ thù của Thánh giá, dù là một bước. Người
cũng không lấy việc chèo lái con thuyền các giáo đoàn qua sóng gió như Phêrô
làm cực nhất. Con thuyền đức tin ở trong tay người, sự sống đức tin nơi tâm hồn
người không những trông cậy vào ơn Chúa để lướt thắng phong ba, mà còn muốn chọc
thủng bức màn còn che mắt đồng bào Israel của người để họ nhận ra Ðức Kitô và
thờ lạy Ngài. Và cho được như vậy, người sẵn sàng dâng sinh mạng làm lễ tế cho
con thuyền Hội Thánh đi được tới đích.
Chúng ta chắc chưa có đức tin như vậy. Nhưng phải
vươn lên. Phải phấn đấu cho đức tin của mình. Phải tha thiết cầu mong cho đồng
bào nhận biết Chúa. Phải tham dự thật sự vào lễ tế dâng trên bàn thờ vì phần rỗi
mọi người. Phải sống lễ tế mà giờ đây chúng ta đứng lên để cử hành.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ
Nhật 19 Thường Niên, Năm A
Bài
đọc:
I Kgs 19:9, 11-13; Rom 9:1-5; Mt 14:22-33
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa hiện diện ở
đâu trong cuộc đời chúng ta.
Nhìn
lại quãng đời đã đi qua nhiều khi làm chúng ta kinh ngạc: Có những điều trước
đây chúng ta không bao giờ nghĩ là mình có được, thế mà bây giờ lại có! Có những
nơi không bao giờ chúng ta nghĩ mình có thể đặt chân đến đó, thế mà lại đến và
sống ở đó! Có những trở ngại mà lúc phải đương đầu chúng ta nghĩ không thể vượt
qua, thế mà lại vượt qua được... Suy nghĩ những điều này làm chúng ta tự hỏi: Lạ
thật! Hình như có người nào điều khiển cuộc đời chứ không phải chính chúng ta,
vì có điều chúng ta mong muốn lại không xảy ra, và có điều chúng ta không mong
muốn lại xảy ra!
Những
điều này không chỉ xảy ra cho chúng ta trong thời đại này, nhưng nếu theo dõi
kinh nghiệm của người xưa được thuật lại trong các Bài đọc hôm nay, chúng ta có
thể nhận ra những nét quen thuộc. Trong bài đọc I, tiên tri Elijah cảm thấy nhiệt
thành hăng hái khi dự cuộc thi để làm chứng cho Đức Chúa trên núi Carmel; nhưng
khi phải chạy trốn hoàng hậu Isabel, ông cảm thấy buồn tủi và trách Thiên Chúa
sao để ông phải chạy trốn như vậy. Thiên Chúa hiện đến với ông trong làn gió nhẹ
hiu hiu, để nhắc nhở cho tiên tri biết Ngài vẫn đang hiện diện với ông. Trong
bài đọc II, mặc dù được Thiên Chúa dành đặc biệt để loan truyền Tin Mừng cho
Dân Ngoại, thánh Phaolô vẫn dành thời gian để rao truyền Đức Kitô cho người
Do-thái vì lòng yêu mến dân tộc của ông. Thánh Phaolô không thể hiểu lý do tại
sao người Do-thái không tin vào Đức Kitô mặc dù các ngôn sứ đã nói về Ngài
trong Kinh Thánh. Sau cùng, thánh Phaolô phải nhìn nhận Thiên Chúa có kế hoạch
riêng cho họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu truyền cho tông đồ Phêrô được đi trên mặt
nước biển mà đến với Ngài; nhưng khi ông bắt đầu sợ hãi vì sóng gió nổi lên,
ông bị chìm và kêu cầu Chúa cứu. Ngài đưa tay đỡ ông và trách: "Người đâu
mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?"
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
thuật lại kinh nghiệm của tiên tri Êlijah, ông sống khoảng 960 BC.
1.1/
Lý do tiên tri Elijah phải chạy trốn: Để hiểu Bài đọc hôm nay, chúng ta cần đọc trở lại ít
chương nữa trong Sách Các Vua, quyển I, chương 18. Ông là tiên tri duy nhất của
Chúa còn sót lại và nhiệm vụ của ông là khôi phục niềm tin vào Thiên Chúa đã mất
trong Israel. Để thực hiện điều này, ông đã bảo Vua Akhab sai triệu tập tòan thể
con cái Israel trên núi Carmel. Tại đây, ông đã thách thức 450
tiên tri của Baal để dự cuộc thi xem coi Chúa nào là Chúa thật bằng cách mỗi
bên xẻ một con bò tơ, xẻ thịt ra rồi đặt trên củi, nhưng không châm lửa. Bên nào
kêu xin thần của bên ấy, thần nào đáp lại bằng cách khiến lửa từ trời xuống đốt
cháy thịt, thần đó là Thiên Chúa; và họ đã chấp nhận dự thi. 450 tiên tri của
Baal kêu xin suốt từ sáng tới trưa mà không có lửa, nhưng khi một mình tiên tri
Êlijah kêu cầu Thánh Danh Chúa, thì Ngài đã khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi cả
củi lẫn thịt.
Tòan
dân thấy vậy thì sấp mặt xuống đất và nói: “Yahvê chính là Thiên Chúa!” Êlijah
truyền bắt trói tất cả các tiên tri của Baal, mang xuống núi và cắt cổ họng hạ
sát họ tại đó. Vì biến cố này mà hòang hậu Isabel ra chiếu chỉ bắt giết Êlijah
để đền mạng cho các tiên tri bị hạ sát của bà, và Êlijah phải tìm đường chạy trốn
từ Bắc xuống Nam, và trèo lên núi Hôreb nơi Thiên Chúa đã trao Thập Giới cho
Môisen. Phần vì sợ hãi mệt mỏi, phần vì đường xa đói khát làm ông nản chí, ông
mong được chết và nói: "Lạy Đức Chúa! Đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống
con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con." Ông vào một cái hang và nghỉ
đêm tại đó. Có lời Đức Chúa phán với ông: "Elijah ngươi làm gì ở
đây?" Ông thưa: "Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo
binh nung nấu con, vì con cái Israel đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ,
dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ còn sót lại một mình con mà họ đang
lùng bắt để lấy mạng sống con." Người nói với ông: "Hãy ra ngoài và đứng
trên núi trước mặt Đức Chúa.”
1.2/
Thiên Chúa hiện đến với ngôn sứ Elijah: Có tất cả 4 sự kiện xảy ra được tường thuật hôm nay.
(1)
Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa
không ở trong cơn gió bão.
(2)
Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất.
(3)
Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa.
(4)
Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Êlijah lấy áo choàng che mặt,
rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông: "Êlijah, ngươi làm
gì ở đây?"
Rất
nhiều lần trong cuộc đời, nhất là những lúc phải đương đầu với bao nhiêu thử
thách khó khăn, chúng ta kêu van Chúa để Ngài giúp chiến đấu; nhưng không thấy
bóng dáng Ngài đâu! Nhiều lúc quá mệt mỏi vì cố gắng xây dựng, chúng ta cũng đã
phải thốt lên như Êlijah: “Chúa ơi! Quá đủ rồi! Không còn sức để đi tiếp nữa!”
Nhưng sau những lúc ấy, khi cuộc đời bình an trở lại, chúng ta nhận ra kết quả
của những gì chúng ta làm, chúng ta nhận ra ai đã giúp chúng ta chiến đấu trong
khi mọi người bỏ rơi chúng ta! Ngài đúng là một Thiên Chúa ẩn mình! Chúng ta có
thể nhận ra Ngài trong tiếng gió hiu hiu, nhưng chưa bao giờ được thấy mặt
Ngài!
2/
Bài đọc II: thuật
lại kinh nghiệm của Thánh Phaolô, gần 2000 năm trước chúng ta.
2.1/ Thánh Phaolô muốn
rao giảng Tin Mừng cho cả Do-thái cũng như cho Dân Ngoại: Thánh Phaolô, người
sống cả ngàn năm sau tiên tri Êlijah, cũng cùng tâm trạng này. Ngài đã trở lại
và trở thành tông đồ cho Dân Ngọai sau biến cố ngã ngựa và bị mù trên đường đi
Damascus để bắt bớ những tín hữu theo đạo. Lòng nhiệt thành vì muốn cho mọi người
hiểu và tin vào Chúa Kitô, ngài đã không quản ngại bất cứ một khổ cực nào để
loan truyền Lời Chúa. Mặc dù gặt hái được nhiều thành công nơi Dân Ngọai, nhưng
ngài phải đương đầu với rất nhiều chống đối và bắt bớ từ những người Do Thái đồng
hương của ngài.
Trong
trình hôm nay, ngài đã thành thực chia sẻ: “Có Đức Kitô chứng giám, tôi xin nói
sự thật, tôi không nói dối và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng
làm chứng cho tôi rằng: lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi. Quả
vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa
và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng.” Chúng ta đã biết Đức Kitô quan trọng
thế nào cho cuộc đời Thánh Phaolô, thế mà ngài có thể thốt lên những lời tâm
huyết này vì quá khao khát ơn Cứu Độ cho người Do Thái đồng hương của ngài.
2.2/
Thánh Phaolô không hiểu nổi lý do nhiều người Do-thái không tin Đức Kitô: Vì họ đã được thừa
hưởng các đặc ân dành cho Israel mà Dân Ngọai không có: Họ là người Israel, họ
đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các
giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa. Họ là con cháu các tổ phụ;
và sau hết, chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ.
Tuy
nhiên, Thiên Chúa đã có kế họach của Ngài và con người không thể hiểu kế họach
đó: Chính vì sự cứng lòng tin của họ mà Dân Ngọai được nghe Tin Mừng và được
sát nhập vào làm Dân Chúa. Chính Thánh Phaolô đã thú nhận: Sau cùng Chúa sẽ cứu Israel!
Khi nào chuyện ấy sẽ xảy ra? Thời gian là của Chúa và không ai biết được ngày ấy
ngọai trừ Chúa.
3/
Phúc Âm:
Chúa truyền cho Thánh Phêrô đi trên biển để đến với Chúa.
Phép
lạ trên Biển Hồ hôm nay được tường thuật sau phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều để
nuôi 5000 người ăn bởi hấu hết các Thánh Ký. Chúa Giêsu muốn các tông đồ tiếp tục
công việc thường nhật nên Ngài bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước,
trong lúc Người giải tán dân chúng vì họ muốn tôn người làm vua (trình thuật của
Gioan). Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn
ở đó một mình. Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh
vì ngược gió.
3.1/
Các tông đồ sợ hãi khi nhìn thấy có người đi trên mặt nước biển và tiến về phía
các ông:
Các tông đồ là dân chài, nên có thể không sợ hãi nhiều vì sóng gió; nhưng khi
thấy có người đi trên mặt biển thì các ông kinh hoàng vì không người nào có thể
đi trên biển ngọai trừ quyền lực siêu nhiên; nhưng Chúa Giêsu liền bảo các ông:
"Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!"
Sợ
hãi và hồ nghi là bản năng của con người, nhưng một khi đã được lý trí soi sáng
cho biết điều gì đáng tin và không nên sợ, con người cần vượt thắng những bản
năng này. Phêrô có lý do để tìm ra Sự Thật khi yêu cầu: "Thưa Ngài, nếu quả
là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài." Đức
Giêsu bảo ông: "Cứ đến!" Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt
nước, và đến với Đức Giêsu.
3.2/
Sự sợ hãi làm cho Phêrô bắt đầu chìm: Phêrô đã đi được trên mặt nước nên ông không nên hồ
nghi và sợ hãi nữa vì ông đã biết rõ người đứng trước mặt là Chúa Giêsu và uy
quyền của Ngài có thể cho ông đi trên mặt nước, điều mà con người không thể làm
được. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên:
"Thưa Ngài, xin cứu con với!" Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và
nói: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?" Khi thầy trò đã
lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói:
"Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!"
Đời
mỗi người chúng ta là một cuộc hành trình trên biển như Phêrô: có lúc bình an,
có lúc sóng gió, có lúc lật thuyền gần chìm. Khi nào chúng ta có lòng tin vững
mạnh vào Chúa thì chúng ta sẽ bước đi bình an giữa muôn ngàn sóng gió; nhưng nếu
chúng ta hồ nghi sự hiện diện hay uy quyền của Chúa trong cuộc đời, chúng ta sẽ
chao đảo vì sóng gió. Những lúc như vậy, chúng ta có cảm tưởng như không thấy sự
hiện diện của Chúa hay Người đang để chúng ta chiến đâu một mình; nhưng thực ra
Chúa vẫn đồng hành ngay bên và sẵn sàng cứu vớt khi gần bị chết chìm.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Qua các bài đọc và kinh nghiệm cá nhân, chúng ta đã học được bài học quá khứ:
bàn tay Chúa luôn ở với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc đời.
-
Tương lai đi đâu, đến chỗ nào, gặp ai, làm gì, chuyện gì sẽ xảy ra, lúc nào,
thành công hay thất bại… chúng ta mù tịt; nhưng như tổ phụ Abraham, chúng ta cứ
thẳng đường tiến tới, vì chúng ta đã có kinh nghiệm quá khứ: bàn tay Thiên Chúa
không bao giờ rời chúng ta.
-
Chúng ta hãy sống giây phút hiện tại cách an bình và làm tất cả những gì có thể.
Không than thân trách phận khi phải đương đầu với quá nhiều đau khổ. Không nóng
lòng chất vấn Chúa khi đã quá cố gắng mà chưa nhìn thấy kết quả. Không kết án
cũng chẳng tiên đoán điều gì sẽ xảy ra cho ai vì cuộc đời còn dài, và cuộc đời
mỗi người nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
10/08/14 CHÚA NHẬT TUẦN
19 TN – A
Mt 14,22-33
Mt 14,22-33
Suy niệm: Thật lạ lùng trong một thời đại mà nhiều người chối bỏ niềm
tin thì các bộ phim kinh dị với những hiện tượng ma quái lại ăn khách. Người ta
xem phim, sợ thì có sợ thật, nhưng lại thích cái cảm giác sợ hãi ấy; và những
bộ phim kinh dị nào chưa đủ độ “sợ”, thì lập tức bị khán giả quay lưng.
Những tâm trạng lẫn lộn đó phản
ảnh thực trạng của con người khi thiếu vắng niềm tin vào Thiên Chúa. Các tông
đồ, dù mới chứng kiến phép lạ lớn lao Chúa Giê-su làm, lòng tin của các ông vẫn
còn mong manh. Bây giờ lênh đênh trên Biển Hồ giữa cơn sóng to gió lớn, thấy
Thầy đi trên mặt nước các ông sợ vì tưởng là ma. Chúa Giê-su bảo các ông đừng
sợ. Việc Ngài đi trên mặt nước –hình ảnh của các thế lực ma quỷ– là dấu chỉ
Ngài có quyền thống trị trên chúng. Một lời Ngài phán ra, sóng biển liền im
lặng chứng tỏ điều đó. Chúa cho thấy chìa khoá để thoát khỏi mọi nỗi sợ chính
là tin Ngài là Con Thiên Chúa.
Mời Bạn: Nhiều Ki-tô hữu tuyên xưng đức tin vào Thiên
Chúa nhưng vẫn có những thực hành mê tín (coi ngày, coi tuổi, cúng ông địa,
thần tài…). Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta đừng sợ vì Ngài ở với chúng ta. Ngài
mời gọi chúng ta nhìn ngắm những dấu chỉ về sự hiện diện và quyền năng của Ngài
để ta thêm vững niềm tin rằng đúng thật là Con Thiên Chúa.
Sống Lời Chúa: Nhìn ngắm dấu chỉ sự hiện
diện và quyền năng Chúa nơi những biến cố trong cuộc sống và xin Chúa ban thêm
đức tin.
Cầu nguyện: Đọc Kinh Tin.
Xin
Cho Con Ði Trên Mặt Nước (10.8.2014 – Chúa Nhật 19 Thường niên A)
Suy
Niệm
Giữa
lúc dân chúng định tôn Ðức Giêsu làm Vua,
sau khi đã được no nê bánh và cá,
thì Ngài lại giải tán họ,
và buộc các môn đệ phải chèo thuyền qua bờ bên kia.
Yên lặng trở lại với nơi hoang vắng.
Chỉ còn một mình Ðức Giêsu, cầu nguyện.
Ngài chìm sâu trong gặp gỡ Cha, Ðấng sai Ngài.
Nhưng Ðức Giêsu không quên các môn đệ.
Ngài biết họ đang vật lộn với sóng gió, một mình.
Kinh nghiệm cam go này thật cần cho họ.
Mãi gần sáng, Ngài mới đi trên mặt nước mà đến.
Các môn đệ tưởng là ma, nên kêu la sợ hãi.
Ðức Giêsu trấn an họ: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ.”
sau khi đã được no nê bánh và cá,
thì Ngài lại giải tán họ,
và buộc các môn đệ phải chèo thuyền qua bờ bên kia.
Yên lặng trở lại với nơi hoang vắng.
Chỉ còn một mình Ðức Giêsu, cầu nguyện.
Ngài chìm sâu trong gặp gỡ Cha, Ðấng sai Ngài.
Nhưng Ðức Giêsu không quên các môn đệ.
Ngài biết họ đang vật lộn với sóng gió, một mình.
Kinh nghiệm cam go này thật cần cho họ.
Mãi gần sáng, Ngài mới đi trên mặt nước mà đến.
Các môn đệ tưởng là ma, nên kêu la sợ hãi.
Ðức Giêsu trấn an họ: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ.”
Tuy
còn ngờ vực, Phêrô đã dám liều đề nghị:
“Nếu quả là Thầy, thì xin cho con
được đi trên mặt nước mà đến với Thầy.”
Thật là một lời đề nghị làm ta kinh ngạc.
Phêrô có thể chỉ cần nói:
Nếu quả là Thầy, thì xin cho sóng gió yên lặng.
Nói như thế dễ hơn nhiều, ít nguy hiểm hơn nhiều.
Nhưng Phêrô đã chấp nhận dấn thân nghiêm túc.
Nếu không phải là Thầy, thì thật là dại dột.
Nhưng nếu đúng là Thầy,
thì ông tin mình cũng đi được trên mặt nước như Thầy.
“Nếu quả là Thầy, thì xin cho con
được đi trên mặt nước mà đến với Thầy.”
Thật là một lời đề nghị làm ta kinh ngạc.
Phêrô có thể chỉ cần nói:
Nếu quả là Thầy, thì xin cho sóng gió yên lặng.
Nói như thế dễ hơn nhiều, ít nguy hiểm hơn nhiều.
Nhưng Phêrô đã chấp nhận dấn thân nghiêm túc.
Nếu không phải là Thầy, thì thật là dại dột.
Nhưng nếu đúng là Thầy,
thì ông tin mình cũng đi được trên mặt nước như Thầy.
Ðức
Giêsu chấp nhận đề nghị của Phêrô: “Cứ đến.”
Thế là Phêrô bước ra, đi trên mặt nước, đến với Ðức Giêsu.
Thật không thể tưởng tượng nổi,
mặt nước trở nên cứng như đá,
hay con người có đức tin trở nên nhẹ bổng.
Phêrô đi được bao xa, ta không rõ,
nhưng lòng ông thì cứ reo lên sau mỗi bước đi:
“Ðúng là Thầy rồi!”
Phải tin thì mới dám xin đi trên mặt nước,
nhưng phải dám đi trên mặt nước, thì mới tin trọn vẹn.
Thế là Phêrô bước ra, đi trên mặt nước, đến với Ðức Giêsu.
Thật không thể tưởng tượng nổi,
mặt nước trở nên cứng như đá,
hay con người có đức tin trở nên nhẹ bổng.
Phêrô đi được bao xa, ta không rõ,
nhưng lòng ông thì cứ reo lên sau mỗi bước đi:
“Ðúng là Thầy rồi!”
Phải tin thì mới dám xin đi trên mặt nước,
nhưng phải dám đi trên mặt nước, thì mới tin trọn vẹn.
Cần
ngắm nhìn những bước chân của Phêrô,
những bước chân của lòng tin mạnh mẽ.
Nhưng khi gió lồng lên dữ dội, nỗi sợ hãi ùa vào,
lòng tin bị chao đi với sóng,
lúc đó Phêrô thấy mình bị hút xuống lòng biển.
Ông chỉ kịp kêu lên: “Lạy Thầy, xin cứu con.”
Bàn tay Chúa đưa ra nắm lấy ông và đưa ông về thuyền.
“Người kém tin, tại sao lại hoài nghi!”
Hoài nghi và sợ hãi đã làm Phêrô trở nên nặng nề,
và nhận chìm ông xuống.
những bước chân của lòng tin mạnh mẽ.
Nhưng khi gió lồng lên dữ dội, nỗi sợ hãi ùa vào,
lòng tin bị chao đi với sóng,
lúc đó Phêrô thấy mình bị hút xuống lòng biển.
Ông chỉ kịp kêu lên: “Lạy Thầy, xin cứu con.”
Bàn tay Chúa đưa ra nắm lấy ông và đưa ông về thuyền.
“Người kém tin, tại sao lại hoài nghi!”
Hoài nghi và sợ hãi đã làm Phêrô trở nên nặng nề,
và nhận chìm ông xuống.
Chúng
ta chỉ bắt đầu hiểu tin là gì
khi phải chịu lênh đênh giữa sóng gió và đêm tối
chỉ vì Chúa buộc phải ra đi,
khi dám xin đi trên mặt nước
dù Chúa chỉ là cái bóng trước mặt.
khi phải chịu lênh đênh giữa sóng gió và đêm tối
chỉ vì Chúa buộc phải ra đi,
khi dám xin đi trên mặt nước
dù Chúa chỉ là cái bóng trước mặt.
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có
bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.
Ði trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.
Ði trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin
cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: Biển
đời.
Có một cậu bé xin
đi biển để học nghề làm thuỷ thủ. Ngày nọ trời dông bão, người ta bảo cậu leo
lên cột buồn. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt ngước lên
trời. Nhưng đến lưng chừng, cậu phạm phải một sai lầm, đó là cậu nhìn xuống mặt
biển dậy sóng. Thế là cậu bị chóng mặt như muốn ngã xuống. Thấy vậy, một thuỷ
thủ già bèn la lên: Này cậu bé, hãy nhìn lên trời. Nghe theo lời chỉ dẫn trên,
cuối cùng cậu bé đã leo tới đỉnh cột buồm một cách an toàn.
Lỗi lầm của cậu bé
giống hệt lỗi lầm của Phêrô qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Cậu bé đã rời mắt
khỏi bầu trời và đã nhìn xuống mặt biển dông bão như Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa
và nhìn xuống những ngọn sóng.
Điều này cũng
thường xảy đến với mỗi người chúng ta. Thực vậy, có những lúc trong cuộc đời,
chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện đầy quyền năng và yêu thương của Chúa,
nhất là những lúc chúng ta được may mắn và những thành công như mỉm cười với
chúng ta. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng sóng yên biển lặng. Trái lại cuộc
đời của chúng ta cũng có những ngày phong ba và bão táp. Chính trong những giờ
phút đen tối này, chúng ta dễ dàng rời xa Chúa, chúng ta dễ dàng từ bỏ Ngài để
đi tìm những sự vật khác, để rồi bản thân chúng ta bị chao đảo, mất thăng bằng
và chìm xuống.
Đoạn Tin Mừng sáng
hôm nay mời gọi chúng ta hãy thẳng thắn kiểm điểm lại đời sống của mình. Nếu
lúc này, chúng ta không cảm nhận được sự bình an, niềm vui mừng và hy vọng thì
chắc chắn đó là vì chúng ta đã lìa xa Chúa. Nếu như lúc này chúng ta đang chao
đảo và như muốn chìm xuống đáy nước, thì chắc hẳn đó là vì chúng ta đã không
còn tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa. Hãy quay trở về cùng Chúa và hãy
kêu lên như thánh Phêrô: Lạy Chúa, xin cứu vớt con. Chắc chắn Ngài sẽ ra tay
phù trợ, bởi vì Ngài không phải chỉ là một Thiên Chúa quyền năng, có thể làm
được những sự chúng ta kêu van, mà hơn thế nữa, Ngài còn là một người cha đầy
lòng thương xót, luôn sẵn sàng cứu vớt và nâng đỡ chúng ta ở mọi nơi và trong
mọi lúc. Có Chúa cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, chúng ta sẽ không
còn sợ hãi trước những phong ba và bão táp, chúng ta sẽ không còn lo lắng trước
những gian nan và thử thách như lời thánh vịnh đã viết: Ví như Chúa chẳng xây
nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công, thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh
kiện tước cũng không ra gì.
Và để kết luận,
chúng ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau đây của một câu danh ngôn: Có
Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Trái lại, nếu không có Chúa,
thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Vị thánh trong ngày _ 10/8
Thánh Lôrensô
(thế kỷ thứ ba)
Quan Tổng Trấn Rôma ra
lệnh cho Lôrensô phải đem hết tài sản của Giáo Hội cho ông. Lôrensô đi khắp
thành phố, quy tụ mọi người nghèo khổ, đau yếu được Giáo Hội giúp đỡ. Khi trình
diện họ trước mặt quan, ngài nói: "Ðây là tài sản của Giáo
Hội!"
Thánh Lôrensô là một trong bảy nô bộc (phó tế)
của giáo hội chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và ngài được giao cho
trách nhiệm "quản lý tài sản của giáo hội". Khi sự cấm đạo dưới thời
hoàng đế Valerian bùng nổ, Thánh Giáo Hoàng Sixtus bị kết án tử hình cùng với
sáu phó tế khác. Khi đức giáo hoàng bị điệu ra pháp trường, Lôrensô đi theo
khóc lóc nức nở, ngài hỏi, "Cha ơi, cha đi đâu mà không cho nô bộc này
theo?" Ðức giáo hoàng trả lời, "Con ơi, ta không bỏ con đâu. Trong ba
ngày nữa, con sẽ theo ta." Nghe thấy thế, Lôrensô thật vui mừng, ngài về
phân phát hết tiền của trong kho cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục
đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát.
Quan Tổng Trấn Rôma, một người tham lam, nghĩ
rằng Giáo Hội có giấu giếm nhiều của cải. Do đó, ông ra lệnh cho Lôrensô phải
đem hết tài sản của Giáo Hội cho ông. Vị thánh trả lời, xin cho ba ngày. Thế là
ngài đi khắp thành phố, quy tụ mọi người nghèo khổ, đau yếu được Giáo Hội giúp đỡ.
Khi trình diện họ trước mặt quan, ngài nói: "Ðây là tài sản của Giáo
Hội!"
Giận điên người, quan tổng trấn xử phạt
Lôrensô phải chết cách thê thảm và chết dần mòn. Vị thánh bị cột trên một vỉ
sắt lớn với lửa riu riu để từ từ thiêu đốt da thịt của ngài, nhưng thánh nhân
đang bừng cháy với tình yêu Thiên Chúa nên hầu như ngài không cảm thấy gì. Thật
vậy, Thiên Chúa còn ban cho ngài sức mạnh đến độ có thể đùa bỡn. Ngài nói với
quan tòa, "Lật tôi đi chứ. Phía bên này chín rồi!" Và trước khi trút
hơi thở cuối cùng, ngài nói, "Bây giờ thì đã chín hết rồi." Sau đó
ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Ðức Kitô và cho Ðức Tin Công
Giáo được lan tràn khắp thế giới. Và ngài tiến lên lãnh nhận triều thiên tử
đạo.
(Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét