Trang

Thứ Bảy, 16 tháng 8, 2014

17-08-2014 : (phần II) CHÚA NHẬT XX MÙA THƯỜNG NIÊN năm A

17/08/2014
CHÚA NHẬT XX MÙA THƯỜNG NIÊN năm A
(phần II)

GL PÂ CHÚA NHẬT XX QUANH NĂM A
Sách Ngôn sứ Isaia 56,1.6-7;  Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Roma 11, 13-15.29-32
và Phúc Âm Thánh Matthêô 15,21-28

I.                   Giáo Huấn P.Â.:   
Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế cho toàn thể nhân loại.
Ai cũng được nhìn nhận là con cái Chúa và được đón nhận ơn cứu độ.
Lòng tin luôn bị thử thách. Thử thách giúp mạnh tin.
Người có đức tin mạnh “muốn sao thì sẽ được vậy!”

II.               Vấn nạn P.Â.    
Rõ rệt là Chúa kỳ thị và xúc phạm người đàn bà ngoại giáo khi nói “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!”
            Chúng ta đọc Phúc Âm và hiểu Phúc Âm theo ngôn ngữ và các h suy nghĩ của thời nay. Chúng ta nói Chúa kì thị khi nói “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó!”  Theo lịch sử ngôn ngữ học, từ discrimination hay kì thị mới được xử dụng vào năm 1648 tức khi người ta bắt đầu ý thức về quyền làm người. Trước đó, coi như không có kỳ thị hay kỳ thị không là vấn đề xấu.  Cũng như từ xúc phạm, tức abuse, có thể xúc phạm người khác cách thể lý như đánh đập hay hành hạ hoặc có thể xúc phạm bằng lời nói hay tâm lý khi làm người khác sợ sệt. Xúc phạm trong nghĩa abuse nầy xuất hiện và được xử dụng vào thế kỷ thứ 15 thôi.

            Chắc chắn trước đó có xúc phạm nhưng không là vấn để luật pháp hay tội phạm. Chúng ta có tghể hiểu được điều nầy khi thấy ở Việt Nam ngày trước chồng đánh vợ hay cha mẹ đánh con cái. Người ta cho đó là chuyện phải làm, vì thương con cho roi cho vọt hay dạy vợ dạy thuở ban sơ… Không ai đem chuyện nầy ra pháp luật cả. Nên khi Chúa Giêsu nói “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!”, Chúa không có ý khinh thị hay kỳ thị gì với người đàn bà dân ngoại nầy cả. Nhưng Chúa chỉ có ý thử thách lòng tin của bà ta thôi. Bằng chứng là bà ta đã vượt sự thử thách và Chúa đã cho bà toại nguyện “này bà! ,òng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy!”

            Miền Tia và Sidon: (Viết theo Bách Khoa Tự Điển)
            Sidon or Saïda là thành phộ lớn thứ ba ở Lebanon. Sidon toạ lạc ở phía Nam Lebanon, bên bờ biển Địa Trung Hải, cách Tia chừng 40 cây số và cách thủ đô Beirut chừng 40 cây số. Trong sách Sáng Thế Ký, Sidon là tên con trai của Canaan, con Ông Noe. Ngày nay Sidon có chừng 200 ngàn dân cư, phần lớn là người Sunni theo Hồi Giáo. Sidon được coi như pháo đài của người Sunni ngày nay. Những sắc dân còn lại như Công Giáo Hy Lạp hay Tin Lành Maronites hay người Hồi Shiite chỉ chiếm thiểu số.

            Sidon đã có từ lâu đời phải đến hơn 4000 năm trước Chua Giáng Sinh. Nó là một trong những hải cảng quan trọng của người Phênicia. Nó là điểm thương mại lớn của Địa Trung Hải. Đàn Ông chuyên nghể thủ công. Đàn bà có năng khiếu thêu đan. Thành phố Tia gần đó cũng dần dà được phát triển nhờ sự phồn thịnh của Sidon. Sidon lần lược bị chiếm cứ bởi các vua người Assyria, người Babylon, người Ai Cập và người Hy Lạp và sau cùng là Roma. Kinh Thánh cho thấy là cả Chúa Giêsu và Thánh Phaolô đã từng thi hành việc truyền giáo ở Sidon. Thời Chúa Giêsu, Sidon và Tia được liệt kê vào vùng đất dân ngoại giáo. Người Do Thái không có qua lại với người ngoại giáo nầy. Tuy nhiên, Chúa Giêsu thỉnh thoảng tiêu pha một thời gian ngắn với dân ngoại nhất là khi ngài bị người Do Thái ngược đãi. Chúng ta có thể thấy sự liên hệ của Chúa với dân ngoại được diễn tả trong Matthêô 15, 21-28; Gioan 6:15; Luca 13:31 và Marcô 7:31

            “Lạy Ngài là Con Vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” Sao một người đàn bà ngoại giáo chưa từng một lần gặp Chúa mà lại biết tuyên xưng Chúa là Con Vua Đavít?
            Phần nhiều người ta cho rằng: Vì danh tiếng Chúa Giêsu đồn đải rất xa, nên gần như cả đất nước Do Thái và vùng phụ cận đều biết Chúa Giêsu là người của Thiên chúa, chuyên môn làm phép lạ chữa bệnh tật.Tuy nhiên, chúng ta biết rằng, Phúc Âm Matthêô thành hình 50 năm sau khi Chúa về trời. Phúc Âm là giáo lý của các tông đồ. Các Ngài không ghi Phúc Âm theo kiểu phóng sự hay ký sự nhưng chỉ là chuyện ghi lại để dạy giáo lý. Giáo lý các tông đồ là Chúa Giêsu làm người là Con Thiên và là Thiên Chúa thật. Nên câu tuyên xưng đức tin nầy phát xuất từ miệng người phụ nữ ngoại giáo để nói rằng: Người ngoại giáo mà còn nhận ra Chúa Giêsu là Con Vua Đavít là Đấng Cứu Thế thì huống chi là người Do Thái chính gốc, những người đã từng được biết Đấng Cứu Thế đến từ dòng vua Đavít.

III.      Thực Hành P.Â.      
Chúa giàu lòng thương xót: Thấy dân chúng theo Chúa đói khát, Chúa chạnh lòng thương xót hoá bánh ra nhiều nuôi dân. Thấy người đàn bà kiên trì cầu xin cho con cái mình, Chúa cho bà được toại nguyện.
            Chúa giàu lòng thương xót. Xin chạy đến với Ngài như di chúc của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.  "Từ Balan, sẽ trổi lên một tia sáng, để chuẩn bị thế giới cho lần trở lại thứ hai của Ta". Đó là lời Chúa hứa qua thánh nữ Faustina. Tia sáng đó chính là Đức Giáo hoàng GP II, đấng thiết lập cho toàn thế giới Lễ Kính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mừng kính vào Chúa Nhật liền sau Lễ Phục Sinh. Ngài đã được phong Chân Phước vào chính ngày Lễ Kính Lòng Thuơng Xót của Chúa, tức ngày 01-05-2011.

 Trích Di chúc của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (qua đời ngày 02.04.2005 áp lễ kính Lòng Chúa Thương Xót)

"Các con thân mến!

            Hiện nay các con đang sống trong thời đại đầy gian nguy và thử thách. Các con hãy cố gắng kiên tâm vững tin vào Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu đã hiện ra nói với cha, nhờ cha thông báo lại cho các con những sứ điệp này: “Các con hãy cầu khẩn Thiên Chúa các con, giải trừ nguy nan trong thế giới sắp sụp đổ này”.
            Các con thân mến, khi cha ra đi cũng chính là lúc những biến cố thảm họa sẽ đổ xuống thế giới này: chiến tranh ngày càng lan rộng, động đất khắp nơi, các cuộc đại nạn lớn lao sẽ xảy ra, tại các nước lớn như Nhật bản, Trung quốc, Philippin.

            Các con là những người cha tin yêu nhất, là những người con thuộc dòng dõi Đavít[1], các con hãy kêu xin cùng Thiên Chúa, bằng cách các con đọc kinh cầu nguyện:

Với những lời kinh tha thiết sau đây:
            Xướng    :  Xin Thiên Chúa dủ lòng thương xót chúng con!
            Đáp        :   Vì Chúa đã sinh ra chúng con, và đặt chúng con trên trái đất này.
            Xướng    :  Xin an ủi nâng đỡ chúng con trong lúc gian nguy.
            Đáp        :  Vì Chúa là nguồn an ủi của chúng con.
            Xướng    :  Xin xua đuổi những giặc thù xa chân chúng con.
            Đáp        :  Vì Chúa là Đấng đã bảo vệ chúng con.

           Kết         :  Xin phù hộ chúng con trên đường dương thế, tránh xa kẻ thù tội lỗi, để chúng con một ngày kia, sẽ được hưởng phúc vinh quang muôn đời, cùng với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen. Sau những lời nguyện trên, các con hãy đọc:

-   Một kinh Tin kính  -   Một Kinh Chúa Thánh Thần -   Một Kinh ăn năn tội
-   Và lời nguyện tắt: “Giêsu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi linh hồn con và muôn dân muôn nước”.

            Khi các con phổ biến một bản kinh này cho một người thì các con được hưởng một ơn tiểu xá, cứ 100 người thì được một ơn đại xá. Và khi các con rời thế gian này, sẽ được các Thiên Thần đưa về Trời, hưởng hạnh phúc muôn đời.    Cha ban phép lành và chúc phúc cho những ai phổ biến bản kinh này.

 (Trích dịch “Di chúc của ĐTC GP II”, theo bản tiếng Anh của cha Lorenso thuoc Bộ Giáo Lý Đức tin, Rôma.)

            Gương chạnh lòng thương xót:
            Linh Mục Sống Nghèo Để Có Tiền Giúp Người Nghèo: ... Tại số 13 đường Daubenton quận V của Paris, thủ đô nước Pháp, có một ngôi nhà 7 tầng được chỉnh trang lại. Ngôi nhà chia thành nhiều căn hộ, trong đó 8 căn hộ được giao cho 8 gia đình nghèo, không có tiền thuê nhà nơi chung cư ..Bởi đâu có phép lạ xảy ra giữa lòng thủ đô hoa lệ, ngay nơi khu phố diễm lệ nhất Paris: có những thành phần bị coi là “ngoài lề xã hội” lại được ở trong một tòa nhà sang trọng như thế? Thưa tất cả là nhờ công lao của Cha Bernard Devert, vị Linh Mục của những người nghèo vô gia cư.

            Cha Bernard Devert sinh trưởng trong một gia đình Công Giáo ở Lyon, miền Nam nước Pháp. Bernard là anh cả của 4 người em. Năm lên 13 tuổi, một ngày từ trường học trở về, Bernard bắt gặp khuôn mặt thân mẫu dàn dụa nước mắt. Khi cậu hỏi, mẹ cậu trả lời:

- Mẹ không còn một đồng xu để mua bánh mì cho các con ăn!

            Khám phá bất ngờ về sự nghèo túng của gia đình đã gieo vào lòng cậu bé một suy tư sâu thẳm. Bỗng chốc cậu ý thức được cái dòn mỏng của thân phận con người trước cái sung túc giàu sang. Tự thâm tâm, Bernard thề quyết:  Nhất định phải thành công trong cuộc đời!

            Biến cố thứ hai cũng ghi đậm nét trong ký ức của Bernard và là yếu tố chính đưa đến chọn lựa con đường Linh Mục. Trong thời đệ nhị thế chiến 1939-1945, thân phụ của Bernard bị quân đức quốc xã đày sang trại tù lao động khổ sai ở Gross-Rosen bên Ba Lan. Bernard kể: Sở dĩ Ba tôi sống sót và trở về gia đình được là nhờ Đức Tin sâu xa của người. Thời gian tù đày đã dạy thân phụ tôi bài học tha thứ. Người thật lòng tha thứ cho những kẻ thù hành hạ ngược đãi người.

            Năm 20 tuổi, Bernard ghi tên theo học ngành luật. Nhưng rồi chàng bỏ dở việc học và xin vào làm việc nơi hãng thầu xây cất nhà cửa của thành phố Lyon. Chàng hăng say làm việc và thành công trong nghề nghiệp. Chàng kiếm được khá nhiều tiền. Nhưng rồi một biến cố bất ngờ xảy ra làm đảo lộn cuộc đời chàng. Vào một buổi sáng năm 1980, có người gọi điện thoại báo cho chàng biết là một cụ bà toan tính tự tử trong căn hộ nơi một chung cư của quận VI thành phố Lyon. Đây là chung cư mà hãng chàng định đập phá, hủy bỏ.

            Chàng tức tốc chạy đến nhà thương. Chàng nhẹ nhàng trách cụ bà: Cụ biết rõ là thế nào người ta cũng đưa cụ sang một căn hộ khác mà! Cụ bà chống chế: Có, lão có nghe! Nhưng rời xa một nơi mà lão đã sống suốt đời, quả thật rất khó. Hơn nữa, lão quá nghèo. Còn mấy ông, mấy ông có quyền đưa lão đi chỗ khác, bởi vì mấy ông sắp sửa xây cất nhà cho người giàu!

            Câu nói hờn-tủi của bà cụ gieo vào lòng chàng Bernard một ý thức sâu xa về các bất công xã hội. Chàng cảm thấy hổ thẹn về hành động bẩn-thỉu của mình! Tự nơi đáy lòng chàng thề quyết: Từ đây mình sẽ là người điều hợp phân phối nhà cửa không giống ai hết!

Sau khi suy nghĩ, chàng đến gặp Đức Hồng Y Albert Décourtray (1923-1994), lúc bấy giờ là Tổng Giám Mục Lyon. Chàng nói: Thưa Đức Hồng Y, con muốn vừa phục vụ Chúa vừa hành nghề. Nếu có các Linh Mục thợ thì tại sao tại không có các Linh Mục trong số các ông chủ thầu?

Đức Hồng Y Décourtray chấp thuận cho chàng vừa theo học thần học tại phân khoa Công Giáo của đại học Lyon vừa làm việc nơi hãng thầu xây cất nhà cửa, với điều kiện: Chàng không được lãnh lương! Anh Bernard Devert vui vẻ chấp nhận. Năm ấy chàng 35 tuổi.

            Dĩ nhiên con đường theo đuổi ơn gọi Linh Mục không mấy dễ dàng. Nhưng thầy Bernard thắng vượt tất cả. Thầy quy tụ một số nhân vật có đủ khả năng tài chánh để thành lập Hội ”Habitat et Humanisme - Gia Cư và Nhân Bản”. Hội quyên góp tiền bạc rồi xây nhà để bán. Với số tiền lời thu được, Hội sẽ mua một số căn hộ trong cùng chung cư đó và cho những người không nhà cửa đến ở. Như vậy, trong các chung cư của Hội, luôn luôn lẫn lộn, pha trộn giữa hai hạng người giàu và nghèo: Người giàu mua nhà để ở và người nghèo được cho nhà để ở mà không phải trả tiền.

            Năm 1987, thầy Bernard Devert được thụ phong Linh Mục. Từ đó Cha Bernard vừa thi hành chức vụ Linh Mục vừa giữ nhiệm vụ điều hợp việc phân phối nhà cửa cho những người nghèo vô gia cư, nơi thành phố Lyon ..Cha Bernard sống nghèo để có tiền giúp đỡ người nghèo. Chưa hết, từ năm 1997, Cha còn giữ nhiệm vụ Tuyên Úy cho trung tâm chống ung thư Léon-Bérard. Cha thường dành thời giờ ban đêm để thăm viếng ủi an và giúp đỡ các bệnh nhân hấp hối.

... Đức Chúa GIÊSU phán: ”Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ. Ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Matthêu 10,40-42). (”Reader's Digest SÉLECTION”, Novembre/1997, trang 90-92 -  Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt)

Lm Phêrô Trần Thế Tuyên


Sống niềm tin
Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: "Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu". Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Đôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta". Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Đền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa".
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Đây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Lectio Divina: Chúa Nhật XX Thường Niên (A)
Chúa Nhật, 17 Tháng 8, 2014

1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh cùng với tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.  Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

 2.  Bài Đọc

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gặp một người đàn bà dân ngoại, một việc cấm kỵ vì lý do tôn giáo vào thời bấy giờ.  Thoạt đầu, Chúa Giêsu không để ý đến người phụ nữ này, nhưng bà ta quyết chí và đã toại nguyện.  Bài Tin Mừng này sẽ giúp chúng ta hiểu được làm thế nào Chúa Giêsu đã biết và đưa ý muốn của Thiên Chúa vào sự thực hành.    

b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt 15:21-22:  Tiếng kêu cứu của người đàn bà
Mt 15:23-24:  Sự im lặng kỳ lạ của Chúa Giêsu và phản ứng của các môn đệ
Mt 15:25-26:  Lời cầu khẩn lặp lại của người đàn bà và sự từ chối lần nữa của Chúa Giêsu
Mt 15:27-28:  Cố gắng lần thứ ba của người đàn bà cầu xin chữa lành cho con gái của mình.

c)  Phúc Âm:  
21-22:  Ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđôn, thì liền có một người bà quê ở Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên cùng Người rằng:  “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!  Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!
23-24:  Nhưng Người không đáp lại một lời nào.  Các môn đệ đến gần Người mà xin rằng:  “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi.”  Người đáp:  “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.”
25-26:  Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng:  “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”  Người đáp:  “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà vứt cho chó.”
27-28:  Bà ấy đáp lại:  “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống.”  Bấy giờ Chúa Giêsu đáp:  “Này bà, bà có lòng mạnh tin.  Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”  Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý:

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

a)  Điều gì trong đoạn Tin Mừng tạo sự chú ý cho tôi nhất và phần nào tôi thích nhất? 
b)  Bốn nhân vật xuất hiện trong đoạn Tin Mừng:  người đàn bà, đứa con gái của người đàn bà, các môn đệ và Chúa Giêsu.  Tin Mừng nói gì về thái độ của mỗi người? Bạn nhận thấy thái độ của bạn giống nhân vật nào nhất?  Tại sao?            
c)  Chúa Giêsu nói rằng sứ vụ của Người không cho phép Người lắng nghe lời cầu khẩn của người đàn bà.  Nhưng ngay sau đó Người ban cho bà lời cầu xin ấy.  Bạn giải thích về sự thay đổi thái độ cách đột ngột của Chúa Giêsu như thế nào? 
d)  Làm thế nào mà câu đối đáp của người đàn bà liên quan đến những con chó và các mảnh bánh vụn đã ảnh hưởng đến Chúa Giêsu?
e)  Tại sao những lời ấy tỏ lộ một đức tin mạnh mẽ của người đàn bà?
f)  Những lời của Chúa Giêsu có thể giúp cho cộng đoàn chúng ta phát triển trong đức tin như thế nào?

5.  Chìa khóa của bài đọc

Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong bài Tin Mừng.

a)  Bối cảnh Tin Mừng Mátthêu trong đó đã gìn giữ bảo tồn Lời của Chúa Giêsu:

*  Tin Mừng Mátthêu, được viết vào khoảng năm 85 sau công nguyên, được viết cho cộng đoàn Do Thái đạo đức và tuân giữ lề luật, đã cải đạo để tin vào Chúa Giêsu.  Noi gương Đức Giêsu, họ tiếp tục sống theo truyền thống người Do Thái, tuân giữ lề luật Môisen một cách tuyệt đối.  Nhưng giờ đây, vào những năm 80, họ thấy mình bị rơi vào trong một tình huống mâu thuẫn.  Sau sự tàn phá của thành Giêrusalem (năm 70), những người Biệt Phái, các anh em cùng chủng tộc của họ, đã bắt đầu tái tổ chức Do Thái giáo, và nhân danh lòng trung thành với Luật Môisen, đã tìm cách ngăn cản sự lan truyền của Kitô giáo càng ngày càng tăng.  Họ đã tới mức trục xuất những Kitô hữu ra khỏi các hội đường.  Sự thù nghịch không lường trước này đã đưa cộng đoàn Kitô hữu Do Thái vào cuộc khủng hoảng sâu xa.  Cả người Biệt Phái và Kitô hữu đều tuyên bố trung thành với lề luật của Thiên Chúa.  Ai là người nói đúng?  Thiên Chúa đứng về phe nào đây?  Các di sản của dân tộc Do Thái thuộc sẽ về ai, thuộc về hội đường hay thuộc về Giáo Hội?

*  Một cách chính xác để khuyến khích và hỗ trợ nhóm Kitô hữu Do Thái này, Mátthêu đã viết nên quyển Tin Mừng của ông.  Ông viết để xác nhận với họ trong đức tin rằng Chúa Giêsu đích thực là Đấng Cứu Thế, Người là tột điểm của toàn bộ lịch sử Cựu Ước.  Ông viết để gia tăng sức mạnh cho họ khi họ ở giữa chốn thù địch, giúp họ vượt qua được những tổn thương của sự chia lìa với anh em.  Ông viết đểgọi họ về một thói quen mới của đời sống, cho họ thấy con đường dẫn đến hình thức công lý mới, tốt hơn so với của những người Biệt Phái.

*  Trong bối cảnh này, người đàn bà Canaan đã cho cộng đoàn thấy làm cách nào mà cùng một Đức Giêsu đã bước những bước cụ thể vượt qua các giới hạn của một tôn giáo áp đặt lên chính nó và làm cách nào mà Người đã vượt qua nguyên tắc truyền thống để nhận thức rõ ý muốn của Thiên Chúa.

b)  Lời bình giải về Lời của Chúa Giêsu được gìn giữ trong Tin Mừng Mátthêu: 


Mt 15:21:  Chúa Giêsu lui khỏi vùng đất người Do Thái
Trong cuộc thảo luận liên quan đến những gì là thanh khiết và những gì không, Chúa Giêsu đã giảng dạy những điều ngược lại với truyền thống của tiền nhân, tuyên bố tất cả các thức ăn phải được tẩy sạch, đã giúp dân chúng và các môn đệ thoát khỏi các ràng buộc của lề luật thanh tẩy (Mt 15:1-20).  Giờ đây, trong câu chuyện người đàn bà xứ Canaan này, Chúa Giêsu lui khỏi xứ Galilêa, đi vượt ra ngoài biên giới lãnh thổ quốc gia và chào đón một người phụ nữ ngoại quốc không thuộc cùng chủng tộc và bị cấm tiếp chuyện.  Tin Mừng của Máccô nói cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã không muốn được biết đến.  Người muốn giữ kín danh tánh.  Nhưng điều hiển nhiên là danh tiếng của Người đã lan truyền khắp vùng (Mc 7:24).  Dân chúng đã biết về Người và một người phụ nữ bắt đầu đến kêu cầu cùng Người.     

Mt 15:22:  Lời kêu cầu của người đàn bà
Người đàn bà khác chủng tộc và tôn giáo.  Bà bắt đầu cầu xin cho con gái mình đã bị quỷ ám được chữa lành.  Những người dân ngoại không có vấn đề khi phải chạy đến cậy nhờ vào Chúa Giêsu.  Tuy nhiên, người Do Thái có vấn đề cùng hiện hữu với dân ngoại!  Lề luật cấm họ liên lạc với một người khác tôn giáo hoặc chủng tộc.
   
Mt 15:23-24:  Sự yên lặng kỳ lạ của Chúa Giêsu và phản ứng của các môn đệ
Người đàn bà kêu lớn tiếng, nhưng Đức Giêsu không đáp lại lời nào.  Một thái độ lạ lùng!  Bởi vì nếu có một điều chắc chắn trong suốt toàn bộ Kinh Thánh, từ đầu đến cuối, thì điều đó là Thiên Chúa luôn lắng nghe tiếng kêu cầu của kẻ bị áp bức.  Nhưng ở đây Chúa Giêsu đã không lắng nghe.  Người không muốn lắng nghe.  Tại sao?  Ngay cả các môn đệ cũng ngạc nhiên bởi thái độ của Chúa Giêsu và xin Người nói điều gì với người đàn bà ấy.  Các ông muốn thoát khỏi tiếng kêu la nên đến gần Người mà xin rằng:  “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”.  Chúa Giêsu giải thích sự im lặng của mình:  “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel.”  Sự im lặng của Người được kết nối với nhận thức về sứ vụ của Người và lòng trung thành của Người với lề luật của Thiên Chúa.  Hình thức thụ động cho thấy là đối tượng của việc chủ động là Chúa Cha.  Như thể Người đã nói:  “Chúa Cha không muốn Thầy nghe lời cầu xin của người đàn bà này, bởi vì Người đã sai Thầy chỉ đến cùng chiên lạc nhà Israel mà thôi!”  Cùng một lý do, vào thời điểm Mátthêu viết quyển Tin Mừng, những người Biệt Phái đã nói rằng:  “Chúng ta không thể tiếp xúc với dân ngoại!”

Mt 15:25-26:  Người đàn bà lặp lại lời cầu xin và Chúa Giêsu lại từ chối bà ta.
Người đàn bà không nao núng trước lời từ chối của Chúa Giêsu.  Tình yêu của người mẹ dành cho đứa con gái đau ốm không nề hà các quy tắc tôn giáo hay là phản ứng của người khác, nhưng tìm kiếm sự chữa trị bất cứ nơi nào mà linh tính của bà dẫn bà đến, đó là, nơi Chúa Giêsu!  Bà ta chạy đến gần hơn, thủ phục dưới chân Chúa Giêsu và tiếp tục van xin:  “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”.  Trung thành với các quy tắc của tôn giáo, Chúa Giêsu trả lời với một dụ ngôn và nói rằng không nên lấy bánh của cho con cái mà ném cho chó.  Sự so sánh được lấy từ cuộc sống hằng ngày.  Ngay cả ngày nay, chúng ta thấy nhiều trẻ em và chó con trong những nhà của người nghèo.  Chúa Giêsu nói rằng không có người mẹ nào lấy bánh từ miệng con cái mình mà ném cho chó.  Một cách cụ thể, con cái là nhà Israel và chó con là dân ngoại.  Hết chuyện!  Vâng lời Chúa Cha và trung tín với sứ vụ của Người, Chúa Giêsu đi trên con đường của mình mà không đoái hoài đến lời cầu xin của người đàn bà!   

Mt 15:27-28:  Cầu xin lần thứ ba, người đàn bà nhận được sự chữa lành cho con gái bà
Người đàn bà không chịu thua.  Bà ấy đồng ý với Chúa Giêsu, nhưng bà tán rộng sự so sánh và áp dụng vào trong trường hợp của mình:  “Vâng, lạy Ngài, nhưng chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống.  Bà ấy chỉ đơn giản rút ra kết luận từ hình ảnh đó, cho thấy rằng trong nhà của người nghèo (và ở trong nhà của Chúa Giêsu cũng thế) chó con được ăn những mảnh bánh vụn rơi từ bàn những đứa trẻ.  Hơn nữa, khi chính Chúa Giêsu còn là một cậu bé cũng có thể đã thảy những vụn bánh cho những con chó đang lẩn quẩn dưới gầm bàn nơi Người ngồi ăn với cha mẹ Người.  Và trong “nhà của Chúa Giêsu”, đó là, cộng đoàn Kitô hữu của thời ông Mátthêu, vào cuối thế kỷ thứ nhất, đã có “mười hai giỏ đầy” các mảnh vụn (Mt 14:20) cho các “con chó”, đó là, cho những dân ngoại!
Chúa Giêsu lập tức phản ứng:  “Này bà, bà có lòng mạnh tin!”  Người đàn bà đã đạt được những gì bà xin.  Ngay lúc đó con gái bà đã được lành.  Lý do mà Chúa Giêsu đã đáp ứng là Người đã hiểu rằng Chúa Cha đã muốn Người đáp lại lời cầu xin của người đàn bà.  Cuộc gặp gỡ với người đàn bà Canaan đã giải thoát Người khỏi nhà tù chủng tộc và mở ra cho Người đến với toàn thể nhân loại.  Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu đã khám phá ra ý muốn của Chúa Cha bằng cách lắng nghe những phản ứng của dân chúng.  Thái độ của người đàn bà dân ngoại này đã mở ra chân trời mới cho Chúa Giêsu và đã giúp Người có một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thành kế hoạch của Chúa Cha.  Ân sủng của đời sống và ơn cứu độ được dành cho tất cả những ai tìm kiếm sự sống và cố gắng giải thoát chính họ khỏi những liên hệ gò bó năng lượng sự sống.  Cảnh này giúp chúng ta nhận biết được chút ít về mầu nhiệm bao quanh con người của Chúa Giêsu, cách thức trong đó Người đã được hiệp thông với Chúa Cha và làm thế nào Người khám phá ra ý muốn của Chúa Cha trong các sự kiện của đời sống.

6.  Thánh Vịnh 6                                                                                                                        
Chúng ta hãy hiệp nhất cho tiếng kêu cầu của các bà mẹ cho các con của họ
Lạy CHÚA, xin đừng trách mắng con khi thịnh nộ,
đừng sửa trị con lúc nổi lôi đình.
Lạy CHÚA, xin đoái thương, này con đang kiệt sức,
chữa lành cho, vì gân cốt rã rời.
Toàn thân con rã rời quá đỗi,
mà lạy CHÚA, Chúa còn trì hoãn đến bao giờ?
Lạy CHÚA, xin trở lại mà giải thoát con,
cứu độ con, bởi vì Ngài nhân hậu.
Chốn tử vong, ai nào nhớ Chúa,
nơi âm phủ, ai ngợi khen Ngài?
Rên siết đã nhiều, nên con mệt mỏi,
trên giường ngủ, những thổn thức năm canh,
từng giọt vắn dài, lệ tuôn đẫm gối,
mắt hoen mờ vì quá khổ đau,
thêm suy nhược bởi quân thù vây hãm.
Đi cho khuất, hỡi bọn làm điều ác,
vì CHÚA đã nghe tiếng nức nở ta rồi,
CHÚA đã nghe tiếng ta cầu khẩn,
CHÚA đón nhận lời ta nguyện xin.
Ước gì hết mọi kẻ thù tôi
phải nhục nhã, rụng rời kinh khiếp,
vội tháo lui, nhục nhã ê chề.
7.  Lời Nguyện Kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét